Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1441350

CÓ CHÚA CÙNG ĐI

Có Chúa cùng đi

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi chỉ muốn đưa ra một hình ảnh đẹp, đó là hình anh Chúa Giêsu cùng sánh bước với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Vậy hình ảnh đẹp này đem lại những hậu quả nào cho cuộc sống của chúng ta?

Cựu Ước đã đưa ra một kinh nghiệm, một xác tín, đó là nếu có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ không còn lo lắng sợ hãi, đồng thời sẽ có đủ nghị lực, nếu không thành công rực rỡ, vượt qua những gian nguy thử thách, thì ít nữa cũng biết chịu đựng cho nên. Thánh Vịnh đã viết: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cò xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Hay như một Thánh Vịnh khác cũng đã xác quyết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nể vất vả chỉ là uồng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Niềm xác tín này cũng đã được Chúa Giêsu thực hiện trong Tân Ước. Hẳn chung ta còn nhớ trong tiệc cưới Cana, sự có mặt của Chúa Giêsu đã đem lại phép lạ đầu tiên, khiến nước lã biến thành rượu ngon, để đôi tân hôn không bị bẻ mặt với khách dự tiệc.

Cùng hoạt động với Chúa, chắc chắn sẽ thâu lượm được những thành quả tốt đẹp. Chính các tông đồ đã học được cái kinh nghiệm quý giá ấy. Đêm hôm đó, các ông ra khơi và thả lưới, vật lộn với sóng nước suốt cả một đêm, mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, ban sáng Chúa Giêsu hiện ra với các ông trên bờ biển và truyền cho các ông thả lưới, lập tức các ông đã có được một mẻ lưới lạ lùng. Lần khác, thuyền các ông gặp phong ba bão táp, các ông đã phải đánh thưc Chúa Giêsu dậy, và với Chúa Giêsu lập tức sóng liền yên và biển liền lặng.

Và ngày hôm nay, hai môn đệ đang trên đường về làng Emmaus. Các ông bước đi mà cõi lòng thì ngập tràn một nỗi thất vọng đắng cay. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã hiện ra, đàm đạo với các ông và lòng các ông đã bừng lên ngọn lửa yêu mến và sau cùng, các ông đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh nơi quán trọ. Sau đó, các ông hối hả trở lại Giêrusalem, mừng vui kể lai sự việc cho các tông đồ được biết.

Chúng ta còn có thể kể ra những trường hợp khác nữa, để chứng tỏ rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu sẽ đem lại niềm an ủi và khích lệ, cũng như sẽ đem lại nguồn sức mạnh và can đảm để vượt qua những gian nan thử thách. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì Ngài có dư quyền năng để nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng có dư tình thương, để sẵn sàng ra tay trợ giúp cho chúng ta.

Tóm lại, cùng đi với Chúa, con người chúng ta sẽ không còn đơn côi, bản thân chúng ta sẽ vượt thắng được mọi hiểm nguy và cuộc đời chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.

 

7. Bình an của Chúa Phục Sinh

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ đến độ làm cho con người luôn bất an và lo sợ. Chẳng hạn, thất bại, rủi ro, mất an ninh, nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp hay thất tình... Những nỗi lo sợ này làm ta "ăn không ngon, ngủ không yên" và cũng có thể làm ta tuyệt vọng, thậm chí đánh mất niềm tin nơi bản thân hay tha nhân, thậm chí Thiên Chúa nữa.

Tâm trạng của các tông đồ hôm nay cũng buồn sầu và lo sợ sau cái chết của Thầy Giêsu. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma. Cho nên, điều đầu tiên Chúa phục sinh hiện đến với các ông là chúc bình an cho các ông và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với các ông. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Từ đó, các ông trở thành những chứng nhân về niềm tin bình an của Chúa Phục sinh cho thế giới một cách kiên cường và bất khuất.

Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, sự bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn ở lại trong chúng ta mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ và Rước Mình Thánh Ngài. Như vậy, sự bình an của Chúa luôn ngự trị nơi tâm hồn chúng ta, có nghĩa rằng chúng ta luôn có Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Cho nên, khi ngỏ lời với các tín hữu trong Sứ điệp Phục sinh năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng sức mạnh của người Kitô hữu đến từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và kêu gọi họ trở thành chứng nhân của hoà bình và công lý, nhất là cho những người ngày nay đang phải đau khổ tại những khu vực xảy ra bạo lực và khủng bố khốc liệt. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha kêu gọi hướng đến những người đang đau khổ: “những người thiệt thòi, người bị giam cầm, người nghèo và những người di dân thường bị từ chối, ngược đãi và loại trừ, người bệnh tật và người đau khổ, các trẻ em, đặc biệt những người là nạn nhân của bạo lực”. Ngài kêu gọi họ hãy lắng nghe những lời đầy an ủi của Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy đã sống lại và sẽ luôn ở với anh em”. Và trong sứ điệp, Đức Thánh Cha quả quyết rằng: “Người Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, là những hạt giống của một nhân loại khác, trong đó chúng ta tìm cách sống phục vụ lẫn nhau, không ngạo mạn, nhưng tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Ân sủng ấy là sức mạnh, chứ không phải sự yếu đuối. Nhưng, “những ai mang trong mình quyền năng của Thiên Chúa, tình yêu và công lý của Người thì không cần dùng đến bạo lực; họ nói và làm bằng sức mạnh của chân lý, của vẻ đẹp và tình yêu”.

Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có sự dữ nhưng hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.

Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.

 

8. Có Chúa cùng đi.

Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.

Hôm đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều, nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vưa đến nơi, chưa kịp nói gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.

Đúng thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình. Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi, Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng có Ngài.

Xưa kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.

Tại Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yeu thương. Rồi trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.

Mục sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa: Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ theo kiểu đo, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.

Hôm nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?

 

9. Emmaus.

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn khởi và hăng hái.

Thực vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ong bước theo Chúa với tham vọng vật chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa rộng lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ chức vụ này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến Chúa, nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị treo trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản và thất vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.

Như hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.

Trong việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức là những lợi ích trần gian và kết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu nhiên. Nếu để ý quá đến những kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình những đắng cay và thất vọng. Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ chúng ta cũng có đủ lý do để lạc quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế nào cũng có, dù không có ngay hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.

Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con đường tiến tới vinh quang.

Trái tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi. Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.

Ước gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.

 

10. Niềm tin thắng vượt sợ hãi

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin Mừng Lc 24: 35-48: Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh.

Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người thiếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn, càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu con thưa với vẻ do dự:

- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.

Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:

- Với đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu ?

Cậu trả lời: Con thấy rõ tới nữa đường ra cổng.

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: Từ đó con nhìn tới đâu nữa ?

- Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.

Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.

Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.

Thưa anh chị em,

Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối phục sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một "bóng ma" đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên "ma kìa!", nhưng đã được trấn an ngay: "Thầy đây, đừng sợ!" (Mc 6,47-50).

Chúng ta có thể đặt hai câu chuyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự phục sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác phục sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.

Chúa đã quở trách các tông đồ: "Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ ?" Lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạng thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: "Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ" (Có Thầy đây mà còn sợ gì)?. Rồi Ngài đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã "thức dậy" rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã phục sinh và đang sống với anh em.

Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: "Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây ?". Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.

Anh chị em thân mến,

Chúa Phục sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác phục sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các ông luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.

Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này, thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gủi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. "Đừng sợ, hãy tin!" "Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin ?" "Thầy đây, đừng sợ!" "Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai ?" "Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế ? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin ?"…Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: Chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!

Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết "Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".

home Mục lục Lưu trữ