Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 56
Tổng truy cập: 1444874
CHÚA LÀ NGUỒN AN ỦI
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra những u buồn, thất vọng và chán nản của hai môn đệ đi về làng Emaus. Chắc chắn các ông không bao giờ nghĩ mình phải rơi vào tình trạng như ngày hôm nay. Xét cho cùng, chúng ta cũng không thể trách hai môn đệ này được, vì thất vọng cũng là một tâm lý rất thường có ở con người. Khi mà ta hy vọng quá cao về một điều gì, mà điều đó không được thực hiện như lòng mong muốn thì ta lại càng thất vọng. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy họ đặt hy vọng rất nhiều vào Chúa Giêsu. Đối với họ, Ngài là một vị tiên tri có quyền lực trong lời nói và việc làm trước mặt Thiên Chúa và trước mặt toàn dân. Điều lớn nhất nơi họ là đợi đến thời cơ “chín mùi” sẽ được cùng Ngài đứng lên giải phóng Israel, cùng được chia sẻ phần vinh hoa với Người. Nhưng lại không được như họ suy nghĩ và ước mơ. Không những thế, mà Thầy Giêsu còn bị người ta hành hạ và kết án như một tên tử tội. Rồi đã ba ngày trôi qua đang thất vọng thì có những người phụ nữ lại báo tin “người ta đã lấy mất xác Thầy rồi”. Còn các môn đệ cũng chỉ thấy mồ trống mà cũng không thấy Thầy đâu. Thế là hết! Bao nhiêu hy vọng đã tiêu tan, họ phải lủi thủi về quê mà trong lòng tràn ngập bao nỗi u phiền và thất vọng.
Dù thế nào đi nữa, thì biến cố thương khó và tử nạn vẫn là mối bận tâm sâu đậm cho hai ông. Mặc dù hai ông thất vọng đến tột độ nhưng vẫn không thể nào không nghĩ tới, khi có cơ hội nhất là “dọc đường các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra” nhân cơ hội này Đức Giêsu đã tháp tùng đi với họ. Trong thời gian đi, tuy họ chưa nhận ra Chúa , nhưng Ngài hiểu tất cả, Ngài thấu suốt tâm can họ, biết họ suy nghĩ những gì và đang dự định làm gì. Có thể nói phương pháp sư phạm của Đức Giêsu rất tâm lý. Ngài chờ đợi con người bộc bạch hết những nỗi băn khoăn, lo âu, sau đó Ngài mới từng bước dẫn họ vào ánh sáng Phục Sinh.
Trước tiên Ngài lấy Kinh Thánh chứng minh, cho họ biết rằng họ không hiểu gì cả về Đấng Kitô. Ngài đã giải thích các biến cố chịu nạn cho họ hiểu. Và nhờ Kinh Thánh mà lòng họ đã được “bừng cháy lên”. Nhưng những lời Đức Giêsu dẫn chứng vẫn không thể xoá đi được sự vô tri trong lòng họ, nhưng dù sao thì Lời Chúa cũng làm loé lên trong tâm hồn họ khiến họ nhận ra một ý nghĩa mới cho cuộc đời. Buồn sầu tan biến, tâm hồn họ được tràn đầy niềm hy vọng nhưng mắt họ vẫn chưa mở ra để nhìn “thấy Chúa Phục Sinh” mặc dù lòng họ lúc đó “bừng cháy lên”.
Cuối cùng Đức Giêsu phải đưa họ đến cử chỉ quen thuộc thân thương mà khi còn sống Ngài đã từng làm, đó là “cử chỉ bẻ bánh”. Khi Người cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ, mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người’.
Tâm trạng thất vọng của hai môn đệ đi làng Emaus hôm nào cũng là tâm trạng của chúng ta; thường hay than trách phàn nàn về số phận mà Thiên Chúa đặt để cho ta, phàn nàn tại sao mình bất hạnh quá, sao mà cực khổ quá. Chúng ta cũng hay ganh tỵ, so sánh đưa đến chán nản thất vọng tại sao người khác không theo Chúa lại giàu sang sung sướng, trong khi tôi ăn ở đàng hoàng tử tế, giữ những điều Giáo Hội dạy, thì lại mất mát thua thiệt, Thiên Chúa đâu sao Ngài không ban thưởng cho tôi? Từ đó đâm ra chán chường quay đầu lại với “Giêrusalem”, quay đầu với Giáo Hội và với Chúa. Tương tự như hai môn đệ làng Emaus, chúng ta chỉ có thể hết chán chường khi biết nhìn Thập Giá Đức Giêsu là nguồn cứu độ” không còn đi theo Chúa với tư tưởng thực dụng và lợi ích trần gian nữa. Hơn thế, phải biết chạy đến nguồn an ủi Lời Chúa vì “Lời chúa là ngọn đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105), và cũng biết đón nhận Đức Giêsu Phục Sinh qua Bí Tích Thánh Thể, là dấu chỉ sự hiện diện của Người.
Lạy Chúa! Chúng con sẽ không còn ưu buồn, thất vọng, cũng không còn bơ vơ lạc lõng khi chúng con biết nhận ra Chúa qua những người anh em xung quanh. Nhất là cho chúng con biết tìm nguồn an ủi nơi Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Amen.
Các bạn sẽ làm gì khi một ước mơ bị tan vỡ? Con đường Emmau đã được khai mở và các khách hành hương đến Đất Thánh ngày nay đều có thể bước đi trên cũng con đường mà hai môn đệ xưa kia đã từng sải bước trên đó như trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại. Hầu hết chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được sự chia sẻ kinh nghiệm sống của các môn đệ xưa kia. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ sẵn sàng nói lên là chúng ta có được sự cảm nhận trong tinh thần và thể xác mà các môn đệ xưa đã có khi họ bước đi trên con đường với cõi lòng tan vỡ giấc mộng.
Họ là những người đã từng chia sẻ giấc mộng vinh quang với các người khác cho đến lúc này; họ đã ở với Chúa Giêsu và cảm nhận tâm hồn được ấm áp khi có Ngài hiện diện bên cạnh. Tai họ đã từng được nghe lời Ngài giảng dạy, và mắt họ đã từng mục kích những phép lạ Ngài làm. Họ đã từng tin rằng những lời tiên tri xưa nay đã sắp trở thành hiện thực. Tâm hồn họ đã cảm thấy được sự chiến thắng vinh quang khi cùng với Chúa Giêsu bước vào Thành Thánh trong ngày Lễ Lá; đó là lúc tâm hồn họ tràn ngập niềm hân hoan. Tôi thiết nghĩ rằng khi các môn đệ được nghe dân chúng ca khen Chúa Giêsu thì họ đã nghĩ rằng, “Chà chà, nếu Thầy hành động đúng đắn, đừng có đả động con tầu thì đây là lúc thành công vinh quang để giải phóng dân tộc”. Tuy vậy dĩ nhiên Chúa Giêsu đã lay động con tầu và “thổi bay” nó đi mất theo như kiểu nói của đám thanh niên thời nay. Có câu nói: Tên những nhân vật quan trọng trong lịch sử xưa không làm “đắm tầu” có thể được in trên phía sau của con tem. Tôi không biết điều ấy đúng hay sai, nhưng tôi biết chắc một điều là Chúa Giêsu là một người làm rung động con tầu cách tuyệt hảo. Ngài vào Đền Thờ và lật đổ bàn ghế những kẻ đổi tiền. Ngài làm cho những người nắm giữ chính quyền và những vị tôn giáo Lập Pháp phải tức giận — và như thế giấc mơ bắt đầu bị tan vỡ. Trước ngày thứ Sáu đến không những Ngài biết chắc Ngài phải chết, tuy vậy Ngài còn muốn cuộc tử nạn của Ngài thật đau đớn trong con đường Thánh giá, đến độ chịu lấy án của một kẻ tử tội ghê tởm nhất. Nỗi đau đớn ấy quá độ đến nỗi Ngài đã phải kêu lên lúc gần chết: “Lạy Chúa Tôi! Lạy Thiên Chúa của Tôi! Sao Ngài đã bỏ tôi?” Khi mọi sự đã chấm dứt thì các môn đệ rơi vào hố sâu thất vọng. Không còn câu nào trong Thánh Kinh có thể diễn tả nỗi chua cay, buồn chán hơn được nữa như câu mà người môn đệ đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng tôi đã hy vọng Ngài là Đấng phải đến để giải phóng dân Israel!”
Sau giấc mơ đến than khóc. Chúng ta than khóc về những nỗi thất vọng, ngã thua, mặc cảm tội lỗi: “Chúng tôi hy vọng Ngài là Đấng giải thoát Israel”… “Chúng tôi hy vọng cuộc sống hôn nhân của chúng tôi sẽ mỹ mãn”… “Chúng tôi hy vọng là nó sẽ học xong”… “Chúng tôi hy vọng là kết quả của nội soi sẽ tốt”… vân vân và vân vân!!! Nhưng Các bạn sẽ làm gì khi các giấc mộng bị tan vỡ?
Thường thường chúng ta mang theo cái cảm tưởng như một chú bé được ông bố khuyến khích cậu đặt câu hỏi. Vào buổi đẹp trời nọ, hai bố con đang đi dạo với nhau thì cậu bé bất ngờ hỏi bố: “Ba à, ánh sáng đến từ đâu vậy ba?” Ông bố trả lời: “À, ba không biết. Ba cũng thường thắc mắc về vấn đề đó nữa”. “Vậy rađa nó như thế nào hả ba?” “Ừ, ba cũng không biết nữa”. Sau một hồi hỏi qua đáp lại, chú bé biết rằng ba nó cũng chẳng biết khoảng cách giữa trái đất và hỏa tinh cũng như chiều cao của Empire State Building là bao nhiêu, nên nó nói: “Con xin lỗi ba nhá. Con nghĩ là con không nên hỏi ba nhiều như vậy”. Ông bố trả lời: “Ái dà, con có lỗi gì đâu; hơn nữa, nếu như con không hỏi thì làm sao con biết thêm các điều được”. Nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta cũng đặt nhiều câu hỏi nhưng chẳng có câu trả lời, và nó làm cho chúng ta phải nhào lộn trong những cái thất vọng khó chịu, chán chường và mặc cảm; nhưng nó không dừng ở đó. Chúng ta có thể tụ họp như là những phần tử trong một cộng đoàn thờ phượng và xem mình như những môn đệ của Chúa Giêsu xưa trên con đường vỡ mộng. Chúng ta sẽ thấy rằng Thiên Chúa đã dự bị sẵn cho họ những kinh nghiệm hữu ích cho cuộc đời họ ngay trong những mộng vàng tan nát đó. Họ sẽ cảm nghiệm sự Phục Sinh! Họ sẽ tiến tới sự hiểu biết rõ ràng hơn Thiên Chúa là ai, cách thức Ngài hành động, và Ngài đã làm gì cho thế giới trong Đức Giêsu Kitô. Bấy giờ họ chưa sẵn sàng, nhưng Thiên Chúa yêu họ đến nỗi Ngài đã dùng chính nỗi thất vọng và đắng cay của họ để sửa soạn cho họ có thể lãnh nhận sự cảm nghiệm của niềm vui Phục Sinh.
Hai môn đệ trên đường Emmau chân bước mà hồn họ như lạc mất bởi sự chán chường và đau xót đến nỗi họ đã không nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài đến bên họ. Suốt đoạn đường dài bảy cây số, Chúa Giêsu cùng đàm luận thế mà họ cũng chẳng biết là Ngài, chỉ thấy là một người xa lạ. Nếu họ là những người như thế sao có thể sẵn sàng hy hiến mạng sống mình vì Tin Mừng Phúc Âm? Ở đây có một điểm rất hay trong câu truyện này, đó là hai môn đệ kia còn lại trong họ sự quan tâm đến người khác để có thể thi hành phong tục xưa của người Trung Đông là lịch sự mời mọc người xa lạ. Khi họ đã đến Emmau và sắp sửa quẹo vào con đường về nhà mình thì tự động nói với Người Khách lạ rằng: “Xin ông hãy ngụ lại nhà chúng tôi vì trời sắp tối rồi” (Lk 24:29). Ngay khi họ vừa mới làm cử chỉ tự nhiên, mỏng manh của sự lịch sự đó thì tình trạng được thay đổi. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu tựa như ánh sáng tỏa sáng cho họ vậy. Sự Phục Sinh đã đến nhưng chỉ có ban cho họ khi họ biết mở rộng tấm lòng của họ ra đối với nhu cầu của người khác; và từ đó họ đã chỗi dậy và chạy. Câu chuyện thuật lại cho chúng ta biết rằng họ đã chạy đi suốt con đường trở lại Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác. Nhưng họ vẫn không ngừng ở đó, như theo Thánh Luca người đã viết Phúc Âm này cùng với sách Tông Đồ Công Vụ, họ đã ra đi loan báo khắp vùng Địa Trung Hải, Đamascô, Antiôkia, Tiểu Á, Rôma và khắp nơi mà họ có thể để thi hành sứ vụ Chúa Kitô giao phó cho họ. Tuy vậy như đã nói trước các công việc đó, họ cần phải bị làm cho “trống rỗng” để ơn Chúa có thể vào trong tâm hồn họ.
Thánh Luca thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh với hai môn đệ trên đường đi về Emaus. Hai người lữ hành mang nặng tâm trạng chán chường thất vọng. Mọi chuyện bắt đầu từ biến cố Đức Giêsu Nazareth chịu án tử trên thập giá, rồi những lời đồn thổi xung quanh ngôi mộ trống của Ngài. Thất vọng và chán chường đã đưa hai ông đến chỗ hoài nghi: Có phải Thầy là Đức Kitô – Con Thiên Chúa không? Nếu thật thì tại sao Thầy lại chết treo trên thập giá cách ô trọc, nhục nhã như vậy? Chỉ trong đôi ba ngày ngắn ngủi, nhiều biến cố đã xảy ra vượt khỏi trí tưởng của hai ông: Thầy bị bắt, bị đánh đập dã man, bị đóng đinh, rồi xác biến mất… Các biến cố đã xảy ra nhanh quá, dồn dập và choáng ngợp quá, khiến các ông bị khủng hoảng nhiều về niềm tin và hy vọng.
Tâm trạng sầu não của hai môn đệ biểu lộ qua những lời trao đổi với “người khách đồng hành duy nhất”: Bao năm vất vả theo Thầy, “nếm mật nằm gai” những mong ngày Thầy tái lập nước Israel, mình sẽ có một chỗ đứng trong xã hội: không là tể tướng thì chí ít cũng là quận công, tổng trấn… Nhưng giờ đây tất cả đã trở thành mây khói. Hai ông đâm ra hoang mang, hoảng sợ rồi vội vã ra khỏi thành, chạy trốn một sự thật quá phũ phàng.
Gặp người khách lạ, hai ông được dịp giãi bày nỗi lòng ngổn ngang của mình. Người khách lạ ân cần lắng nghe, đồng thời giải thích cho hai ông biết cái chết của Đức Giêsu không phải là sự nhục nhã nhưng là con đường để Ngài đi tới vinh quang. Người khách lạ ấy không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu, Ngài hiện diện giữa các môn đệ để củng cố lòng tin của các ông. Chính buồn phiền chán nản đã che mờ đôi mắt và tâm hồn khiến họ không nhận ra được người đồng hành chính là Thầy chí thánh đã phục sinh.
Đời sống đạo của nhiều người trong chúng ta cũng như hai môn đệ nầy: chỉ gắn “mác” (mark) Kitô hữu để hưởng quyền lợi cá nhân hơn sống thật sự là một Kitô hữu. Nhiều người sốt sắng tham gia các sinh hoạt của họ đạo cốt chỉ để được tiếng tốt, hay để được hưởng lợi từ các chương trình phúc lợi của họ đạo. Nhưng khi gặp chuyện trái ý cũng dễ dàng quay lưng lại với cộng đoàn họ đạo. Sống đạo như thế chưa thật sự vững vàng. Người Kitô hữu đích thực, dù gặp phiền muộn hay khổ nhục nào đi nữa, vẫn luôn có thể và phải tỏ ra an vui và tin tưởng.
Hai môn đệ trên đường Emaus là người gần gũi với Chúa Giêsu khi Ngài còn sống. Hai ông thuộc rành rẽ những điều Chúa Giêsu đã báo trước. Nhưng hiểu biết chưa hẳn đã tin. Mắt hai ông chỉ mở ra khi được dự lễ bẻ bánh với Chúa. Chúng ta cũng sẽ chỉ hiểu biết về Chúa chứ không nhận ra được sự hiện diện của Ngài, nếu ta chỉ tìm kiếm những điều hợp với ý mình chứ chưa thật sự sống cùng cộng đoàn Phụng vụ.
Chúng ta còn gặp nhiều phiền muộn, chán nản trong đời sống đức tin là vì chúng ta chưa thật sự sống với những thăng trầm của cộng đoàn họ đạo. Chỉ khi ta gắn bó cuộc đời mình với sức sống của họ đạo, của Giáo Hội; ta mới nhận được đức tin và niềm hy vọng vững vàng. Chính khi đó, gương mặt Đức Kitô Phục Sinh mới chiếu toả cho chính chúng ta và cho mọi người như đã chiếu toả trong nhà trọ làng Emaus.
Truyện kể rằng: Thánh giáo phụ Sarapio một lần hành hương đến Rôma, ngài đến thăm một nữ ẩn tu và hỏi chị: “Tại sao chị ngồi yên ở đây?” Chị trả lời: “Không, tôi đâu có ngồi yên, tôi đang đi trên đường cơ mà.” Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus. Đường Emmaus là đường đức tin, đường thấy Chúa của hai môn đệ. Hai môn đệ có được đức tin và gặp được Chúa nhờ Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.
Lời Chúa soi sáng lòng tin họ: Hai môn đệ đã không tin Chúa sống lại qua lời chứng của các Tông Đồ và các phụ nữ nên đã rời bỏ cộng đoàn các Tông Đồ, rời bỏ các Tông Đồ là rời bỏ đức tin. Hai người buồn rầu đi bên nhau nói về Thầy mình: “Một Người đầy uy thế trong lời nói, việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” nhưng lại chết thê thảm, nhục nhã. Ước mơ công hầu khanh tướng – bên tả bên hữu của hai ông tan bi?n, giờ chỉ còn là thất vọng. Vì hai ông vẫn xem Chúa Giêsu là Vua chính trị sẽ giải phóng Israel. Chúa Giêsu tiến lên và xin được đồng hành với họ, chứng tỏ Chúa Giêsu đi phía sau hai ông, đang đi tìm hai ông, nhưng mắt hai ông “bị ngăn cản”, lòng hai ông thì u tối nên không nhận ra Ngài. Ngay cả đến khi Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh: từ Môsê đến các ngôn sứ và nói: “Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang sao?”, dù lúc đó lòng họ “đã bừng cháy lên” nhưng vẫn không thấy Chúa. Chính Lời Chúa Giêsu đã làm cho lòng họ bừng cháy lên, tại sao họ vẫn chưa nhận ra Ngài? Thưa: vì Chúa chưa cho họ thấy. Chúa Giêsu chưa mở trí, chưa mở mắt đức tin thì họ không thể thấy Chúa dù Ngài đang đi bên cạnh họ. Đường đức tin của hai môn đệ còn phải nhờ đến Thánh Thể.
Thánh Thể mở trí, mở mắt đức tin họ: Họ nài ép Chúa Giêsu ở lại, dùng bữa tối, ngủ lại để dưỡng sức đi tiếp cuộc hành trình. Tinh thần hiếu khách và lòng bác ái của hai môn đệ với Người Khách dường như xa lạ này là cơ hội cho Chúa ở lại với họ và Ngài đã mở trí, mở mắt đức tin và khơi niềm tin cho họ bằng cử chỉ quen thuộc mà khi còn sống Chúa Giêsu vẫn thường làm cho các môn đệ: “Cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, và trao cho họ”. Tức thì hai ông nhận ngay ra Chúa Giêsu, nhưng Ngài lại biến mất. Vì khi Phục Sinh, Chúa Giêsu không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Như thế, chỉ khi Chúa Giêsu cho họ thấy họ mới có thể thấy. Gặp được Chúa Giêsu, niềm tin đã thôi thúc họ trở về đoàn tụ với các Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện nơi Lời Chúa và Thánh Thể đã làm thay đổi cuộc đời họ: từ con người u tối thành con người đầy niềm tin, làm cho đường xa hoá gần, tối thành sáng, nghi an thành bình an, từ những con người tuyệt vọng thành tràn đầy hy vọng và có lẽ sống.
Tin mừng hôm nay mang ý nghĩa thâm sâu: Đường đức tin của hai môn đệ cũng là đường đức tin của mỗi người chúng ta. Tác giả chỉ tên một môn đệ là Clêôpát. Theo Cha Perrot, người không nêu tên đó chính là mỗi người trong chúng ta. Chúa cũng đang mời gọi ta hãy tin vào Thánh Kinh và Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể có chiếm chỗ quan trọng nhất của đời tôi không? Mỗi khi nghe Lời Chúa, lòng tôi có “bừng sáng lên”, tôi có nghe được chính Chúa đang nói với tôi để rồi tôi biết yêu mến Lời Chúa bằng việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa như Đức Maria xưa không? Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu nhưng tôi có năng chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến tham dự Thánh Lễ để rước Ngài, và viếng Thánh Thể? Chúa còn mời gọi ta nh?n ra sự hiện diện của Ngài trong thế giới vật chất và con người. Người Kitô hữu là người có Chúa và phải thấy Chúa trong mọi biến cố, mọi sự của cuộc sống hằng ngày. Xin mượn lời bài hát của linh mục Thái Nguyên để nói lên khát khao gặp Chúa: “Chúa ơi cho con nhìn thấy, bước Ngài đang đến trong đời con, dưới ngàn hình dong dáng vẻ, Chúa vẫn hiện diện, lặng lẽ trong đời, như tấm bánh nơi nhà tạm đơn sơ, như nơi những kẻ đói nghèo bơ vơ. Chúa hẹn gặp con, Chúa chờ đợi con qua bao biến cố buồn vui, qua những lo toan đời thường, qua ngàn sầu thương vấn vương. Ước gì con trông thấy Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi, ước chi con không bỏ rơi cơ hội đến trong từng ngày để được gặp Chúa trên muôn nẻo đời”. Đúng vậy, phải xin Chúa để ta mới có thể thấy được Chúa vì chỉ khi Chúa cho thấy ta mới có thể thấy. Khi ta thấy Chúa hiện diện trong những thử thách, nghịch cảnh để ta dễ dàng đón nhận trong vui tươi và bình an. Nhưng phải thực sự nhìn nhận rằng mỗi khi ta gặp sóng gió, khó khăn, khó khăn ta thường chán nản thất vọng, chán nản vì ta không thấy Chúa, nhưng Chúa vẫn đang đi sau ta, đi bên ta, đồng hành với ta vì mắt ta bị ngăn cản bởi sự yếu tin, lòng u tối. Khi ta gây bất hoà trong gia đình; mất lòng với khu xóm; chia rẽ trong cộng đoàn, giáo xứ, rời bỏ Giáo Hội, là ta đã bỏ đức tin, bỏ Chúa. Nếu khi đau yếu thể xác chúng ta biết tìm đến bác sĩ để được tư vấn, khám và chữa trị. Vậy tại sao khi tâm hồn và đức tin ta bị chao đảo sao ta không tìm đến Lời Chúa và Thánh Thể Chúa là linh dược để được chữa lành, nâng đỡ bổ dưỡng đức tin, chính nơi đây là điểm hẹn mà Chúa Giêsu đang chờ ta. Thánh lễ là cuộc gặp gỡ sinh động của Thiên Chúa với con người.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Chúa đang quy tụ chúng con đến bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, để cảm nếm hồng ân là sự hiện diện của Ngài, để được huấn luyện trong trường học của Ngài và để không ngừng sống cách ý thức hơn mối hiệp nhất với Ngài trong đường đức tin. Amen.
HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU
Soeur Sourire trong một bài hát có viết rằng: “…Tất cả mọi nẻo đường của trần thế sẽ dẫn ta về quê Trời”. Bài ca ấy thật đơn sơ, dễ thương, dễ đi vào lòng người. Với cây đàn ghi-ta trên tay, với giọng ca ấm, nhẹ, soeur Sourire đã đưa nhiều người đi từ thế giới thực tại tới quê hương đích thực, xa vời vợi là một thế giới linh thiêng: Nước Trời. Vâng, hàng ngày ai cũng phải đặt chân trên một con đường nào đó hoặc con đường nhựa trải rộng, thẳng tắp, ngút ngàn hay con đường mòn, nhỏ bé, ngoằn ngoèo, hoặc trên một chuyến ô tô, tầu thủy, máy bay.
Tất cả những con đường ấy đều đưa một người hay nhiều người tới một đích điểm, một bến bờ, một nơi chốn. Hai môn đệ trên đường Emmau cách đây gần 2.000 năm, sau biến cố Thầy mình bị bắt, bị kết án tử hình, bị treo trên thập tự giá, được mai táng trong mồ, và lúc này đây họ đã được thông báo Thầy mình đã sống lại, không còn trong mồ… Biến cố Chúa chết và sống lại đang làm họ hoang mang, lo âu, sợ sệt, thất vọng vì Con người có tên là Giêsu, Đấng nổi lên như một vị có quyền năng lớn lao, đã làm những việc lớn lao kỳ diệu: chữa nhiều bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ, làm cho kẻ chết sống lại và đem Tin Mừng công bố cho những kẻ nghèo khó. Họ đã hoàn toàn đặt kỳ vọng vào Ngài, họ tin tưởng Vị Cứu Tinh là Vua sẽ khôi phục lại nước Ít-ra-en và họ sẽ chia nhau ghế trong nội các của Chúa Giêsu theo cái nhìn trần tục của họ.
Thế là hết, Thầy mình đã chết, mọi hy vọng của họ đã vỡ tan tành, những hoài bão, ước mơ của họ đã hoàn toàn sụp đổ, họ chẳng còn tin gì nữa, giờ đây trước mắt họ chỉ là mầu đen u tối bao trùm. Chúa Giêsu đã chết và nay đã là ngày thứ ba…
- VẪN LÀ CON ĐƯỜNG SÁNG:
Hai môn đệ trên đường về quê để trở lại nghề cũ, khởi lại công việc từ đầu, đã thất vọng ê chề. Họ nói chuyện với nhau về biến cố vừa qua, rồi họ bàn tính xem phải làm việc gì cho ra tiền, cho xứng danh vì đã lặn lội, từ bỏ theo Thầy mấy năm. Trở về làng cũ để ôm hận, thất bại thì quả là vô nghĩa quá! Nỗi thất vọng càng gia tăng khi con đường Emmau mù mịt, đầy bụi, đầy đất. Mầu đen bao phủ như mây đen vần vụ báo cơn mưa lớn vẫn đang đè nặng trên hai môn đệ.
Sự kiện mồ trống, lời loan báo của mấy người phụ nữ và việc kiểm chứng của Phê-rô, Gio-an vẫn không làm họ an lòng, không làm họ nguôi ngoai cơn buồn chán. Họ vẫn bước những bước nặng nề, mệt mỏi vì đường xa, hiu quạnh. Bỗng có người khách bộ hành xuất hiện, cùng họ sánh bước. Họ vẫn nói chuyện về biến cố vừa qua. Người khách bộ hành giả như không hay biết chuyện gì và rồi vặn hỏi họ. Họ đã trả lời cách rất tự nhiên, thành thật trước lời yêu cầu của vị khách bộ hành về tất cả nỗi thất vọng ê chề của họ khi vị Thầy khả kínỏc họ đã bị giết chết oan uổng…
Chính lúc niềm hy vọng đã trở thành thất vọng, thì người khách đồng hành sau khi nghe họ kể lể, than van, chán nản, đã khơi trong lòng họ niềm hy vọng lớn lao. Sự an ủi được nhen nhúm trong lòng họ vì người khách ấy đã nói toạc ra với họ về sứ mạng và vai trò của Đấng Cứu Thế trong việc cứu rỗi nhân loại qua cái chết tang thương khổ giá. Người đã cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ và dựa vào các Ngôn Sứ, Mô-sê để nói cho họ về Đấng Mê-si-a, nghĩa là chính Người: “Đức Giêsu Ki-tô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh hiển” (Lc 24, 26).
Lòng họ bừng cháy hừng hực vì họ thấy được ủi an và họ cảm mến người lữ hành đã đốt lên ngọn lửa hy vọng trong cõi lòng họ đang tê tái, tan nát, ê chề… Con đường vẫn còn xa tít mù khơi, chiều dần buông xuống, hai môn đệ cố nài người khách vào quán trọ bên đường Emmau với họ để nghỉ ngơi, dùng bữa và lại tiếp tục cuộc hành trình về quê. Vị lữ hành giả bộ cứ đi và trước thịnh tình của hai môn đệ, Người đã vào quán trọ dùng bữa tối với họ, chính giờ phút ngồi vào bàn họ vẫn chưa nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Hai môn đệ chỉ nhận ra Đức Giêsu khi: “…Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24, 30).
Và Lu-ca nói, khi mắt họ mở ra nhận ra chúa Giêsu, Người lại biến mất (Lc 24, 31). Lời ca du dương, trầm bổng, có lúc cho ta có cảm tưởng cao vút trời mây của bài ca: “Tất cả mọi nẻo đường” của Soeur Sourire đã chỉ ra rằng nhận ra Chúa trên mọi nẻo đường của đời sống là lúc ta đạt được Nước Trời như hai môn đệ trên đường Emmau đã hạnh phúc, hết âu lo và lấy lại sự bình an tâm hồn khi mắt họ mở ra thấy được Chúa Phục Sinh.
- CHÚA PHỤC SINH ĐANG ĐỒNG HÀNH VỚI TA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG:
Oscar Wilde có viết một câu đầy thú vị: “Xuyên qua một trái tim bị dập nát, Chúa Ki-tô có thể bước vào”. Trên cuộc hành trình đức tin, trong cuộc sống hằng ngày, có nhiều lần và rất nhiều lần chúng ta cũng có cái nhìn, suy nghĩ bi quan, yếm thế như hai môn đệ trên đường Emmau. Khi gặp chông gai, thử thách, khó khăn, chúng ta dễ nản chán, có khi chán nản, thất vọng. Đức Tin của ta còn non yếu hay ta chưa đủ đức tin để tin nhận Chúa Giêsu sẽ giúp ta giải quyết những khó khăn, khúc mắc, những ngõ cụt của đời ta. Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với ta trên mọi nẻo đường, ta tìm Ngài sẽ gặp được Ngà: “…Mỗi lần ta làm một việc nào tốt cho một người bé nhỏ là ta đã làm cho Chúa” (Mt 25, 31 – 46) hay ta nhân danh Chúa mà cầu nguyện, mà hoạt động thì chính Chúa sẽ hoạt động trong ta.
Phê-rô đã cảm nghiệm Chúa tha thứ và hiện diện với ông làm sao khi ông nhìn vào Chúa và Chúa quay nhìn ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt. Và kinh nghiệm của Phao-lô trên đường Đa-mát đã chứng minh ông đã gặp Chúa như thế nào và ông đã đối diện với Chúa làm sao? Các Tông Đồ khác cũng có những cảm nghiệm như thế khi đối diện với Đấng Phục Sinh, khi họ được Chúa Thánh Thần khai mở trí cho họ. Gio-an đã thấy Chúa Phục Sinh khi Người đi trên mặt hồ và Phê-rô đã nhảy tõm xuống nước khi nghe Gio-an nói: “Chúa đó “.
Vâng, các Thánh là những người đã gặp được Chúa vì họ dám tin và dám liều mình để tin. Thánh Phan-xi-cô Khó Khăn đã nhận ra Chúa trong sự khó nghèo và Ngài đã thực hiện sự nghèo khó ấy qua cuộc sống, qua Dòng Tu Ngài để lại cho Giáo Hội, cho thế giới. Thánh An-phong, Thánh I-nha-xi-ô thành Loyola và nhiều Thánh khác đã minh chứng hùng hồn rằng họ đã gặp Chúa và để lại cho các sĩ tử trong Dòng của các mình để giới thiệu Chúa Phục Sinh cho người khác.
Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta đã nói: “Hãy làm một cái gì tốt, cái gì đẹp cho Chúa…” Cái tốt, cái đẹp trong việc phục vụ người nghèo, người neo đơn, người hấp hối, cứu thoát các trẻ nhỏ trong bụng mẹ là những cử chỉ, những hành động đầy tình thương, đầy ấn tượng, Mẹ Tê-rê-xa Calcutta và các Nữ Tu Thừa Sai Bác ái của Mẹ đã làm vì Mẹ tin tưởng các hành động, các việc làm bác ái ấy là đang làm cho Chúa Phục Sinh.
Chúa Phục Sinh đã giải thích Thánh Kinh và thông hiệp bữa ăn với hai môn đệ trên đường Emmau, Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục làm cho chúng ta những điều đó, Người đang đồng hành với ta trên mọi nẻo đường. Người hiện diện trong các giờ kinh nguyện, trong các giờ Phụng Vụ đọc Lời Chúa. Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi mà Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại là bằng chứng hùng hồn nói lên sự hiện diện của chúa (Cv 2, 42 – 46 và 4, 32 – 34). Chúa hiện diện trong Thánh Lễ đầu tiên sau khi Ngài sống lại với hai môn đệ (Lc 24, 30). Chúa vẫn tiếp tục hiện diện với nhân loại qua mọi Thánh Lễ mà các Linh Mục cử hành hàng giây, hàng phút, hàng giờ trên thế giới này.
Chúa sống lại vẫn đang đồng hành với nhân loại trên mọi ngả đường, trên vạn nẻo đường, Người sẽ biến đổi tâm trí và cõi lòng con người như đã biến đổi hai môn đệ xưa nhận ra Ngài. Liệu đã nhiều lần Chúa Phục Sinh đồng hành với ta, ta đã nhận ra Người hay chưa? Ta đã đi với nhiều người trên đường, trong cuộc sống, họ là hiện thân của Chúa Phục Sinh, có lẽ rất nhiều lần ta đã không nhận ra Chúa sống lại đang ở trong họ (Mt 25, 31 – 46). Xuyên qua một con tim tan nát, dầy vò, chán nản, thất vọng, Chúa Phục Sinh sẽ biến đổi nó để Người ngự trị. Chúa Phục Sinh sẽ ở với ta, sẽ đồng hành với ta trên mọi ngõ ngách, trên mọi nẻo đường của cuộc đời, Ngài luôn hiện diện trong Lời của Ngài và trong Bí Tích Thánh Thể.
Hãy đọc kỹ lời này của Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta: “Hoa trái của lòng tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an”. Có bình an trong tâm hồn và thể xác, ta mới nhận ra được sự có mặt của Chúa vì Chúa là Tình Yêu và Bình An.
Câu hỏi gợi ý:
- Có bao giờ bạn nghĩ: rất có thể mình cũng sẽ gặp trường hợp tương tự như hai môn đệ làng E-mau: một người nào đó nói chuyện với mình, yêu cầu mình giúp đỡ, lại chính là Đức Giêsu không? Có thể rút ra bài học gì từ bài Tin Mừng hôm nay về sự đồng hóa giữa Đức Giêsu và tha nhân (tha nhân là Đức Giêsu, Đức Giêsu là tha nhân của ta)?
- Có người chủ trương: yêu người chính là yêu Thiên Chúa. Chủ trương ấy có nền tảng trong Kinh Thánh không? Hãy trưng dẫn một vài câu tiêu biểu.
Suy tư gợi ý:
- Hai tông đồ ở E-mau không nhận ra Đức Giêsu nơi người bộ hành cùng đi với mình
Một điều khá kỳ thú trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là các tông đồ đã sống với Đức Giêsu suốt ba năm, đã từng nghe Ngài nói, giảng dạy, thế mà nay, khi Ngài sống lại, cùng đi với các ông, giảng dạy cho các ông, các ông lại không nhận ra Ngài. Có lẽ Ngài đã mang một bộ mặt xa lạ, đã đội lốt một người bộ hành như bao bộ hành khác. Điều các ông không ngờ được là người mà các ông tưởng là một bộ hành xa lạ ấy lại chính là Đức Giêsu, Thầy mình. Các ông chỉ nhận ra Ngài khi Ngài đồng bàn với họ, chính xác là khi Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Nghĩa là khi các ông thấy có sự giống nhau giữa người bộ hành này với Thầy mình. Rất may là các ông đã đối xử với người bộ hành ấy rất tốt: chăm chú nghe người ấy nói, mời ở lại dùng bữa… Nếu không thì thật đáng tiếc.
- Coi chừng kẻo chính chúng ta cũng không nhận ra Đức Giêsu nơi những người chung quanh ta
Điều kỳ thú đó cũng xảy ra một cách tương tự biết bao lần trong đời sống chúng ta. Chúng ta sống với những người chung quanh mình, mà không bao giờ hoặc rất ít khi ta nhận ra Thiên Chúa hay Đức Giêsu ở nơi họ. Dường như đối với ta, Thiên Chúa hay Đức Giêsu là người ở đâu đâu, ở trên trời, ở trong nhà tạm của nhà thờ, hoặc ở khắp nơi một cách thiêng liêng. Ngài có vẻ là một thực tại rất trừu tượng, nếu có cụ thể thì chỉ là những ảnh vẽ, những bức tượng bất động, vô hồn. Và tình yêu của chúng ta đối với Ngài cũng rất trừu tượng, rất bí tích, chỉ được thể hiện bằng sự hướng thiện, bằng việc năng cầu nguyện, năng tham dự và lãnh nhận các bí tích.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một chân lý hết sức quan trọng. Thiên Chúa hay Đức Giêsu có thể chính là người bộ hành mà mình ngỡ là rất xa lạ. Nghĩa là Ngài có thể mặc lấy những bộ mặt khác nhau, hình dáng khác nhau, với những tính tình khác nhau, tư cách điệu bộ khác nhau nơi những người ta gặp trên đời, nơi những người sống chung quanh ta. Và tình yêu của chúng ta – nếu có – đối với Ngài thì phải được thể hiện cụ thể nơi những con người cụ thể ấy, chứ không phải một cách trừu tượng. Có thể nói: muốn yêu Đức Giêsu, thì cách tốt nhất, cụ thể nhất và chắc chắn nhất là yêu những người chung quanh ta, và bất kỳ người nào ta gặp trong cuộc đời. Và cũng có thể nói một cách chắc chắn: nếu ta không yêu những người ấy, thì ta không thật sự yêu Đức Giêsu hay yêu Thiên Chúa. Nếu ta tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa, yêu Đức Giêsu bằng cách này hay cách khác, nhưng ta không hề yêu Ngài nơi những con người cụ thể chung quanh ta, thì tình yêu ấy chắc chắn chỉ là một ảo tưởng. Rất có thể ta đang yêu chính bản thân mình một cách ích kỷ, nhưng sự ích kỷ ấy lại mặc lấy một hình thức khôn khéo là yêu Thiên Chúa hay Đức Giêsu một cách trừu tượng.
- Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân của ta
Có thể nói những người chung quanh ta là những Đức Giêsu rất sống động, rất cụ thể. Hay nói một cách khác, trong một mức độ nào đó, họ chính là hiện thân của Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Chân lý này có một nền tảng rất vững chắc trong Kinh Thánh.
- Tha nhân là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26.27; 9,6): Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa hay Đức Giêsu mà không yêu hình ảnh hay hiện thân của Ngài. Khi hai người yêu thương nhau, họ rất quí hình ảnh của nhau, và hình ảnh đó là một biểu trưng có tính đại diện cho chính người trong ảnh. Coi thường hay xúc phạm đến hình ảnh của một người luôn luôn được coi là xúc phạm đến chính con người ấy. Hai môn đệ làng E-mau nhận ra người bộ hành là Đức Giêsu khi người ấy bẻ bánh giống như Đức Giêsu. Con người được tạo dựng “giống như” Thiên Chúa (St 1,26; 5,1), điều ấy có làm ta nhận ra Ngài nơi họ không?
- Tha nhân là con cái Thiên Chúa (x. Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10;): Tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, đều gọi Thiên Chúa là Cha, và cùng là anh em với nhau. Con cái một cách nào đó là hiện thân của cha mẹ. Kinh nghiệm đời sống cho ta thấy: ai yêu cha mẹ tất nhiên cũng yêu thương anh chị em mình. Và ai không yêu thương anh chị em mình, chắc chắn tình yêu đối với cha mẹ cũng rất nhạt nhẽo hoặc giả tạo.
- Từ những căn bản trên, Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân của ta (x. Mt 10.40; 18,5; 25,40.45; Lc 10,16): Ta làm gì cho tha nhân của ta, trước tiên là những người gần gũi ta nhất, rồi đến những người sống chung quanh ta, những người ta thường gặp, và tất cả mọi người, chính là làm cho Ngài. Ta yêu họ chính là ta yêu Ngài, ta ghét họ chính là ta ghét Ngài, hy sinh cho họ là hy sinh cho Ngài, làm hại họ là làm hại chính Ngài.
- Yêu tha nhân là yêu Thiên Chúa, và là chu toàn luật Chúa
Trong Cựu Ước, khi trình độ con người còn thấp, có sự phân biệt rõ rệt giữa Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, có hai điều răn quan trọng nhất là: “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5) và “hãy yêu người khác như chính mình” (Lv 19,18). Đức Giêsu đã nhắc lại hai điều răn ấy như hai điều luật căn bản của Lề Luật cũ. Nhưng qua thời Tân Ước, khi trình độ của con người cao hơn, hai điều răn ấy được tóm lại thành một: hễ yêu Chúa tất nhiên phải yêu tha nhân, và hễ yêu tha nhân thật tình tất nhiên là đã yêu Chúa rồi. Thánh Gio-an viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Vì thế, thánh Phao-lô viết: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10), “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2). Thánh Gia-cô-bê cũng nói: “Anh em làm điều tốt nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta chân lý quan trọng này: tha nhân chính là hình ảnh, hay một cách nào đó, là hiện thân của Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy tập nhìn họ là “Em-ma-nu-el” (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta). Thiên Chúa hay Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, ở với chúng ta qua những người chung quanh ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, bài Tin Mừng hôm nay thật là tuyệt vời, nó cho con thấy và nhắc lại cho con một chân lý kỳ diệu: Những người gần gũi với con, sống chung quanh con một cách nào đó là hiện thân của Cha, của Đức Giêsu. Vì thế, yêu Cha, yêu Đức Giêsu tất nhiên phải yêu những người ấy. Và chỉ khi con yêu họ, con mới chứng tỏ được rằng con thật sự yêu Cha và yêu Đức Giêsu. Xin giúp con yêu họ thật sự bằng hành động cụ thể.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam