Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1444899

CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG

Chúng tôi xin làm chứng

Anh chị em thân mến,

Sau khi Chúa tử nạn, bị chôn vùi trong mồ ba ngày, các môn đệ rất thất vọng; họ muốn trở về với công việc của riêng mình. Đúng lúc đó, Chúa xuất hiện củng cố niềm tin cho họ, giúp họ hiểu Lời Chúạ Chính Chúa cặn kẻ giải thích Kinh Thánh cho họ và còn nhấn mạnh: Người phải thực hiện cho trọn Lời Kinh Thánh đã nói trong Cựu Ước… Đây chính là điều mà Hội Thánh mong muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa nhật hôm nay

a/. Câu chuyện trên đường đi Emmau:

Câu chuyện này ít ai biết, chỉ một mình Luca thuật lạị Câu chuyện xảy ra vào chiều ngày chúa nhật phục sinh, trên quảng đường từ Giêrusalem tiến về Emmau, cách nhau lối 20 cs. Hai môn đệ cùng đi; một người tên Clêôphas, còn người kia không rõ tên… Họ đi một đổi đường rồi, Chúa Giêsu mới hiện ra và đi với họ, dù vậy họ chưa nhận ra là Chúạ Họ đang nói chuyện với nhau về biến cố Chúa tử nạn, họ đau buồn vì Chúa đã chết; họ chưa hiểu Người phải sống lạị Sau đó chính Chúa phải giải thích cặn kẻ cho họ Lời Kinh Thánh nói về Ngườị Lúc đó họ mới hiểu được; nhưng mãi cho tới khi Chúa cầm lấy bánh, chúc tụng, bẻ ra trao cho họ, mắt họ mới sáng lên và nhận ra là chính Chúa….

b/. Biến cố Chúa phục sinh đem lại hai điều cho các môn đệ của Chúa: Niềm vui vì Chúa phục sinh: câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau là một bằng chứng. Lúc họ bỏ Giêrusalem mà đi, họ buồn nản thất vọng bao nhiêu, thì khi hiểu được Chúa sẽ sống lại, nhất là khi nhận ra người lúc bẻ bánh, các ông vui mừng còn hơn thế nữạ Trong mấy lần hiện ra khác tại nhà Tiệc Ly, có đông đủ các tông đồ và môn đệ, khi Chúa hiện ra cho các ông thấy, họ vui mừng xiết bao vì, họ chưa hiểu rõ Lời Kinh thánh và những gì Chúa nói trước, nên họ nghỉ cái chết của Chúa là chấm hết những ước mong giải thoát Israel của họ “mộng vàng tan bay”. Chính vì thế, Chúa phục sinh chính là niềm vui sướng hạnh phúc cho họ…. các môn đệ nhận ra: Chúa luôn sống và đồng hành với họ: Chúa đã sống lại, không giống như Ladarô được Chúa cho sống lại, vì Ladarô vẫn còn phải chết một lần nữạ Chúa sống lại với chính thân xác của Chúa ngày xưa, nhưng đã được thần hóa, không cần phải ăn phải uống, không lệ thuộc vào không gian và thời gian; và Chúa không phải chết nữạ Với thân xác đó, các môn đệ vẫn có thể sờ mó, đụng chạm được. Chính Chúa khi hiện ra trên bờ biển hồ Tibêriađê, Người vẫn ngồi ăn với các ông… Điều chúng tôi muốn nói ở đây chính là Chúa sống lại với thân xác đó, trong một cuộc sống khác, không dễ nhận ra, nhưng Người vẫn luôn đồng hành, hiện diện bên các ông, như chính lời Chúa nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Trong mấy lần hiện ra khác, Chúa luôn ban bình an cho các môn đệ, an ủi khích lệ họ, để họ nhận ra người luôn đồng hành với họ…

Ai đã đọc cuốn sách: “Lửa thiêng Tây Nguyên”, thuật lại cuộc hành trình truyền giáo cho dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên của các cha thừa sai Paris, dưới quyền lãnh đạo của Đức Cha Cuénot, Giám mục địa phận Đông Đàng Trong (miền Trung Việt Nam); ngày hôm nay, ta gọi là địa phận Kontum. Thiên hồi ký này ghi lại cuộc hành trình truyền giáo từ năm 1850 – 1885 do cha Dourisboure thuật lạị Chúng ta sẽ thấy vô cùng cảm phục: Các vị truyền giáo sống giữa rừng thiêng nước độc, chịu đựng đủ mọi thứ hiểm nguy: ăn uống thiếu thốn, dả thú, bệnh tật, rình rập bắt bớ của quan quân triêu đình, thái độ e dè của kẻ ngoại cuồng tín. Vậy mà các ngài vẫn vững vàng. Lý do các ngài bền chí như thế, chắc chắn vì các ngài đã tin vững vàng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, để cho mọi người được sống. Trong khi đó, các bạn của cha Dourisboure, khi đến đây đã không sống quá 10 vì hung thần kiết lỵ và sốt rét rừng; chỉ có một mình cha sống được 35 năm mà thôi….

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Biến cố Chúa Kitô đã sống lại, đem lại niềm vui to lớn cho các tông đồ, các môn đệ. Biến cố này có phải cũng là niềm vui thực sự cho mỗi người kitô hữu chúng ta không?

 

  1. Tỉnh ngộ

Trong đời sống đức tin của người Kitô hữu, có rất nhiều việc chúng ta làm cách vô ý thức hay không chú tâm đủ. Rất nhiều lần, chúng ta làm những việc như đọc kinh, dự lễ, cầu nguyện… một cách máy móc, vô hồn và dĩ nhiên chẳng ích lợi gì cho chúng ta. Kết quả là chúng ta cảm thấy nhàm chán và mất đức tin với những công việc xem ra rất đạo đức ấy. Hoặc cũng có thể, chúng ta làm những việc xem ra rất đúng luật hay rất đúng với những Lời Chúa dạy, nhưng với mục đích khác: làm để được khen, để lấy uy tín, để nổi danh hay tìm một chỗ ẩn náu an toàn. Quả là đôi khi thân xác chúng ta ở bên Chúa mà lòng thì thật là xa Chúa: “Đồng sàng nhưng dị mộng”. Và dĩ nhiên, kết cuộc của những gì là tính toán, là vụ lợi, là ích kỷ… sẽ dẫn đưa con người vào ngõ cụt và bóng tối. Giuđa tông đồ là một mẫu gương cho chúng ta nhìn ngắm.

Hãy tỉnh ngộ!

Câu chuyện 2 người môn đệ trên đường Emaus trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta nhiều điều để suy gẫm trong chiều hướng “tỉnh ngộ” trong đời sống đức tin và bước đi theo Chúa.

Chúng ta thử hỏi mục đích của 2 môn đệ này bước đi theo Chúa và làm môn đệ của Chúa Giêsu là gì; có đúng với ý muốn của Chúa Giêsu khi kêu gọi họ bước theo Ngài không? Tôi nghĩ là không. Vì chính miệng lưỡi của họ đã nói lên nỗi niềm của họ khi được dịp tâm sự và thổ lộ: “Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel “. Chữ “cứu” ở đây theo ý của họ là giải thoát Israel khỏi sự đô hộ của Đế quốc Rôma đang cai trị đất nước của họ bằng con đường làm chính trị. Họ quan niệm Đấng cứu thế theo kiểu thế gian: Một Đấng Messia làm chính trị và được dành riêng cho Israel. Vì mang hy vọng hão huyền như thế, nên họ đâu thấy được Chúa thực hiện điều gì theo như điều họ muốn và nghĩ tưởng. Đây cũng là hy vọng và suy nghĩ của một số đông các tông đồ được Chúa kêu gọi và tuyển chọn trong Nhóm 12. Rõ ràng là “đồng sàng nhưng dị mộng”.

Không phải vì Chúa Giêsu không dạy hay không nói cho họ biết về sứ mạng của Ngài; cũng không phải Ngài không giáo dục họ về vai trò môn đệ của họ khi bước đi theo Ngài. Nhưng vì họ mải mê trong những dự tính riêng của mình nên không hiểu hay hiểu sai những lời Chúa dạy và những việc Chúa làm. Chẳng hạn, 2 anh em Giacôbê và Gioan luôn nuôi trong mình ước muốn là làm sao khi Đức Giêsu lập Quốc hay lên cai trị Israel , thì 2 anh em họ được một chỗ danh dự và cao trọng bên Chúa Giêsu. Chúng ta hãy nghe họ bày tỏ tâm sự của mình với Chúa Giêsu khi có dịp tâm sự. Họ nói: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10,37). Những dự tính rất riêng, rất trần trục nhưng cũng là hy vọng và động lực của họ khi bước theo Chúa Giêsu. Và chính vì bước theo Chúa với những động lực và tính toán như thế, nên những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, những hành động minh chứng cho sứ mạng Messia đích thực của Ngài không được các môn đệ chú ý và hiểu cho đúng đắn. Nên khi Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn, thì các ông hoang mang, lo sợ và thất vọng.

Hãy tỉnh ngộ!

Vì tình yêu, Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết như lời Ngài đã tiên báo nhiều lần với các môn đệ không muốn để họ sống trong bóng đêm của sự chán chường và thất vọng, nên Ngài đã đến với họ và “mở mắt” tâm hồn cho họ. Ngài dùng chính Thánh kinh để dẫn đưa cho niềm tin của họ quay về. Ngài dùng tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo về Ngài để soi lòng mở tr1i cho họ, nhưng họ vẫn chưa nhận ra Ngài. Vẫn còn là tối tăm. Chưa tỉnh ngộ! Rồi cũng chính vì tình yêu, Ngài dùng đến những cử chỉ thân ái nhất mà Ngài đã từng làm họ trong bữa Tiệc Ly “bẻ bánh trao cho các ông”.

Với sức mạnh của Lời Chúa và Thánh Thể, họ đã tỉnh ngộ và nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và đang đồng hành với họ trên nẻo đường họ đang tiến bước. Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện hiện luôn với con người và làm cho lòng con người được bừng sáng ngọn lửa tin yêu và hy vọng. Nhất là Ngài làm cho họ nhận ra được Ngài đang sống và đang hoạt động với họ. Ngài đang đồng hành với họ và không bao giờ để cho họ chìm trong cô đơn hay tuyệt vọng. Niềm tin Phục sinh đã bừng lên xoá tan bóng đêm của thất vọng, nghi nan và sợ hãi.

Đây là bài học rất tuyệt vời cho người Kitô hữu chúng ta. Nhiều lúc trên hành trình tiến bước theo Chúa Giêsu, làm môn đệ của Ngài, chúng ta đã đắm chìm trong bóng đêm của thất vọng, của chán chướng và sợ hãi. Những khi đó, ta hãy tìm đến với Lời Chúa và với Thánh Thể của Chúa. Hơn nữa, đức tin của người Kitô hữu chúng ta không thể lớn lên và vững mạnh nếu chúng ta không thường xuyên tiếp nhận Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể Ngài. Hãy làm cho lòng ta được bừng sáng nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Phục sinh cũng như hãy tỉnh ngộ với những động lực theo Ngài của chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta can trường và vững bước theo Ngài vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, đã Phục sinh vinh hiển cho chúng ta và vì chúng ta.

 

  1. Đồng hành – Lm Trần Thanh Sơn

Khi xưa tại vùng Trung Đông có một vương quốc nhỏ bé, nhưng họ lại có vị vua một rất khôn ngoan và dũng cảm. Ông là một vị vua anh minh, hết lòng lo lắng cho dân. Dưới triều đại của ông, đất nước phát triển có thể nói là cực thịnh, đến nỗi các đế quốc rộng lớn xung quanh dù thèm thuồng, mảnh đất xinh đẹp, cũng không dám có ý định dòm ngó. Thế nhưng, sau khi nhà vua băng hà, con cháu của ông đã không giữ được di huấn của tổ tiên. Nhà vua cũng như các quan lại triều đình thay vì lo lắng, phục vụ dân chúng, họ lại lao vào nếp sống ăn chơi, sa đoạ, tham nhũng,… rồi còn sưu cao, thuế nặng, khiến dân phải ca thán lầm than. Đất nước từ chỗ cực thịnh đi đến chỗ ngày càng suy sụp, trở nên miếng mồi ngon cho các đế quốc xung quanh đang muốn bành trướng.

Thế rồi, việc gì phải đến đã đến. Vào khoảng năm -587, vương quốc xinh đẹp này đã rơi vào tay ngoại bang. Họ đã bắt dân chúng đi lưu đày, làm nô lệ. Tiếng than van, khóc lóc, như vọng thấu trời xanh. Và rồi kể từ đó, họ như một quả bóng, nay bị đế quốc này xâm chiếm, mai lại đế quốc khác đô hộ. Thế nhưng, ngay trong hoàn cảnh cơ cực đó, dân chúng vẫn không mất niềm hy vọng. Trong dân vẫn lưu truyền một lời tiên tri về một vị cứu tinh sẽ được sinh ra để giải phóng cho dân khỏi ách nô lệ. Đất nước đó, chính là đất nước Do-thái của dân Israel.

Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu đã xuất hiện. Trước mắt của dân chúng lúc bấy giờ, Đức Giêsu “là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng”, bởi đó đã có một số người đã đi theo làm môn đệ của Ngài, với hy vọng Ngài “sẽ cứu Israel” khỏi ách nô lệ của đế quốc Roma. Thế nhưng, sự thật lại phũ phàng, Đức Giêsu đã bị chính các vị thủ lãnh của dân Do-thái bắt nộp, xử tử và đóng đinh trên thập giá. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, các môn đệ của Ngài tan tác, trốn chạy”như đàn chiên không người chăn” (Mt 26, 31b), mỗi người mỗi ngã. Trong số đó, có hai môn đệ trở về lại làng Emmaus mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng. Đức Giêsu chết, họ cảm thấy như mất đi tất cả, tương lai của dân tộc và cuộc đời của họ như đi vào ngõ cụt, không lối thoát. Họ chẳng biết làm gì hơn là lê bước trở về quê cũ trong tâm trạng nặng nề, u ám.

Thế nhưng, ngay giữa lúc họ cảm thấy hoàn toàn cô đơn, tuyệt vọng đến cùng đường như thế, thì “Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ”. Đấng Phục Sinh đã đến và đồng hành với họ, nhưng “mắt họ bị che phủ, nên không nhận ra Người”. Mắt họ, hay đúng hơn, tâm hồn họ đang bị che phủ bởi những suy nghĩ chủ quan của họ. Họ không nhận ra Đức Giêsu, bởi tâm trí họ cứ quanh quẩn với mồ mả, với những đau khổ, thử thách trước mắt của họ, mà không khám phá ra người bạn đồng hành đang cùng đi với họ, đang cùng trò chuyện với họ, chính là Đấng Phục Sinh.

Đấng Phục Sinh đã đến cùng đồng hành với họ. Ngài dùng chính Lời Chúa để sưởi ấm tâm hồn đang lạnh giá vì tuyệt vọng của họ. Ngài giúp họ khám phá và hiểu rõ chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Ngài nói với họ: “Chớ thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vào vinh quang sao? Đoạn Người bắt đầu từ Môisen đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người”. Nghe lời Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, lòng các môn đệ đã “sốt sắng” lên, nhưng mắt họ chỉ thực sự mở ra khi họ được cùng đồng bàn với Đấng Phục Sinh. Trong bữa ăn này, họ đã nhận ra cử chỉ quen thuộc, thân thương của Thầy mình, khi Ngài “cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho hai ông”.

Nghe được Lời Chúa, nhận được tấm bánh bẻ ra từ tay Đấng Phục Sinh, hai môn đệ này đã thực sự xác tín về sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Và thế là “ngay lúc ấy, họ chỗi dậy trở về Giêrusalem”, để chia sẻ cho các môn đệ khác niềm vui mừng lớn lao này. Đức Giêsu đã chết thật, nhưng Ngài cũng đã thực sự Phục Sinh, đó là xác tín của hai môn đệ trên đường Emmaus, và cũng là của các tông đồ tại Giêrusalem. Chính trong niềm xác tín đó, sau ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên bố với toàn thể đám đông dân chúng tại Giêrusalem: “Đức Giêsu Nagiarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ… Người đã bị nộp và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của chõi chết mà cho Người Phục Sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó”.

Đức Giêsu đã Phục Sinh, từ đây, sự chết không còn quyền lực gì đối với Ngài nữa. Với sự Phục Sinh của mình, Đức Giêsu trở niềm hy vọng cho tất cả những ai đang ngồi trong bóng tối của sự chết. Từ đây, Ngài trở nên người bạn đồng hành, chia vui, sẻ buồn với mỗi người chúng ta trên khắp nẻo đường đời. Hơn nữa, Đức Giêsu Phục Sinh còn hơn cả một người bạn đồng hành bình thường, bởi lẽ không chỉ đồng hành, Đức Giêsu còn giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, đem lại cho chúng ta một sự tự do đích thực, tự do của con cái Thiên Chúa. Trong bài đọc hai, thánh Phêrô nhắc lại cho chúng ta: “Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã đựơc cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố”.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang tiếp tục đồng hành với mỗi người chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống. Ngài vẫn bước đi bên cạnh chúng ta, thậm chí còn bồng bế chúng ta trên đôi tay Ngài để giúp chúng ta vượt qua các thử thách, gian truân trong cuộc sống. Chúng ta cần ý thức điều này, để rồi trong cuộc sống của mình, cho dù chúng ta có yếu đuối, lỗi lầm đến đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng không được phép ngã lòng, tuyệt vọng, nhưng hãy vững tin vì chúng ta có một “Người Anh” đang hết lòng yêu thương và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.

Chúng ta còn học được nơi hai môn đệ tinh thần khiêm tốn, lắng nghe và học hỏi lời Chúa. Cho dù chưa biết người khách lạ là Đấng Phục Sinh, nhưng khi nghe Ngài quở trách: “Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói!”, họ vẫn không tự ái, nhưng vẫn khiêm tốn lắng nghe lời giải thích của người khách lạ. Lòng nhiệt thành, khiêm tốn học hỏi của họ còn được tỏ hiện qua việc họ cố “nài ép” người khách lạ ở lại để tiếp tục giải thích Lời Chúa cho họ và đồng bàn với họ. Theo gương hai môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng cần dẹp bỏ tính kiêu căng, tự ái, để có thể nhận ra tiếng nói của Chúa nơi những người anh chị em đang cùng sống, cùng làm việc bên cạnh chúng ta.

Và cuối cùng, theo chân các môn đệ trên đường Emmaus, chúng ta hãy siêng năng đến với bí tích Thánh Thể, bằng việc siêng năng, sốt sắng tham dự Thánh lễ và hiệp lễ mỗi ngày. Trong bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang hiện diện và chờ đợi để được đồng hành, nâng đỡ mỗi người chúng ta mỗi ngày trong đời sống. Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy đến đồng bàn với Đấng Phục Sinh nơi bàn tiệc Thánh Thể, để ngày sau chúng ta cũng sẽ được đồng bàn với Ngài trong nhà Cha muôn đời. Amen.

 

  1. Emmau – Câu chuyện của sự trở về

(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn)

Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Nó không chỉ phong phú về phương diện văn chương mà còn đặc trưng về phương diện thần học. Chúng ta tìm thấy ở đây câu chuyện của một cuộc “trở về” với niềm tin của con người mà hôm nay, hai môn đệ làng Emmau là đại diện.

Sau những gì xảy đến cho Chúa Giêsu- sự kiện làm chấn động dư luận cả trong lẫn ngoài thành Giêrusalem, hai môn đệ quyết định trở về quê nhà là làng Emmau. Bước chân mỏi mệt chán chường. Các ông rơi vào trạng thái tuyệt vọng và trở thành những con người cô đơn trên cuộc lữ hành. Vì sao các ông tuyệt vọng, chán chường và cô đơn như vậy? Tất cả cũng chỉ vì liên quan đến một người tên là Giêsu. Vâng, sự việc bắt đầu từ khi các ông chia tay bố mẹ, giả từ vợ con, tạm biệt ngôi làng thân yêu để lên đường, bước theo người mà các ông cho rằng có thể đem lại cho đất nước, cho gia đình một sự hoà bình, thoát khỏi ách thống trị của đế quốc. Ba năm ròng rã bước theo con người này cũng là ngần ấy năm các ông mong cho ngày ấy mau tới. Thế nhưng, sự việc xảy đến với người đó thật thê thảm. Các ông không thể hiểu nổi một người đầy quyền năng, đầy lòng nhân ái như Thầy lại có một kết cục quá bi đát và nhục nhã như vậy. Không còn chút hy vọng, mất hết niềm tin, cách tốt nhất là trở về quê, tiếp tục công việc thường nhật mà thôi. Vì thế, các ông lên đường, buồn bã và thất vọng ê chề…

Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông nghe- thậm chí nghe rất rõ, lời trách mắng của vị khách lạ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các Ngôn sứ! Nào Đức Kytô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Nhưng các ông không nhận ra Người; Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Mêsia mà Môsê và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh, đã loan báo. Nhưng các ông vẫn không thể nhận ra Người là ai. Điều đó cho chúng ta thấy, Đấng Phục sinh vẫn có đó, vẫn hiện diện bên chúng ta. Nhưng cách hiện diện của Người là hoàn toàn mới lạ, khác với cách hiện diện thông thường, thể lý mà mắt thường có thể nhìn thấy được.

Tuy thế, chỉ đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kytô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành- người đã giảng dạy Kinh thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kytô Phục sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho các môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường. Chúng ta có thể thấy bước chân vội vã cùng với niềm vui mừng của các ông khi trở về Giêrusalem thay cho bước chân chậm chạp, chán chường, cô đơn trước khi được gặp Đấng Phục sinh. Các ông ra đi không chỉ báo cho 11 môn đệ đang ở Giêrusalem mà còn muốn công bố tin mừng Phục sinh đó cho khắp cả nhân trần. Kể từ đó, Tin mừng Phục sinh theo dấu chân của các ông lan rộng khắp hoàn cầu.

Như hai môn đệ trên đường Emmau, người Kytô hôm nay cũng vui mừng và hân hoan vì tin vào Đức Kytô Phục sinh. Câu chuyện Emmau giúp mỗi người chúng ta nhận ra điều này: Bất luận chúng ta là ai, địa vị thế nào, hoàn cảnh sống ra sao; dù chúng ta có suy nghĩ thế nào, nói năng ra sao hoặc thực hiện điều gì, tất cả đều có sự hiện diện, có sự “quan sát”, có sự đồng hành của Đấng Phục sinh.

Chúa Phục sinh vẫn luôn đồng hành trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên. Vấn đề ở chỗ, chúng ta có nhận ra sự hiện diện thực sự của Người trong đời sống của chúng ta hay không, để như hai môn đệ Emmau, chúng ta vui mừng và không ngừng ra đi loan báo Tin mừng Phục sinh cho thế giới này.

 

  1. Họ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã có một truyền thống rất đặc biệt, đó là luôn tự họp nhau cầu nguyện, chia sẻ tình thương, hiệp thông, san sẻ của cải vật chất cho nhau và cùng nhau cử hành lễ bẻ bánh. Đó là hình thức đầu tiên để cộng đoàn các thế hệ sau này, noi gương bắt chước và cử hành hy lễ tạ ơn. Những câu chuyện về Chúa, về Giáo Hội được các Thánh sử ghi lại theo sự linh ứng của Chúa Thánh Thần được đọc đi đọc lại trong các Thánh lễ hằng ngày và ngày Chúa nhật, lễ Trọng đã nói lên niềm tin của Hội Thánh, của những người theo Chúa.

Hôm nay, Chúa nhật III Phục Sinh, Giáo Hội cho đọc lại câu chuyện rất ấn tượng, nhưng rất cảm động của hai môn đệ trên đường Emmau. Hai môn đệ này đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh vào đêm Chúa sống lại nhưng lại không nhận ra Người. Trên đường đi về làng Emmau, Chúa Phục sinh dưới dáng dấp của người khách bộ hành đã cắt nghĩa Kinh Thánh cho hai môn đệ khiến lòng họ bừng cháy ngọn lửa bên trong. Tuy nhiên, họ chỉ nhận ra Chúa khi Chúa đồng bàn với họ trong quán trọ vào xế chiều, lúc Chúa cầm lấy bánh đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho họ, mắt họ mở ra và nhận ra Người, nhưng Người đã biến mất. Khi kể lại câu chuyện này, thánh sử Luca không những cho chúng ta hiểu thế nào về hạnh phúc hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa, nhưng cũng nhấn mạnh những gì Chúa sống lại đã làm cho hai môn đệ xưa, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục làm cho chúng ta. Các môn đệ thực sự lúc đầu không hề hiểu gì về sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Nhưng từ từ với ơn Chúa Thánh Thần họ nhận ra cuộc đau khổ của Chúa Giêsu là một cuộc hành trình tăm tối Người phải vượt qua để tiến tới vinh quang ánh sáng. Cuộc đau khổ, chịu chết của Chúa Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ, không phải là một sự luống công vô ích nhưng là một chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu Phục sinh vẫn đang thực hiện cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta nhiều điều ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Khi chúng ta sốt sắng tham dự thánh lễ hằng ngày, thánh lễ trọng và thánh lễ ngày Chúa nhật, ngôi nhà thờ giáo xứ sẽ trở thành Emmau của chúng ta. Nơi nhà thờ, những bài Sách Thánh sẽ soi chiếu cho chúng ta, tuy nhiều lúc chúng ta chưa hiểu nhưng rồi chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang nói với chúng ta. Chúa Phục sinh đang hiện diện với chúng ta. Chúa Phục sinh đang dạy dỗ chúng ta. Chính lời Chúa sẽ như đuốc sáng soi đường cho mỗi người chúng ta và như ngọn đèn pha định hướng cho con tầu đức tin của chúng ta cập bến bình an và giúp chúng ta vượt qua những thử thách gian nan.

Vâng, đọc lại Tin Mừng chúng ta hiểu được rằng ” chính khi Chúa Giêsu bẻ bánh, tạ ơn thì hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Phục sinh “. Nên, Bí Tích Thánh Thể sẽ giúp người môn đệ Chúa lấy lại được sức mạnh của lòng tin. Bí Tích Thánh Thể sẽ giúp người Kitô hữu thắng vượt mọi sự trên cuộc đời của mình và Bí Tích Thánh Thể đem con người từ thân phận tối tăm tới bến bờ sự sáng. Người Kitô hữu được mời gọi qui tụ đến Nhà thờ để cầu nguyện, giúp đỡ lẫn nhau và hiệp dâng thánh lễ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hứa “Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế “, chúng con tín thác nơi Chúa, chúng con rất cần Chúa, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những cơn bão tố của cuộc đời. Amen.

 

  1. Chúa Nhật 3 PS – Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê

Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là việc Thiên Chúa thực hiện lời hứa trong Kinh thánh. Đây là chủ đề xuyên suốt phụng vụ của ngày Chúa Nhật 3 Phục Sinh. Đức Giêsu phục sinh, cùng đồng hành với hai môn đệ trên đường về Emmau, “bắt đầu từ Môsê và tất cả các ngôn sứ giải thích cho họ những gì liên quan đến Người trong tất cả sách thánh” (Tin Mừng)

Về phần Phêrô, trong bài giảng đầu tiên cho người do thái tại Giêrusalem đã trích những lời của ngôn sứ Gioen, tiên báo sự sống lại của Đức Kitô: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát (Bài đọc 1)

Sau cùng, thư thứ nhất của Thánh Phêrô cũng đề cập đến vấn đề này như là kế hoạch từ đời đời của Thiên Chúa: “Đức Kitô, Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người chỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào thiên Chúa.” (Bài đọc 2)

Sứ Điệp Niềm Tin

Theo Thánh Augustinô, Tân Ước được ẩn chứa trong Cựu Ước, do đó có sự tiếp nối mạc khải của Thiên Chúa trong suốt lịch sử cứu độ. Chính Đức Giêsu cũng đã giải thích cho các môn đệ đi làng Emmau điều mà Môsê (Ngũ Kinh) và các ngôn sứ đã nói về sự phục sinh của Người. Những bản văn Thánh Kinh nào Đức Giêsu đã dùng để giải thích cho hai môn đệ đang vỡ mộng, đang mù mờ trước mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh? Không thấy Thánh Luca đề cập đến. Tuy nhiên, đọc Cựu Ước, ta có thể kể ra một số đoạn như sau: Đnl 32,39 trong đó Thiên Chúa tự mạc khải như Đấng “cầm quyền sinh tử”; Am 9,2: “Chúng có chui xuống tận âm ty, tay Ta cũng kéo chúng lên khỏi đó”; Tv 16,10: ” Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” và nhất là lời sứ ngôn Gioen 3,1-5 mà Thánh Phêrô đã trích dẫn khi giảng cho dân cư tại Giêrusalem (Bài đọc 1).

Thêm vào đó còn một số đoạn khác bàn về việc Thiên Chúa cho hồi sinh dân Ítrean (Os 6,1; Ez 37,1-14; Is 53) Gần với Tân Ước, ta còn có lời ngôn sứ Đanien (12,2): “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy.” Sau cùng và trên hết phải kể đến những bản văn trong sách Maccabê, Thiên Chúa Đấng tạo dựng nên ta, cũng là Đấng ban lại cho ta sự sống (2Mcb 7, 9;11;22; 14,46). Cùng với tính liên tục, ta cũng cần nhấn mạnh đến sự vượt trội của Tân Ước trên Cựu ước, và bước tiến đi từ hình ảnh về sự phục sinh đến thực tế cụ thể xảy ra nơi Đức Giêsu Kitô, hoa quả đầu mùa và là bảo đảm cho sự sống lại của chúng ta. Cũng có nhiều điểm giống với những bản văn Cựu ước, tuy nhiên vẫn có những khác biệt to lớn vượt mọi điều mong chờ và mọi lời tiên báo của các ngôn sứ.

Mầu nhiệm phục sinh đã được ẩn giấu trong cung lòng Chúa Cha, Đấng trong Cựu Ước, chỉ dọi chiếu một ít tia sáng để khơi dậy và nuôi dưỡng niềm hy vọng. Còn trong Tân Ước, Chúa Cha không mạc khải lòng mình bằng lời nhưng bằng hành động làm cho Đức Giêsu Kitô chỗi dậy từ cõi chết. Mạc khải về việc Đức Kitô sống lại thật bất ngờ và đáng khâm phục vượt trên mọi suy tưởng của con người. Mầu nhiệm này thật ấn tượng, vượt mọi năng lực lý trí và vượt cả cựu ước dù vẫn có sự tiếp nối và trở thành một kỳ chướng cho người do thái và cả những kẻ không tin. Nhưng đối với ta là những kẻ tin, đó la quyền năng và ý định của Thiên Chúa (1 Cor 2, 1-5)

Gợi ý Mục Vụ

Các bài đọc ngày Chúa Nhật hôm nay là dịp giúp các tín hữu hiểu biết hơn về việc Thiên Chúa mạc khải tiệm tiến các mầu nhiệm. Mỗi mầu nhiệm kitô giáo đều có một lich sử, như bài đọc hai cho thấy, bắt nguồn ngay trước cả cuộc sáng tạo và tiếp tục qua nhiều thế kỷ chuẩn bị cho mạc khải viên mãn nơi Đức Giêsu Kitô. Đây không phải là một lịch sử trần tục điều khiển do những thế lực đen tối như kiểu các thần thoại. Và cũng chẳng phải là một sự phát triển dần dần của những khả năng lý trí và tri thức của con người vươn tới những lãnh vực siêu vượt của tri thức.

Nhưng đây là lịch sử tôn giáo, biểu lộ một khoa sư phạm tuyệt vời của Thiên Chúa đối với dân của Ngài. Đây là tình thương của Chúa Cha dành cho con cái của Ngài, một tình thương tự hạ cho ngang tầm với thân phận giới hạn và bất toàn của con người, để con người nhận ra được ánh sáng của các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

Từ quan điểm này, Cựu Ước đã là bước khởi đầu mạc khải cho các mầu nhiệm kitô giáo. Đó là cơ hội thuận lợi mời gọi và cổ vũ người tín hữu đọc và suy gẫm Cựu Ước, nhưng phải luôn luôn được soi sáng nhờ mạc khải viên mãn mà Đức Giêsu mang lại. Đối với các bạn trẻ và người trưởng thành, phụng vụ trong các tuần lễ mùa Phục sinh là bài giáo lý với trọng tâm về sự sống lại, giải thích lịch sử tiệm tiến của mầu nhiệm này nhờ các bài đọc và suy tư dựa trên một ít bản văn Cựu Ước.

Đồng thời cũng là dịp rất tốt cho tín hữu đọc Cựu Ước bằng “đôi mắt kitô hữu”, và suy niệm, cầu nguyện bằng “lòng trí kitô hữu” dựa trên các thánh vịnh hoặc nhiều bản văn hay khác của Kinh Thánh do thái giáo. Tất cả những điều đó mời gọi ta cảm tạ Thiên Chúa vì mạc khải tròn đầy nơi Đức Kitô về việc sống lại, và xin Ngài mở lòng trí các tín hữu do thái giáo đón nhận mạc khải viên mãn.

home Mục lục Lưu trữ