Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 100

Tổng truy cập: 1440677

CHÚA NGẠC NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN

CHÚA NGẠC NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN (*)- Chú giải của Noel Quession Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.

Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở đó có lẽ chỉ có khoảng 150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và nho, cùng với một ít lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê. Hằng ngày, mỗi người tự làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều đến hội đường để cầu nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của Người, là một nông dân, một người sống bằng đất đai một người “của quê hương”.

Tin Mừng hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do những người “nông dân” ghi lại, nói về một “nông dân” sống gia những người “nông dân” và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của “nông dân”. Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy. Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt học nơi ông Giuse, một người “sửa chữa” tầm thường, có thể làm hay chữa những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có gì khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.

Đến ngày Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.

Về điểm này cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng vai trò tư tế. Người chỉ là một trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel bất cứ một người nam trưởng thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là “tư tế”, thuộc về “dòng giống tư tế”, đều có quyền đọc Thánh Kinh và chú giải Thánh Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó, khi Người rời chỗ ngồi để lên “đọc” và “diễn giảng”. Thánh Maccô không cho chúng ta biết đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.

Đa số thính giả rất ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”

Danh tiếng của Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì hãnh diện, những người đồng hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó không phù hợp với những gì họ biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã thấy Người lớn lên, họ đã cùng đi đến trường học với Người. Người không có quyền trở thành “một người khác” hơn là những gì họ biết về Người.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu biết nào đó, từ chối tiến xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập quán thích tiện nghi, khỏi thế giới quá bình lặng của chúng con.

Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Gioan, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?

Tin Mừng của Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy rất gần với Đức Giêsu trong đời thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm thường của những nông dân trong một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống thôn dã: Chân trời dường như dừng lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người ta kể ra nhiều tên, một danh sách anh chị em bà con. Theo cách thức của phương Đông, người ta gọi họ là “anh em”, không kể họ bên ngoại, vì truyền thống không dành chỗ đứng cho người phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác định con người theo một hộ tịch cứng nhắc, những tương quan xã hội được ấn định một lần thay cho tất cả. Cuối cùng, mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng trong vai trò của mình, không được thay đổi đột ngột.

Và đó là chướng ngại làm cho họ không tin vào Người.

Ba Tin Mừng nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng ta “sự thất bại” của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau thương. Đức Giêsu bị chối từ. Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như người dân Nagiarét lúc bấy giờ. Nhiều người nói “Tin Chúa”, đồng ý; Nhưng tin Giáo Hội, thì không. Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh con người, rất nhân bản. Các giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà người ta biết quá! Ngày nay cũng như ngày xưa, nhiều người “bất bình” với Giáo Hội, cũng như người ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa chữ Hy Lạp ‘éscandali Zonto’). Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.

Trang Tin Mừng này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý tưởng của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó là thực tế của việc nhập thể: Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường, Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường, Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.

Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.

Đức Giêsu bị “khinh miệt” nhất trong nhóm thân nhân của Người. Người ta đã hiểu lầm về Người. Thái độ quá thân quen có thể che khuất đi tính chất thâm sâu của những liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều kích nhân loại đó là khinh miệt Người. Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất. Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai lầm về ‘dấu chỉ’ như khi nghĩ rằng: chỉ cần làm những cử chỉ bên ngoài là đương nhiên thuộc về “gia đình” của Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết, điều làm nên “gia đình” thực sự của Người, không phải là những liên hệ huyết thống, mà chính là đức tin – “Kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy” (Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho mình một gia đình mới: Đó là những người nghe Chúa và đem ra thực hành.

Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.

Đây là một sự mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có của chúng ta. Một sự chữa lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép lạ được. Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những phép lạ. Như thế, muốn nói lên điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự. Một sự chữa lành không đưa đến việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không phải là một phép lạ thật, vì thiếu ý nghĩa cốt yếu của nó.

Điều này có thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ để ban đức tin. Những người ở Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép lạ phi thường trong những làng lân cận?” – Hoạt động của Đức Giêsu không rõ ràng, cả những phép lạ vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm của bản thân Người. Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh “Người là ai”. Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: “Người ta có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mc 4,12) và “mặc dù Đức Giêsu đã làm những dấu lạ rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người” (Ga 12,37) Điều đó cho chúng ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép lạ, và Giáo Hội phải thận trọng thế nào, khác với những hạng người “buôn thần b án thánh”.

Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin.

Sự khước từ đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai đoạn hai của tác vụ Đức Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin. Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới ngày nay, như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin. Vẫn thường xảy ra là người ta lên án Giáo Hội: “Người ta không còn dạy tôn giáo nữa, người ta không dạy giáo lý nữa”. Vì thế khi Đức Giêsu đích thân giảng dạy trong làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư ngụ, thế mà Người cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha mẹ đứng trước một hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù là Đấng chí thánh cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người. Sự bất lực của Đức Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương, biểu lộ sự hoàn toàn tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ thái độ tôn trọng của Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực bí nhiệm “thần thiêng” này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức tin của chúng ta có thể không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực tại mỏng giòn và thường bị đe dọa.

Rồi Đức Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.

Ở đây tôi nhận được bài học quý giá cho những thất bại của tôi. Đứng trước thất bại chua cay mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu thua, Người lại lên đường tiếp tục. Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và chân thành rút ra từ đó những hệ quả tích cực, nếu không chịu ngã thua.

Ba bài đọc Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ “linh đạo của thất bại” Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải đứng vững đương đầu với một dân tộc đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận đã bị một “mũi dằm đâm vào thịt”, một thất bại mà Ngài đã không chiến thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà không tiến bộ, hay trước một tình huống đau thương nào đó chúng ta có vượt thắng được sự chán nản không?

(*)  Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- B

NGẠC NHIÊN NHƯNG KHÔNG TIN- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1). Dân làng Nagiarét ngạc nhiên mà không tin

Trong thời gian rao giảng Tin Mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng Tin Mừng nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này mà thôi, bởi lẽ đối với các ngài, thái độ rẻ rúng của dân làng Nagiarét đối với Đức Giêsu trong lần viếng thăm ấy, đã mang ý nghĩa tiêu biểu cho thái độ chối từ của dân Do Thái mà Người đã phải hứng chịu.

Phần đầu của buổi viếng thăm này rất giống với những gì Maccô kể ra ở 1,21: thiên hạ đều sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu. Nhưng phần kết thúc của hai bài tường thuật lại khác nhau hoàn toàn. Ở đây, nơi quê quán của Người, những người nghe cảm phục, rồi lại mau chóng thay lòng đổi dạ, không tin Chúa, tiên vàn họ đều là những người cùng làng xóm với Người. M.E. Boismard tự hỏi: Làm sao giải thích sự thay đổi tình hình như vậy? Ông gợi ý: “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến như sau: Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng lại nếm tin này khi kể lại ý kiện sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêsia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêsia” (Dial. 110,1).

Đó đúng là luận điệu của những người làng Nagiarét; mà cũng là luận điệu của cư dân Giêrusalem được Tin Mừng Gioan tường thuật: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả”, nghĩa là không ai biết rõ nguồn gốc của Người (Ga 7,27). Đối với những dân làng Nagiarét cũng vậy, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì người ta biết rõ Người, biết cả tông chi họ hàng của Người nữa” (Jésus, un homme de Nagiareth, Cerf, 1996, trang 84).

– Cụ thể là họ biết rõ nghề nghiệp của Người: “Ông ta không phải là bác thợ mộc sao?” (thời ấy nghề thợ mộc không chỉ chuyên lo về mộc, mà cũng còn lo cả việc xây cất nhà cửa nữa).

– Họ biết rõ bà thân mẫu của Người: “Ông ta không phải là con bà Maria sao?”

– Họ biết bà con họ hàng của Người: “Ông ta không phải là anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con cùng xóm với chúng ta sao?”.

Thế nên, làm sao mà họ nhận biết được Người là vị ngôn sứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến để nói nhân danh Chúa? Họ ‘hoàn toàn vấp ngã’ (sát nghĩa là bị xì-căng-đan) vì Người”. Đức Giêsu người đồng hương của họ, mà trước đây họ lấy làm vui sướng đón tiếp, thì giờ đây lại trở nên một chướng ngại vật khiến họ vấp ngã.

2). Đức Giêsu “ngạc nhiên” vì họ cứng lòng tin và đành bó tay.

– Con người mà, các môn đệ đã từng thấy truyền lệnh cho sóng yên bể lặng (Tin Mừng Chúa Nhật 12), xua đuổi quỷ dữ (phép lạ chữa người bị quỷ ám ở Ghêrasa 5,1-20), cho người đàn bà mang bệnh bất trị được khỏi và đem cô gái con ông Giairô ra khỏi giấc ngủ ngàn thu, thì nay bỗng trở thành kẻ bất lực, vô phương, ‘ngạc nhiên’ vì những người đồng hương của mình cứng lòng tin. Maccô chẳng e ngại khi phải viết lời này: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó? Không phải là vấn đề thiếu yếu tố tâm lý cần thiết cho sự lành bệnh, mà chính là tại thiếu lòng tin, vì có tin thì “phép lạ” mới có được ý nghĩa đích thực. Nên Đức Giêsu đành phải mượn ý câu ngạn ngữ “Bụt nhà không thiêng” mà kết luận rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.

– Nhưng không gì có thể ngăn chặn được tính năng động của Lời. Thái độ chối từ của người làng Nagiarét, cũng như sự ngạc nhiên thúc thủ của Đức Giêsu, đều đã loan báo tấn bi kịch về cuộc khổ nạn và sự thất bại tỏ tường của Thập giá; mà còn mở ra việc Đức Giêsu khai trương đi rao giảng cho ‘các làng chung quanh’ loan báo trước chiến thắng phục sinh và công việc truyền giáo cho các dân ngoại.

– Đây là đoạn bản lề phân chia Tin Mừng Maccô thành hai phần rõ rệt.

+ Một giai đoạn đang hoàn thành. Trong suốt giai đoạn này vấn đề nhân tính của Đức Giêsu không ngừng được vang lên như một điệp khúc: “Vậy người này là ai?”.

– Về phía các môn đệ, vấn đề luôn mở ra: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Các môn đệ đã khởi sự đi vào gia đình đích thực của Đức Giêsu, gia đình của những người thực hành ý muốn của Thiên Chúa (3,31-35). Rồi đây sau cơn hốt hoảng của Ngày Thứ Sáu Thánh, các ông sẽ có thể tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, chết, sống lại là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma nơi Maccô 1 5,39).

Về phía dân làng Nagiarét, vấn đề được khép lại: “ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao? Câu hỏi đó đã là điềm báo trước con đường bi thảm của hiện tượng này: thái độ chối từ Chúa.

+ Một giai đoạn mới đang mở ra. Giai đoạn đó sẽ đưa ta đi từ việc tham gia công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai (Tin Mừng Chúa nhật tới) để rồi cùng tuyên xưng lòng tin với Phêrô (8,26).

BÀI ĐỌC THÊM.

*1) “Đức Giêsu đối mặt với thái độ không tin” (Cahiers-Evangile, số 1/2 trang 53).

Câu chuyện Đức Giêsu đến Nagiarét (6,1-6) xoay quanh vấn đề không tin và tạo nên bức tranh tương phản với chuyện xảy ra trước đây.

“Đức Giêsu lấy làm lạ vì họ không tin” (6,6). Một sự kiện thật là tương phản với loạt phép lạ xảy ra trước đây, và chứng tỏ rằng để nhận ra được Đức Giêsu có quyền làm cho kẻ chết sống lại, người ta phải có một lòng tin đến thế nào.

Tới Nagiarét, nơi quê quán của Người lúc này Đức Giêsu phải đối mặt với thái độ không tin của con người. “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Việc Người không thể làm được phép lạ ở đây có liên quan tới thái độ không tin của những người trong cuộc chứ không phải do yếu tố tâm lý nơi người bệnh vốn cũng là điều kiện cho người ấy được khỏi. Không có bối cảnh của lòng tin, phép lạ chẳng còn ý nghĩa gì, và sẽ không thể nói đến phép lạ.

Đức Giêsu đã phải sửng sốt vì thái độ không tin này. Ta hãy xem Người đã tỏ thái độ thế nào với các môn đệ khi gặp bão táp: “Sao nhát thế”. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (4,40). Người ta không có lòng tin là điều Chúa không hiểu nổi, thì ngược lại, khi thấy một lòng tin mạnh như thế, ngoài Israel, Người tỏ ra rất ngạc nhiên như Matthêu và Luca ghi nhận (Mt 8,10, Lc 7,9) Còn trong trường hợp này, Đức Giêsu đang ở quê nhà, giữa đám bà con họ hàng. Người đã nói với họ rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi” (6,4). Chỉ có mình Máccô, nhấn mạnh và xác định rõ là “giữa đám bà con thân thuộc”. Tại Nagiarét, người ta lại thấy có sự phân biệt trong liên hệ “ai là mẹ tôi” đã diễn tả trước đây (3,20-35). Ở đây sự thu hẹp (về liên hệ) còn rõ nét hơn. Bởi lẽ có lần Chúa đã xác định gia đình mới của Người là những ai nghe Lời Chúa, những kẻ mà trong một buổi gặp gỡ trước đây được mô tả là ngồi chung quanh Chúa. Lúc này Đức Giêsu và các môn đệ Người lại giữ khoảng cách với những người đứng ở ngoài, những người không thuận với Người.

Trước đây có lời chép rằng: “Ai nghe Lời Chúa, người ấy là bà con thân thuộc với Tôi” (3,35). Còn ở đây, Người muốn tỏ cho thấy rằng ai tin, người ấy là bà con thân thuộc của Người. Nghe lời Chúa và tin vào Người là hai mặt luôn kết hợp hài hòa và bổ túc lẫn nhau.

*2) “Ta biết người ấy quá mà” (Đức Cha L.Daloz trong “Qui don est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 37-38).

“Nếu lòng tin tạo khả năng đón nhận ơn cứu độ Chúa mang đến, thì sự thiếu lòng tin dựng lên hàng rào ngăn cản. Ở Nagiarét, Đức Giêsu không thể làm được một phép lạ nào, dù là đang ở tại quê nhà, giữa đám bà con thân thuộc của mình. Ở giữa đám bà con, mà Người phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Đức Giêsu lấy làm lạ. Còn họ khi được nghe lời Người giảng dạy ở hội đường thì “rất đỗi ngạc nhiên”. Đôi bên ngạc nhiên nhau, một thứ không hiểu nhau. Ở đây sự gần gũi với Đức Giêsu lại nên như bức màn che giấu mầu nhiệm về bản thân Người. Người đang có mặt ở đây, rõ ràng là người đồng hương của ta. Người ta biết Người rành rọt: biết nghề nghiệp của Người, biết bà mẹ và các anh chị em của Người. Họ biết tất cả, mà cái cốt yếu thì lại không biết. Bác thợ mộc Giêsu, người Nagiarét đã phải kín đáo lắm, bình dị lắm, phải y hệt như mọi người, “chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt. Bởi đâu ông ta được như thế”. Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?”. Như vậy, Đức Giêsu đã tỏ ra hoàn toàn là người, hoàn toàn là một người Nagiarét, nên ở quê hương mình, người ta không thể công nhận được rằng ngoài những điều mà tới nay ai nấy vốn đã có thể biết, Người còn có gì hơn nữa. Từ bé đến nay, việc ta quen lui tới với Chúa, với nhiều cách thế để được nghe nói về Người phải chăng đôi khi cũng là bức màn che giấu đi cái cốt yếu? Người môn đệ đích thực của Chúa lúc nào cũng phải mới để có khả năng đón nhận. Người ấy biết rằng Đức Giêsu không chỉ như mình hiểu biết. Người ta không thể đóng khung hạn định được Người. Người luôn vượt khỏi tầm tay của ta và vượt xa điều ta hiểu biết về Người. Ta có hiểu biết Người ở đời này, thì cũng như biết qua tấm gương mù mờ thôi. Khi nói về Đức Giêsu, phải chăng ta hay đưa ra những thông tin về Người, những thông tin có thể tạo ảo tưởng là ta biết đủ rồi mà không mời gọi ta tiến thêm lên, hay là ta cố gắng đi sâu vào sự gặp gỡ với chính bản thân và huyền nhiệm của Người?”

*3) “Chỉ có tin với tin” (G.Bessière, trong “Dieu si proche. Năm B”, DDB, trang 120-121).

Thật cũng lạ: Đức Giêsu lấy làm lạ vì những đồng hương của Người lại thiếu lòng tin. Vậy mà những người đồng hương của Người thảy đều là kẻ tin Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứng rắn, thảy đều đã từng hội họp với nhau ở hội đường. Họ đều là những kẻ có lòng tin từ đầu đến chân, như tục ngữ nói. Lòng trí họ không một dấu vết do dự hay ngờ vực nào. Họ tôn thờ Chúa là Đấng tạo dựng vạn vật và điều khiển dòng lịch sử. Thời đó, đâu đã có những người vô thần hay những kẻ không tin như ngày nay!.

Họ có lòng tin không? Tất nhiên có. Nhưng lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi người ta ở đây, không phải chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa, theo kiểu cha truyền con nối, mà chính là tin vào Người bác thợ mộc của làng. Liệu một bác thợ mộc mà người ta biết rõ cha mẹ và tất cả bà con của ông, lại có thể đòi hỏi người ta phải tin vào mình như tin vào Thiên Chúa chăng? Nè, còn hơn thế nữa kìa, lòng tin mà con người ấy muốn, không phải là một mớ những điều phải tin, nhưng là sự đảo lộn cuộc sống: “Ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Người còn nói: phải đi theo Người, phải cho đi và hiến thân, phải yêu mến cả kẻ thù, phải vác thập giá mình… Nào, chúng ta hãy lật ngửa các con bài (quyết định). Chúng ta đây là những kẻ tin; chúng ta đây “có” (than ôi!) lòng tin, mà có thật là ta đang vạch đường đời ta đi trong niềm tin như Đức Giêsu đã đề ra không? Xin đừng trả lời quá gấp”.

 CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- B

GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CÂU CHUYỆN (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên năm B nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi loan báo sứ điệp của Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.

Ed 2: 2-5

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông một sứ điệp cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Vì thế, ông gặp biết bao khốn khổ trước những đồng hương lòng chai dạ đá nầy.

2Cr 12: 7-10

Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”) và những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.

Mc 6: 1-6

Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tín và ngờ vực của họ.

BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)

Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây là trường hợp đặc biệt.

Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã xâm chiếm vương quốc Giu-đa, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của cơn thử thách mà họ đang phải chịu ngõ hầu họ có thể thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.

Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi ngôn sứ của tư tế Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật nầy nêu bật tiếng gọi bất khả kháng của Thiên Chúa và sự cảm nhận của con người về sự nhỏ bé của mình trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật nầy cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.

1).Thần Khí nhập vào tôi:

Theo quan niệm độc thần giáo tuyệt đối của Cựu Ước, thần khí ở đây chưa là một ngôi vị phân biệt với Thiên Chúa, nhưng là một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”

Thần khí đã nhập vào “làm cho chân tôi đứng vững” (2: 2), nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, Ê-dê-ki-en chỉ là một thụ tạo yếu đuối nghiêng ngữa; nhưng khi được thần khí của Thiên Chúa tác động, ông là một con người kiên cường trong sứ mạng của mình.

“Hỡi con người”:

Diễn ngữ: “con người”, đơn giản hóa cụm từ: “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong sách Ê-dê-ki-en, đặc ngữ này xuất hiện nhiều lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa.

Ở đây, qua danh xưng: “con người”, ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là ngôn sứ, tức là một phát ngôn nhân của Thiên Chúa với dân của Ngài đi nữa. Đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn thuần như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà qua ông Thiên Chúa đang ngỏ lời với họ.

Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi sánh ví với Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông có sứ mạng thông truyền thì cao vời khôn ví so với thân phận phàm nhân mõng dòn yếu đuối của ông.

Chính luôn luôn dưới danh xưng “con người” nầy mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en…” (2: 3). Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử sứ điệp của Thiên Chúa càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm hạ bấy nhiêu.

Đặc ngữ nầy sẽ mặc lấy một ý nghĩa mới trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13), ở đó “Con Người” viết hoa là một con người có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh “nhân tính tròn đầy” của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài” (Mc 10: 33-34), lẫn theo truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh “nguồn gốc thần linh” của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).

3).Một dân phản loạn:

Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra để kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Ít-ra-en đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những ngôn từ rắn rõi. Trong cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2). “Kẻ canh gác” là một trong những hình dung từ chỉ ngôn sứ.

Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn nầy biết rằng “có một ngôn sứ đang ở giữa họ” (2: 5). Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.

BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)

Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân đến từ “các Tông Đồ siêu đằng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).

Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).

1).“Cái dằm đâm vào thân xác”:

Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được nầy, vì thế, “thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào” (12: 7).

Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời nầy thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn nầy với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14). Phải chăng thánh Phao-lô muốn nói đến một cơn bệnh hoạn nào đó mà thánh nhân gặp trong cuộc hành trình truyền giáo đầy gian khổ? Đúng hơn thánh nhân muốn nói đến nỗi buồn phiền day dứt của ngài vì đã không hoán cải được những người đồng hương của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.

2).“Đã ba lần, tôi xin Chúa…”:

Con số “ba” xem ra không là số đếm chính xác, nhưng nói lên mức độ cầu nguyện thường hằng của thánh Phao-lô; như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần. Thông thường thánh Phao-lô cầu nguyện với Chúa Cha (“Theos”), nhưng ở đây thánh nhân cầu nguyện với Đức Ki-tô mà ngài gọi là “Chúa” (“Kurios”). Đây là danh hiệu mà thánh nhân ưa thích: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.

3).“Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”:

Chúng ta dễ dàng nhận ra văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng: “mạnh mẽ-yếu đuối” này. Người nào làm việc cho Thiên Chúa càng xóa nhòa công sức của mình bao nhiêu, thì người ấy càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hễ có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng nầy.

Lời kết của thánh nhân ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu: “Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (12: 10). Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng cách hành xử của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.

Ở Chương 12 nầy, chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, nhưng đây là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu thánh Phao-lô. Nếu như không có những lời tự thú nồng nàn nầy, chúng ta chỉ có một cái nhìn phiếm diện về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tính khí  bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác: một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Ki tô.

TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)

Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những đồng hương Na-da-rét mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống gần ba mươi năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?

Chắc chắn khi viếng thăm họ, Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí (3: 21). Vào lúc đó, Đức Giê-su đã không quan tâm đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (3: 35).

Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục với một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố nầy, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).

1).Gia thế và nghề nghiệp:

Tin Mừng hôm nay bắt đầu với câu chuyển tiếp nối kết câu chuyện trước đó với câu chuyện theo sau: “Đức Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của mình” (6: 1); tiếp đó, giới thiệu bối cảnh của câu chuyện: “Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (6: 2a). Đây là phương thức rao giảng của Đức Giê-su. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (1: 21). Đây cũng là phương thức mà sau nầy thánh Phao-lô chọn trong các cuộc hành trình truyền giáo của thánh nhân. Phương thức nầy thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng nếu như không có các hội đường Do thái, thì Ki-tô giáo sẽ không lan tràn ra khắp nơi.

Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ tụ họp ở đây để cầu nguyện, cử hành phụng vụ Lời Chúa, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát. Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát nầy, trong hội đường Na-da-rét nơi Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được mời để công bố và giải thích Lời Chúa. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).

Giáo huấn của Ngài làm cho mọi người thán phục: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao?”, và những phép lạ mà họ đã nghe nói khiến họ ngưỡng mộ: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (6: 2b). Nhưng rồi từ thái độ thiện cảm lại biến thành ác cảm khi họ nghĩ đến gia thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng nầy ai mà không biết Ngài: cha mẹ của Ngài, họ hàng bà con thân thích của Ngài sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ lớn lên trong làng nầy, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Khi xét đến gia thế của Ngài, họ nghi ngờ về sự khôn ngoan của Ngài: làm thế nào một người xuất thân từ một gia thế tầm thường ở giữa họ lại có những lời lẽ khôn ngoan được chứ? Cũng như khi xét đến nghề nghiệp của Ngài, họ không thể nào tin rằng những phép lạ của Ngài: làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể làm những phép lạ được chứ? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, nay họ bày tỏ thái độ thù địch công khai với Ngài.

2).Con bà Ma-ri-a:

Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, thánh Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng thánh Giu-se đã qua đời? Lý do nầy chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, người Do thái có thói quen trích dẫn tên người cha, thậm chí cho dù người cha đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô biên soạn sách Tin Mừng của mình, thì Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (x. Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.

3).Anh em của Ngài:

Những “anh em” nầy là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (trong ngôn ngữ Hy bá không có các từ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa chú bác và cháu (x. St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (x. Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).

Chúng ta biết hai trong số “anh em” của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau nầy lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và ông Giô-xết mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mc 15: 40-41; Mt 27: 56; Ga 19: 25).

4).Giá trị lịch sử của câu chuyện:

Gia thế và nghề nghiệp của Ngài trở nên chướng ngại khiến “họ vấp ngã vì Người” (6: 3). Phản ứng của những người đồng hương cung cấp cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Phản ứng của dân làng Na-da-rét nầy là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ nhân tính của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.

5).Câu trả lời của Chúa Giê-su:

Trước thái độ cứng lòng tin của những người đồng hương, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (6: 4). Câu thành ngữ nầy đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn nhiều ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven truy bắt phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị những người đương thời nhục mạ, làm khổ cách này hay cách khác.

Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật nầy. Câu chuyện Chúa Giê-su về thăm Na-da-rét kết thúc với lời nhận định thật buồn của Đức Giê-su: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” (6: 6).

Với bài trình thuật nầy, thánh Mác-cô hoàn tất Phần thứ hai sách Tin Mừng của mình: “Đức Giê-su và thân nhân” (3: 7-6: 6). Phần thứ hai nầy nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- B

SỨ MẠNG CỦA NGÔN SỨ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Êd 2,2-5) : Ngôn sứ Êdêkien lãnh nhận sứ mạng nói Lời Chúa cho một dân cứng lòng.

– Tin Mừng (Mc 6,1-6) : Ngôn sứ Giêsu không được đón nhận ở quê hương Nadarét.

– Bài đọc II (2 Cr 12,7-10) : Ngôn sứ Phaolô tâm sự : bản thân mình rất yếu đuối, nhưng ơn Chúa làm cho ông nên mạnh mẽ.

*I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Có lẽ anh chị em ít khi ý thức rằng qua bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta được chia xẻ với Đức Giêsu sứ mạng làm ngôn sứ.

Hôm nay chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là thế nào, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ mạng ấy.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng ta chỉ lo sống đạo cho mình mà không ý thức sứ mạng ngôn sứ của chúng ta.

– Chúng ta không dám nói về Chúa cho người khác.

– Chúng ta không can đảm bênh vực sự thật và công bình.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I (Êd 2,2-5)

Ngôn sứ Êdêkien kể về ơn gọi của mình :

– Ông đã được chính Thiên Chúa kêu gọi

– Khi gọi ông làm ngôn sứ, Thiên Chúa ban “thần linh” cho ông.

– Sứ mạng của ông là chuyển sứ điệp của Chúa đến với con cái Israel.

– Nhưng đó là một sứ mạng khó khăn, bởi vì họ là một dân cứng lòng.

*2. Đáp ca (Tv 122)

Có thể coi Tv 122 này là những tâm tình của một người lãnh sứ mạng ngôn sứ :

– Ngôn sứ luôn nhìn lên Chúa là Đấng đã kêu gọi mình

– Trong những lúc khó khăn, ngôn sứ cảm thấy ê chề chán nản

– Nhưng ngôn sứ luôn trông cậy vào Chúa, xin Ngài cứu giúp.

*3. Tin Mừng (Mc 6,1-6)

Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nadarét. Đến ngày Sabát, Ngài vào hội đường và giảng Thánh Kinh.

Ban đầu những người đồng hương rất ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan của Ngài và vì những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác.

Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài (chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường), họ không tin Ngài nữa.

Chính vì thái độ không tin ấy, nên ở Nadarét Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.

*4. Bài đọc II (2 Cr 12,7-10)

Thánh Phaolô chân thành chia xẻ tâm sự của mình :

– Bản thân ông rất yếu đuối. Ông cảm thấy như có một cái dằm luôn đâm vào da thịt mình. Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu “cái dằm” này là gì. Dù chúng ta chưa xác định cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là ám chỉ đến những sự yếu đuối của Phaolô.

– Chính vì ý thức yếu đuối như thế nên nhiều lần ông ngã lòng, xin Chúa cất khỏi cái dằm ấy.

– Nhưng Chúa đã khích lệ ông : “Ơn Ta đủ cho con”

– Cuối cùng ông tin tưởng và tiếp tục sứ mạng, “vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ”.

*IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Tiếng nói của những ngôn sứ

Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, vì ngôn sứ không nói tiếng nói của loài người mà là tiếng nói của Thiên Chúa. Loài người thường “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, còn Thiên Chúa thì nói thẳng sự thật để dạy dỗ hoặc sửa lỗi. Mà “sự thật mất lòng” cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai.

Ngôn sứ nói tiếng nói của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân do thái hãy sám hối tội lỗi chứ đừng ỷ lại vào sự kiện họ có Đền thờ tại Giêrusalem và cũng đừng nương dựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân do thái kết ông tội phạm thánh và phản quốc. Và họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Gioan Tẩy giả thị bị Hêrôđê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những “sự thật mất lòng”.

Ngày nay có biết bao sự thật ê chề trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên những điều đó. Nhưng buồn thay, đa số kitô hữu, thậm chí những cán bộ Tin Mừng và những tu sĩ, giáo sĩ đã chọn thái độ giả điếc làm ngơ và ngậm miệng. Chỉ vì muốn được yên thân. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.

Ta có thể nói thẳng bằng những lời bộc trực, hoặc khéo léo hơn bằng lời lẽ từ tốn tế nhị, nhưng không bao giờ nên ngậm miệng không nói.

  1. Tiêu chuẩn Chúa chọn người

Khi chọn ai, Chúa theo những tiêu chuẩn rất lạ : không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc… Thánh Phaolô đã liệt kê 5 tiêu chuẩn Chúa theo :

. những cái yếu đuối,

. những cái ngu dại,

. những cái hèn mọn,

. những cái bị khinh thường

. và những cái hư không. (Sunday School Times).

  1. Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9)

  Thiên Chúa luôn ban cho ta đầy đủ ơn Ngài  :

. Khi gánh đời ta nặng hơn, Ngài ban thêm ơn

. Khi công việc ta cực nhọc hơn, Ngài ban thêm sức

. Khi Ngài gởi khổ sầu, Ngài cũng gia tăng lòng thương xót

. Khi Ngài gởi đến thử thách, Ngài cũng gởi đến bình an

. Lúc ta cảm thấy sức mình hầu như cạn kiệt thì đấy là lúc ơn Chúa thực sự tràn đầy. (Góp nhặt).

  1. Phép lạ

Bài Tin Mừng hôm nay đề cập về Phép lạ : Ở quê hương Nadarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nadarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem : phép lạ là gì ? và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không ?

Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên nữa. Thí dụ : trong khoa vật lý học, chúng ta biết có quy luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo quy luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.

Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.

Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao ? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là : Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên : phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra ? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những quy luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng quy luật tự nhiên mà Ngài đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).

Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì ? Thường là Đức Tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẻ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẻ vững vàng hơn.

Trong các sách Tin Mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không ?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thoả thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế : những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ một nghèo nàn tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thoả mãn tính vụ lợi của họ.

Có những người rất nhẹ dạ dễ tin : chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.

Có những người rất hay cầu xin phép lạ : phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.

Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý : điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là Đức Tin : phép lạ xảy ra là vì Đức Tin : hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẻ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.

– Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v…. khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo Hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo Hội  mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo Hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì Đức Tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.

– Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể : tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa… chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng… Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu., bệnh tật, buồn khổ… chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.

*5. Có tin mới thấy

Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.

Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.

Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích : Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.

*

Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.

Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói : “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.

Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.

Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.

Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.

Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết : “Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt.11,1). James Woodbridge viết : “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người”.

Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Người đã không thể làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.

Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin ; thì chính Niềm ti?nh Phaolô đã nói rất đúng : “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Người ta thường không té ngã vì yếu, nhưng vì tưởng mình mạnh. Thánh Phaolô biết mình yếu, nhưng đồng thời Ngài cũng biết bù đắp sự yếu đuối của mình bằng sức mạnh vô địch của Chúa, “vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối (của con người)”. (Viết theo Flor McCarthy)

*7. Dụ ngôn sống động về chung hiệp đại kết

 Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy : “Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập.” Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là Thầy Roger. Đối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy. Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé. Thầy Roger đã kiếm cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh đặt thầy trước những con người cụ thể bị Đức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt. Thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân Đức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Taizé, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là trở nên như “bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp”. Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải. Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là : Phải dám liều thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo. Ngay từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng. Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II. Thầy nói : “Đức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Taizé mà ngài gọi là mùa xuân, được chào đời.”

 Ngày nay cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho người nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé để tham gia việc đón tiếp khách từ thập phương.

Ảnh hưởng của Taizé về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Để nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu. Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ. Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.

 Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger gửi đến tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng. Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa như chất liệu để suy niệm suốt năm cho tới cuộc họp cuối năm tới. Thư đó vị sáng lập cộng đoàn Taizé thường viết từ một nơi nổi tiếng về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Êtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu….

 Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy ? Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu từ nơi bà ngoại thầy. Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng : “Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua ! Đừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe ! Hãy góp phần chuẩn bị để Âu Châu được bình an nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu.” Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã chọn đến nhà thờ Công Giáo để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể. Thực ra ngoại không chỉ nói cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn. Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.

 Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17. Khi ấy thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa. Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau. Hỏi rằng có con đường nào giúp người này hiểu người kia để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng ? Điều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người. Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng : “Nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi.” Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời để đạt cho được mục đích lý tưởng nầy để có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại. Nay thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy càng thêm khởi sắc. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã về thăm quê hương, nhưng những người đồng hương ở Nazaret đã không tin Người mà còn muốn hại Người. Chúng ta là Kitô hữu mang tên của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :

*1. Xin cho mọi người Kitô hữu trong Hội thánh còn yếu đức tin hoặc còn cứng lòng tin / được soi sáng và thông hiểu / để lớn lên trong đức tin và có thể truyền giáo cho mọi người.

*2. Xin cho mọi người trên thế giới còn đang chống đối hoặc dửng dưng với Thiên Chúa / đừng bắt buộc hoặc lôi kéo những người khác phải theo họ / nhưng biết tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người.

*3. Xin cho những người đang có những thành kiến hoặc thất vọng về Thiên Chúa / được gặp nhiều chứng nhân về sự thật và về tình yêu Thiên Chúa / để họ tìm ra ánh sáng và hy vọng.

*4. Xin cho các Kitô hữu trong họ đạo chúng ta đừng tự hào mình đã biết tất cả về Chúa / không muốn tìm hiểu học hỏi gì thêm / để chỉ khư khư giữ lấy những thành kiến sai lầm về Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa Kitô, chúng con là Kitô hữu mang tên của Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu biết Chúa đầy đủ hơn, để chúng con có thể giới thiệu Chúa cho mọi người thân cận, Chúa là Đấng hằng sống hiển trị muôn đời.

*VI. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã chia xẻ cho chúng ta sứ mạng ngôn sứ của Ngài, một sứ mạng vừa cao cả vừa khó khăn. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha chúng ta lời Kinh Lạy Cha, xin Cha giúp chúng ta can đảm thi hành sứ mạng của mình.

– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con can đảm đấu tranh chống lại sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”

*VII. GIẢI TÁN

Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về thi hành chức năng ngôn sứ của mình. Chúc anh em được bình an.

home Mục lục Lưu trữ