Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1453321

CHÚA LÀ SỰ SỐNG

CHÚA LÀ SỰ SỐNG – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống : “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết…” (Kn 1,13).

Bởi ác quỉ ghen tương nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 13-15), nhưng Thiên Chúa “sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ” (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên được Chúa Giêsu là Đầu và là Trưởng Tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.

“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng tối tử thần đang đe dọa chúng ta.

Đoạn Tin Mừng thánh Marcô hôm nay như một dạng “phóng sự” được thánh Phêrô trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy được sự phong phú của nó.

Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé

Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là “đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi và được sống” (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng hội đường Do Thái, vậy mà ông “sụp lạy và van xin” Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả.

Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha : “Xin Ngài đến…để nó được khỏi và được sống !” Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời chúng ta.

Ai chạm đến Ta ?

Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt : “Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi : Ai chạm đến Ta ?” (Mc 5, 31) Thì ra “có một người đàn bà bị bệnh” (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. “Mười hai năm trời sống với bệnh xuất huyết” (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới áo Chúa.

Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh, mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và sức khỏe xác hồn.

Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta : “Bạn có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô” (2Cr 8, 9).

Họ liền chế diễu Người

Những “người nhà” Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông : “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa ?” (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được.

Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo :  “Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô : “Ông đừng sợ, hãy cứ tin” (Mc 5, 36)  Giairô đã tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống niềm tin vào Chúa.

Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non, vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. “Thiên Chúa không vui mừng khi người sống phải chết” (Kn 1,13).

Hãy cho em bé ăn

Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà chúng ta không biết.

Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé. Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa, Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.

Chúa Giêsu bảo họ : “Hãy cho em bé ăn” (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. “Ăn” là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ : ” các con có gì để ăn ?” không phải là để ăn cho thể xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.

Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B

ĐỨC TIN KHAI MỞ QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA- Lm Jos. Nguyễn Thành Long

Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.

Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.

Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ diệu của đức tin.

Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x. Mc 5,35).

Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác, chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt 21,21-22).

Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…

Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.

Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B

PHÉP LẠ CỦA NIỀM TIN- Trích Logos B    

Nguyện đường Sixtina trong nội thành Vatican đã được Đức Giáo Hoàng Sixto IV cho xây cất vào cuối thế kỷ 15. Không những đây là nơi các vị hồng y tụ họp để bầu giáo hoàng, nơi tổ chức những buổi họp quan trọng, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện có những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo, nhà danh họa và điêu khắc lừng danh.

Một trong những bích họa nổi tiếng trên trần nguyện đường Sixtina là bức “Thiên Chúa Tạo Dựng”. Bức họa vẽ tả Thiên Chúa như một ông cụ già uy nghi đang giơ bàn tay hướng về Adam tượng trưng cho con người. Adam trong hình ảnh người đàn ông trần trụi, cũng đang giơ bàn tay hướng về Thiên Chúa.

Hình ảnh hai bàn tay, một của Thiên Chúa, một của con người đang cố vươn tới nhau để chạm vào nhau là một hình ảnh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Đang lúc con người không thể vươn lên tới Thiên Chúa, thì Người đã cúi xuống để chạm đến thân phận hư vô và thấp hèn của con người, để nâng con người đứng dậy trong sự hiện hữu của mình.

Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô, chúng ta cũng bắt gặp những “cái chạm tay” đầy ý nghĩa giữa con người với Thiên Chúa và giữa Thiên Chúa với con người. Những “cái chạm tay” ấy được mô tả qua hai phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để chữa lành người đàn bà bị bệnh loạn huyết và cứu sống con gái ông trưởng hội đường tên Giairô.

Cái chạm tay của người đàn bà loạn huyết

Khi Chúa Giêsu đang trên đường đi đến nhà ông trưởng hội đường để cứu chữa con gái ông ta, thì một người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đã 12 năm, trà trộn trong đám đông và chạm đến áo của Chúa vì bà tin rằng chỉ cần chạm đến áo Ngài thôi cũng đủ để bà được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được chữa lành và được Chúa khen ngợi: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”.

Đối với người Do Thái, loạn huyết là một căn bệnh bị coi là ô uế. Không những ô uế về phương diện thể xác, nhưng còn ô uế về phương diện luân lý. Vì thế, người phụ nữ nào bị bệnh loạn huyết sẽ không được chạm đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền Thờ. Còn những người khác cũng không được đụng chạm đến người bị bệnh. Nếu ai đụng chạm đến người bệnh, cũng bị coi là ô uế.

Người phụ nữ ở đây bị bệnh đã lâu, phải sống trong đau khổ, cô đơn và buồn tủi. Vì thế, gặp được Chúa là một cơ hội may mắn đối với bà. Bà đã khiêm nhường chỉ dám chạm đến áo Chúa. Bà đã có lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã được chữa khỏi. Bà chạm đến áo Chúa không phải chỉ bằng tay mà còn bằng cả lòng tin nữa, một lòng tin đơn sơ mà mãnh liệt, một lòng tin sâu xa đến nỗi đã đụng chạm cả vào trái tim đầy lòng thương xót của Chúa.

Về phía Chúa Giêsu, Ngài đã cảm nhận được sự đụng chạm của niềm tin ấy, khiến từ nơi Ngài phát xuất sức mạnh chữa lành người phụ nữ khốn khổ kia. Chính tình thương của Chúa đã nâng dậy một con người thấp hèn. Tình thương của Chúa cũng xóa bỏ ranh giới ngăn cách người phụ nữ với cộng đồng, với phụng vụ và lề luật. Chúa đã tháo cởi dây trói thành kiến và nghi kỵ của xã hội đối với người phụ nữ đáng thương. Chúa đem lại cho bà bình an và lòng tự tin.

Cái chạm tay của Chúa Giêsu

Khi Chúa Giêsu đang ở bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Chúa. Chợt ông Giairô, trưởng Hội Đường Do Thái bước đến và quỳ xuống trước mặt Chúa để nài xin Chúa đến cứu chữa con gái ông đang hấp hối. Chúa Giêsu chấp nhận lời cầu xin của ông vì thấy ông thật khiêm tốn và có lòng tin.

Thế nhưng, Chúa vẫn còn muốn thử thách niềm tin ấy. Giữa đường, người nhà của ông trưởng Hội Đường đến báo tin con gái ông đã chết ! Chúa Giêsu đã an ủi và củng cố đức tin của ông khi nói với ông : “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”.

Cuối cùng, khi đến nhà ông, Chúa Giêsu đã cầm tay bé gái và truyền cho em chỗi dậy. Có thể nói, còn hơn cả “cái chạm tay”, Chúa Giêsu đã cầm lấy tay em bé, truyền sức sống cho em để em chỗi dậy từ cõi chết. Qua cử chỉ vừa yêu thương vừa đầy uy quyền, Chúa Giêsu đã đem lại sự hồi sinh cho em bé. Quả thật, khi con người không thể vươn lên cao được, thì Chúa đã cúi xuống để vực con người lên. Bàn tay Thiên Chúa khi nắm lấy bàn tay con người, đã xóa nhòa khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người. Bàn tay Thiên Chúa nắm lấy bàn tay con người đã nối liền vô biên với giới hạn. Bàn tay Thiên Chúa nắm lấy bàn tay con người đã truyền sinh khí và sự sống cho con người. Còn về phía con người, tất cả những gì chúng ta có thể làm được, là đặt bàn tay chúng ta vào bàn tay Thiên Chúa với lòng cậy trông.

Chúa vẫn chạm đến ta mỗi ngày

Ngày hôm nay, trong đời sống kitô hữu, đã nhiều lần chúng ta được đụng chạm đến Chúa. Dù chúng ta là những con người phàm tục, Chúa vẫn để cho chúng ta đụng chạm đến Ngài là Đấng rất thánh. Dù đôi môi chúng ta bất xứng, chúng ta vẫn được đụng chạm đến lời Chúa. Dù miệng lưỡi chúng ta thô tục, chúng ta vẫn được đụng chạm đến Mình Máu Thánh Ngài.

Như người phụ nữ bệnh hoạn, đôi tay run rẩy chạm đến áo Chúa, Chúa vẫn sẵn sàng để truyền hơi ấm và sức mạnh đến cho bà. Như người trưởng Hội Đường chỉ xin Chúa đặt tay trên con gái mình, Chúa đã nắm lấy cả bàn tay em và ban cho em cả cuộc sống. Mỗi ngày, chúng ta cần chạm đến Chúa và chúng ta cũng cần được Ngài chạm tới.

Sự đụng chạm sâu xa nhất là sự đụng chạm của lòng tin. Sự đụng chạm đem đến sự biến đổi, chính là sự đụng chạm giữa trái tim với trái tim.

Chúng ta cần có lòng tin để chạm đến Chúa. Và chúng ta cũng cần có sự nhạy cảm để nhận ra những “cái đụng nhẹ” của Ngài trong cuộc sống, khi Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì.

Hơn lúc nào hết, khi rước Chúa vào lòng, Chúa không chỉ đụng chạm đến lòng ta, nhưng Ngài còn hòa tan trong thể xác ta, để Ngài có thể hòa nhập vào cuộc sống ta. Những lúc ấy, ta cũng được mời gọi để cũng đụng chạm và hòa trộn vào những số phận hẩm hiu và bất hạnh chung quanh ta.

Vào tháng 12 năm 1986, khi Đức Tổng Giám Mục Canterbury, Robert Runcie đến thăm Dòng Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta, ngài đã quỳ gối xuống để hôn chân Mẹ Têrêxa. Đức Tổng Giám Mục không phải là kẻ độc nhất diễn tả tâm tình đó. Khi Mẹ Têrêxa đi đến đâu, đám đông thường vây quanh Mẹ để hy vọng được chạm đến Mẹ hoặc sờ chân Mẹ mà thôi.

Sở dĩ Mẹ Têrêsa được vinh dự đó, vì Mẹ đã để ra cả cuộc đời mình để chạm đến những thân phận đau khổ và bệnh tật, những người cùi hủi và nghèo khó nhất. Qua những con người bất hạnh đó, Mẹ đã đụng chạm đến chính Chúa Giêsu.

Hôm nay, hiện diện nơi những người anh em khốn khổ, Chúa cũng đang chờ đợi chúng ta đến để được chúng ta chạm đến. Và ở nơi bàn tiệc lời Chúa cũng như bàn tiệc Thánh Thể hằng ngày, Chúa cũng mời gọi ta đến để chạm đến Ngài. Chỉ cần được đụng chạm tới Ngài, cuộc đời ta sẽ hoàn toàn đổi mới.

home Mục lục Lưu trữ