Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 93
Tổng truy cập: 1445490
CHÚA KITÔ BIẾT RÕ ĐỜI TÔI
Chúa Kitô biết rõ đời tôi - Đaminh M. Cao Tấn Tĩnh
Theo tinh thần của phụng vụ Mùa Chay, qua việc Giáo Hội sắp xếp biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ ở Chúa Nhật tuần thứ nhất Mùa Chay ngay trước biến cố Chúa Giêsu biến hình ở Chúa Nhật tuần thứ hai Mùa Chay, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa trong việc Ngài muốn tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại là để họ có thể tin vào Ngài mà được sự sống đời đời. Mà tuyệt đỉnh mạc khải của Thiên Chúa là ở Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, một biến cố vô cùng mầu nhiệm được Giáo Hội long trọng cử hành trong Tuần Thánh và Đại Lễ Phục Sinh, Biến Cố Khổ Nạn, Tử Giá và Phục Sinh của Người. Đúng thế, chỉ qua Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, tuyệt đỉnh của "tất cả sự thật" (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người, con người mới có thể được "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô" (Jn 17:3).
Thế nhưng, theo Lịch Sử Cứu Độ và Đường Lối Cứu Độ, Thiên Chúa không mạc khải cho con người "tất cả sự thật" ngay từ ban đầu hay cùng một lúc, mà là từ từ cho tới khi "thời gian viên trọn" (Gal 4:4), lúc "Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài" (Heb 1:2), Đấng "là đường lối, là sự thật và là sự sống" (Jn 14:6). Nếu "không ai đến được với Cha mà không qua Thày" (Jn 14:6), thì quả thực Thiên Chúa đã từ từ tỏ mình ra cho con người nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài theo tiến trình tam đoạn: "đường lối", "sự thật" và "sự sống". Nhóm 12 Vị là một trường hợp điển hình: đầu tiên các vị được kêu gọi "hãy theo Thày" (Mt 4:19; 9:9), như đi vào một "đường lối" chật hẹp khó bước lại ít người đi (x Mt 7:14); sau đó các vị mới được từ từ tỏ cho biết "sự thật" về "Thày là ai?" (Mt 16:15); và sau cùng các vị đã được hoàn toàn "thông phần với Thày" (Jn 13:8), khi Người sống lại từ trong cõi chết để làm cho các vị được "sự sống" khi "Người thở hơi trên các vị mà nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh"" (Jn 20:22).
Ba tuần (III, IV và V) giữa của Mùa Chay Năm A, Phúc Âm theo Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc, cũng cho chúng ta thấy tiến trình tam đoạn mạc khải này: Trước hết, ở tuần thứ ba, Chúa Giêsu "là đường lối" tỏ mình ra qua việc làm cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô thấy rằng Người quả thực "là Đấng Thiên Sai" (Jn 4:26,29); thứ đến, ở tuần thứ bốn, Chúa Giêsu "là sự thật" tỏ mình ra qua việc làm sáng mắt người mù từ lúc mới sinh, để anh ta có thể thấy Người "là ánh sáng thế gian" (Jn 8:12); sau hết, ở tuần thứ năm, Chúa Giêsu "là sự sống" tỏ mình ra qua việc làm cho Lazarô hồi sinh để anh ta có thể tự động bước ra khỏi mồ, đúng như lời quyền năng của Đấng tự xưng mình trước khi ra tay "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Jn 11:25).
Nơi tiến trình tam đoạn mạc khải này, ngoại trừ ý nghĩa của việc mạc khải liên quan đến tiến trình "đường lối", "sự thật" và "sự sống" như thế, chúng ta còn thấy một điều đáng chú ý nữa, đó là đối tượng được mạc khải, những đối tượng từ xa tới gần và bao giờ cũng là đối tượng kép: đối tượng mạc khải thứ nhất là một con người ngoại lai tội lỗi ở Samaria vùng đất hoang đàng, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân làng của chị; đối tượng mạc khải thứ hai là một con người Do Thái thuần túy ở Giuđêa vùng đất chính giáo, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng, nhất là nhóm Pharisiêu; đối tượng mạc khải thứ ba là một con người thân thiết chí tình ở Bêthania gần Giêrusalem thành thánh, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng lẫn Hội Đồng Do Thái (x Jn 12:9-11).
Chưa hết, về tính cách của tam đoạn mạc khải theo Phúc Âm Thánh Gioan này, chúng ta thấy việc mạc khải hình như đi ngược với đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, lời loan báo cho thấy yếu tố nhân sinh ("hãy cải thiện đời sống") đi trước yếu tố thần linh ("Nước Thiên Chúa đã đến"). Bởi vì, qua tiến trình mạc khải tam đoạn này, Chúa Giêsu, là tất cả "Mạc Khải Thần Linh" hay "Nước Thiên Chúa", lại tự động tỏ mình ra trước, tự ý đến với con người trước, nhất là ở trường hợp thứ nhất và thứ hai, để nhờ đó, nhờ việc Người tỏ mình ra đó, con người có thể tin Người. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, chúng ta thấy đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu vẫn còn hiện tỏ qua cả ba trường hợp. Bởi vì, ở vào chính giây phút quyết liệt nhất và tột đỉnh nhất của mạc khải, nghĩa là giây phút con người sửa soạn để thấy được Nước Thiên Chúa, để đi sâu vào Thực Tại Giêsu, họ cần phải "cải thiện đời sống", như Moisen cần phải bỏ dép ra trước khi tiến gần đến bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi vậy (xem Ex 3:5). Giờ đây chúng ta cùng nhau khảo sát từng mạc khải một.
Mạc Khải "Thày Là Đường Lối" cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô.
Ở đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này: Chúa Giêsu quả thực đã tự động đến gặp người đàn bà ngoại lai ấy với chủ đích tỏ mình ra cho chị. Người biết được hằng ngày vào giờ nào chị vốn ra kín nước, và giờ kín nước của chí ấy lại là giờ vắng vẻ không có ai, (chắc có thể vì chị mặc cảm bởi đời sống bê tha tội lỗi của mình nên muốn tránh mặt mọi người chăng?). Và chị phụ nữ ngoại lai tội lỗi diễm phúc ấy, dù có ý trốn lánh mọi người ấy, vẫn không thoát được ánh mắt của "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24), do đó, chị đã không biết được Vị Thần Linh này vẫn đang theo dõi chị từng giây từng phút, cho đến lúc Ngài thực sự tỏ mình ra cho chị, vào chính ngày giờ (buổi trưa), địa điểm (bờ giếng), hoàn cảnh (kín nước) và cách thức (xin nước), chị không thể nào ngờ được.
Giây phút quan trọng nhất, quyết liệt nhất, trong đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là lúc Chúa Giêsu, sau khi đã khơi động được lòng khao khát chân thiện mỹ vốn nằm ở tận đáy cuộc đời tội lỗi của chị, như chị lên tiếng xin Người ban nước của Người cho chị, Người bảo chị "hãy về gọi chồng chị". Phải, ở đây, ngay tại chỗ này, vẫn chưa phải là tuyệt đỉnh của mạc khải thần linh, một tuyệt đỉnh chỉ xuất hiện khi nào yếu tố nhân sinh "cải thiện đời sống" nơi con người được tỏ ra, như trường hợp chị phụ nữ Samaritanô này đã tỏ ra, ở chỗ, chị đã thú thật là "tôi không có chồng".
Chính nhờ yếu tố nhân sinh vừa khao khát chân thiện mỹ, dù chưa biết rõ thực tại này ra sao, vừa thành thật không giấu diếm như thế, chị phụ nữ này đã thấy được sự thật về mình, khi nghe Người nói trúng tim đen cuộc đời quá khứ của chị. Nhờ đó, sau cùng chị đã lờ mờ được thấy sự thật về Người "Tôi biết có Đấng Thiên Sai sẽ đến. Khi Người đến Người sẽ nói cho chúng tôi biết hết mọi sự".
Nhất là sau khi Người tỏ mình ra cho chị: "Chính Tôi là Đấng đang nói với chị đây", nghĩa là sau khi mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh, chị đã chẳng những hoàn toàn nhận biết Người mà còn loan báo về Người nữa: "Hãy ra mà xem có người đã nói cho tôi biết mọi sự tôi đã làm! Người này không phải là Đấng Thiên Sai hay sao?".
Nội dung của đoạn nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là vai trò Chúa Kitô "là đường lối" mà con người phải theo để có thể đến cùng Thiên Chúa chân thật duy nhất, bằng không sẽ dễ bị rơi vào tình trạng ngẫu tượng (tin tưởng giả tạo), để rồi hậu quả là sẽ đi đến chỗ ngoại tình (tôn thờ ngẫu tượng, hiến thân phụng sự ngẫu tượng). Như trường hợp của dân Samaria bấy giờ, điển hình là trường hợp của chị phụ nữ tội lỗi ngoại tình này. Do đó, ngay sau giây phút quyết liệt của mạc khải, và trước khi mạc khải tiến đến chỗ tuyệt đỉnh, Chúa Giêsu liền kêu gọi chị "Chị hãy tin Tôi đi", nghĩa là Người kêu gọi chị ta hãy đi theo Người, vì, như Người khẳng định với chị rằng: "Các người tôn thờ những gì các người chẳng hiểu gì cả, còn chúng tôi biết những gì chúng tôi tôn thờ".
Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Giêsu tỏ mình cho người phụ nữ Samaritanô hôm nay cho thấy, tự mình, con người vốn "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Jn 3:19) không thể nào biết "Thiên Chúa là thần linh" (Jn 4:24), nếu Ngài không tự tỏ mình ra cho họ nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài. Vì "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý"(1Tim 2:4), nên Ngài luôn tỏ mình ra cho mọi người và từng người tùy theo hoàn cảnh của họ. Thậm chí cuộc đời tội lỗi của họ càng là cớ mạnh để Ngài đặc biệt đi tìm họ như mục tử đi tìm con chiên lạc duy nhất vậy. Thế nhưng, con người chỉ nghe thấy tiếng chủ chiên của mình, chỉ nhận ra Người "là Đấng đang nói với" mỗi người chúng ta (Jn 4:26; 9:37), khi nào chúng ta, ít là còn khao khát chân thiện mỹ, còn thành tâm nhìn nhận con người mê lầm tội lỗi của mình mà thôi. Ý nghĩa căn bản nhất của thống hối trong Mùa Chay chính là ở chổ này và bắt đầu từ chỗ này, nhờ đó chúng ta mới có thể tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.
59. Duyên Kỳ Ngộ – Đỗ Lực
Có một tình yêu không bao giờ "vẹn câu thề", nhưng đã lưu lại những khúc ca chơi vơi như biển tình lai láng.
Ngày mai em đi
Biển nhớ tên em gọi về
Gọi hồn liễu rũ lê thê
Gọi bờ cát trắng đêm khuya
Ngày mai em đi
Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ
Sỏi đá trông em từng giờ
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ… [1]
Trịnh Công Sơn đứng ở đâu để “gọi bờ cát trắng đêm khuya” mà thấy “sỏi đá trông em từng giờ”? Riêng Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp để gợi lên những giá trị lớn lao và sâu thẳm trong lòng thiếu phụ Samari. Không phải sỏi đá, nhưng ngay trong tâm hồn em, Thiên Chúa đang trông em từng giờ. Cuộc trao đổi thật kỳ thú và mở ra nhiều chân trời mới.
TRỞ LỰC PHẢI VƯỢT QUA
Hôm đó, giữa trưa hè nóng cháy, sau một chặng đường dài mỏi mệt, Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp. Lúc này, chắc chắn các môn đệ nhìn Chúa không giống trên núi hiển dung chút nào. Như thế mới thật là “người” chứ! Không còn cái gì trong thế giới loài người Chúa không chia sẻ! Càng chiêm ngưỡng Chúa trong thực tại con người, càng thấy Người gần gũi trong những mỏng giòn, lo lắng, đau khổ.
Cơn đói khát càng làm tăng vẻ mệt mỏi. Các môn đệ vội vào chợ mua ít thực phẩm ăn trưa. Giữa lúc môn đệ ra đi, tình cờ một thiếu phụ đến kín nước và bắt gặp Chúa đang ngồi chờ... Nếu là một chàng thanh niên Do thái khác, Chúa đã phải tránh ra một nơi, trước khi cô ấy đến bờ giếng. Nhưng không, Chúa vẫn ngồi đó như hẹn hò từ lâu.
Mở đầu câu truyện là một lời van xin: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (Ga 4:7) Thật ngược đời! Chúa là nguồn của mọi nguồn suối lại phải xin một chút nước uống cho đỡ khát. Thiên Chúa không bao giờ đến với chúng ta như một ân nhân. Trước hết Người đến với chúng ta như một hành khất van xin tình yêu. Toàn bộ Tin Mừng đều cho thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu không bao giờ có thái độ kênh kiệu như một người có quyền thống trị. Trước những người môn đệ như Giakêu và Phêrô, Chúa luôn tỏ ra nhỏ bé đợi chờ câu trả lời, van xin tình yêu: “Ông có muốn không?”, “Anh có yêu mến tôi không?”
Thực tế, trong mối tương giao nhân loại, một tình yêu đích thực bao giờ cũng phải van xin. Chính từ giây phút biết người ta cần mình, một sinh vật mới bắt đầu sống hay sống lại. Chúa Kitô luôn là người ăn mày tình yêu chúng ta. Từ thái độ khiêm tốn đó, Chúa đã đi sâu vào tâm hồn con người. Nhất là khi gặp phụ nữ Samari, một người ngoại bang và tội lỗi, Người cũng không thay đổi giọng điệu hành khất đó, dù biết rõ mình là một người Do thái. Có nhiều hàng rào ngăn cản phụ nữ này tiếp xúc với Chúa. Chính cô cũng lên tiếng cảnh giác Chúa điều đó. Nhưng Chúa vẫn cương quyết vượt qua những rào cản về xã hội và chủng tộc. Nhờ đâu?
Trước hết, nhờ Thánh Linh, Chúa thấy tất cả những rào cản đó hoàn toàn bất công vì đã bóp nghẹt tự do và sự sống con người trong những truyền thống phi lý. Chúa tuyệt đối tự do, nên không thể chấp nhận những bất công đó. Chính vì muốn mạc khải mầu nhiệm Nhập thể sâu nhiệm, rao giảng sứ điệp tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã được sai đến với mọi người nam nữ, nhất là những người nghèo khổ, bị tước đoạt, bị mất mát nhiều nhất.
Nếu Chúa Giêsu vượt qua mọi công ước và rào cản, chính vì trước mắt Người, không có ai bị loại trừ. Dù hoàn cảnh xã hội, đạo đức, hay tôn giáo, dù quá khứ có ra sao, ai cũng có thể gặp gỡ Chúa, miễn bằng lòng chấp nhận ân huệ Thiên Chúa đang hiện diện giữa tâm hồn và cuộc sống. Không có gì ngăn trở con người đến với Chúa.
Vấn đề chính yếu là làm sao gặp gỡ Thiên Chúa, khám phá ra tình yêu quảng đại của Người. Nhưng cuộc gặp gỡ này luôn đòi hỏi sự thật. Tình yêu không thủ đoạn. Không thể đóng kịch với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã bắt vào cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari và dựa trên những nền tảng sâu xa, vì Người bắt nàng phải nhìn sâu vào tâm hồn. Người nói: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây." Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng." (Ga 4:16.17) Qua cuộc trao đổi này, Chúa không muốn bắt tội để hạ nhục nàng, nhưng muốn giúp nàng lớn lên và biết mở tâm hồn đón nhận sự thật. Từ trước tới nay, nàng sống trong sự dối trá, nên hoàn toàn mất tự do. Dối trá trong cuộc đời tư riêng cũng như trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Sự thật không biết nghiêng về đâu.
Sự thật chưa xuất hiện vì những tranh chấp tôn giáo giữa Do thái và Samari hầu như bất tận. Họ tưởng có thể nhốt Thiên Chúa vào một nơi mình mong muốn. Người Do thái muốn Chúa chỉ ngự trong đền thờ Giêrusalem. Trái lại, người Samari muốn trên núi Garizim. Nơi thờ phượng, Kinh thánh, truyền thống đều khác với Do thái, đến nỗi người Samari bị khinh miệt như dân ngoại đạo và bị loại trừ. Thật là một bất công quá sâu xa.
Làm sao giải quyết mối bất công tệ hại này? Nếu đứng về phía Do thái, chắc chắn Chúa sẽ bị người Samari căm thù và ghét bỏ. Nếu đứng về phía Samari, người Do thái sẽ không để Chúa yên. Không phải bị giằng co mà Chúa tìm lối thoát qua một lập luận siêu thực. Chúa đã bắt đầu cho nàng biết một sự thật cốt yếu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa” (Ga 4:11) trong tâm hồn chị, thì chính Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ trong chị! Đó là điều cơ bản, là khởi điểm và đích điểm của toàn thể cuộc sống.
Như thế Chúa đã đánh thức ý thức chị về sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong tâm hồn mình và làm cho chị có thể chia sẻ sự hiện diện ấy với người khác bằng một việc thờ phượng đích thực. Người đánh thức chị về ân sủng đã có sẵn trong chị. Vấn đề không phải là nơi thờ phượng, nhưng là phải thờ phượng bằng cách nào. Thờ phượng trong Thần khí và sự thật nghĩa là thờ phượng nhờ ý thức Thánh Linh đang nằm sâu trong con người. Chính Thánh Linh làm cho chị có thể ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa. Thờ phượng đích thực là tôn kính Thiên Chúa bằng cách quảng đại cống hiến tất cả những gì mình đang có cho vị Đại Ân Nhân của đời chị. Thế là một phép lạ đã xảy đến với chị. Nàng không thể đứng yên. Thoát khỏi những ràng buộc của tâm địa hẹp hòi, nàng đã lao mình vào vòng đam mê cứu rỗi toàn thể nhân loại. Thế là nàng đã chạy vô làng để loan báo cho dân chúng. Chúa đã ném lửa vào tâm hồn nàng. Toàn thể xóm làng đã cháy sáng trong Thần Khí và sự thật! Từ nay dân làng sẽ trở thành những người thờ phượng đích thực. Tự do tôn giáo chính là đây! Giêrusalem hay Garizim mất hẳn hấp lực. Từ nay trung tâm thu hút mọi người sẽ là chính Đức Kitô, như dân làng tuyên xưng (x. Ga 4:42).
LÀM NGƯỜI TỰ DO
Nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã trở thành con người tự do đích thực về ba mặt cá nhân, xã hội và tôn giáo. Nàng không còn mặc cảm làm người phụ nữ Samari nữa. Những tội lỗi quá khứ cũng không cầm chân được nàng. Nàng hoàn toàn làm người tự do, không còn lệ thuộc vào truyền thống, đẳng cấp xã hội và nơi chốn thờ phượng Thiên Chúa nữa. Từ nay nàng sẽ chỉ có một nơi thờ phượng duy nhất là trong Thần Khí và sự thật.
Bình thường, thiếu phụ Samari không dám xuất hiện trước đám đông, vì đời tư không được dân chúng tán thành.[2] Nhưng sau khi tiếp xúc với Chúa, tất cả con người nàng đã thay đổi. Nàng đã có đầy đủ sức mạnh để quy tụ mọi người về bên Chúa. Nàng nhận thức rõ ràng “trong và nhờ ĐứcGiêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, thế giới và con người nắm bắt chân lý đích thực và toàn vẹn.”[3] Qua cuộc trao đổi, nàng mới nhận ra Thiên Chúa gần mình hơn mình tưởng. Người hiện diện ngay trong tâm hồn con người. “Càng sống hiệp thông với Thiên Chúa, con người càng được tăng cường sức mạnh và được giải thoát ngay trong bản tính đặc biệt và tự do nổi bật của họ.”[4] Nếu không nhờ Người, làm sao nàng có thể nhận ra hồng phúc được hầu truyện với Đấng Thiên Sai (x. Ga 4:39)? Làm sao tâm hồn nàng được đánh thức để cảm thấy Thiên Chúa đang hiện diện? Làm sao nàng được giải thoát khỏi mặc cảm thân phận phụ nữ Samari? Làm sao nhận ra cách thờ phượng đích thực, không lệ thuộc Giêrusalem và Garizim? Từ nay Do thái không còn lấy lý do gì áp chế người Samari nữa! Bất công sẽ chẳng còn!
Muốn đạt đến tình trạng tốt đẹp đó, cần phải nỗ lực nhìn mọi sự trong ánh sáng đức tin. Chỉ đức tin mới cho chúng ta thấy “trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa được mạc khải như một ngươi Cha và phú ban sự sống cho chúng ta. Trong Đức Kitô, con người lãnh nhận mọi sự như ân huệ từ Thiên Chúa một cách tự do và khiêm tốn. Con người sở hữu vạn vật khi nhận biết và nhờ kinh nghiệm biết vạn vật đều lệ thuộc Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[5] Phải mất bao nhiêu thời gian và công sức, Chúa Giêsu mới có thể thuyết phục thiếu phụ Samari nhận ra chân lý đó? Một khi đã thấy rõ thực tại ấy, nàng cảm thấy như bay trên mọi thứ biên giới trần gian. Không còn ngăn trở nào khiến nàng chùn bước trong công cuộc rao giảng Chúa Kitô cho mọi người.
Khi đã nhận ra chân lý đó, những tranh chấp về con người, xã hội và tôn giáo không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền trên mọi sự. Chỉ Thiên Chúa mới liên kết tất cả. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không phá hủy tự do của con người. Nói khác, “vì con người là một thụ tạo, nên không có gì mâu thuẫn giữa tự do và sự lệ thuộc vào Thiên Chúa.”[6]
Bởi thế, khi được mạc khải về sự thờ phượng đích thực trong Thần Khí và sự thật, thiếu phụ Samari mới cảm thấy hết căng thẳng và nhận ra giá trị cao cả nơi con người Chúa Giêsu và chính mình. Quả thực, tự do tôn giáo là “quyền sống trong sự thật của niềm tin và phù hợp với nhân phẩm cao cả.”[7] Hơn nữa, “sự tôn trọng nhân phẩm đòi người khác phải nhìn nhận chiều cạnh tôn giáo của con người.”[8] Khi áp đặt niềm tin của mình trên người khác, rõ ràng con người không còn tôn trọng “quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những điều tốt đẹp nhất của mỗi người.”[9]
Chính vì lệ thuộc vào truyền thống và đền thờ cũng như Kinh thánh mỗi bên, cả Do thái lẫn Samari không thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Dựa vào lề luật và phong tục riêng, họ còn định đoạt cái gì tốt xấu cho chính mình và người khác. Trước khi gặp gỡ Chúa, chắc chắn thiếu phụ Samari và dân làng đã sống trong sự hậm hực vì bị người Do thái chèn ép, khinh thị và lên án như loài quỷ sứ xấu xa, mặc dù họ cùng chung một lời hứa về Đấng Cứu Thế như dân Do Thái. Đó là một bất công nghiêm trọng nhất.
KHÔNG HẸN MÀ HÒ
Nếu không gặp được Đức Giêsu, thiếu phụ và dân làng Samari mãi mãi sống sau những ranh giới phân chia con người với nhau và với Thiên Chúa. Quanh năm suốt tháng, họ chỉ biết những nhu cầu thường ngày và niềm tin cũ kỹ. Rất may, khi gặp Chúa, họ đã uống được nước “đem lại sư sống đời đời” (Ga 4:14) khiến cuộc sống họ thăng hoa trong thần khí và sự thật.
Bốn thế kỷ sau khi Chúa ra đời, giống như thiếu phụ Samari, thánh Augustinô cuối cùng cũng tìm được mạch nước hằng sống đó. Trong cuốn sách “Tự thuật,” viết giữa khoảng năm 397 và 400, thánh nhân cho thấy “trong ánh sáng Thiên Chúa, nỗi khốn cùng của con người trở thành lời ca tụng và tri ân Thiên Chúa, vì Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận chúng ta. Người biến đổi và nâng chúng ta lên tới Người.”[10] Khác với thiếu phụ Samari, thánh Augustinô không chỉ làm cho một làng gặp gỡ Đấng Thiên Sai. Thực vậy, “khi qua đời, thánh Agustino đã không để lại gì, ngoại trừ thư viện có rất nhiều thủ bản quý hiếm gồm cả các bút tích của người, mà thánh nhân dặn dò phải bảo trì. Qua các bút tích đó thánh nhân vẫn sống động và hiện diện giữa chúng ta ngày nay và tín hữu thuộc mọi thời đại”[11] để mọi người có thể tìm thấy công lý đích thực cho cuộc sống.
Nếu không phát xuất từ Thiên Chúa và con tim nhân loại, công lý sẽ đánh mất sự ấm áp của tình người và trở thành vô tâm. Chỉ Chúa Kitô mới có thể công bố và thiết lập một nền công lý đem lại ấm no, hạnh phúc cho con người, vì Người là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thế mới biết, vì không có Thần Khí và sự thật, bọn Pharisêu chỉ tập trung vào hình thức của tôn giáo và lề luật. Họ đã phá hủy công lý tận nền tảng.
Ngày nay, nhìn vào nền công lý trong xã hội Việt Nam, chúng ta thấy gì? Công lý đó có đem lại hạnh phúc, ấm no cho toàn dân không? Qua giọng điệu tiêu biểu của chế độ sau đây, chúng ta sẽ mới thấy công lý bị đảo lộn tới mức nào. “Ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ,- cho rằng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, tất cả đất đai đều quyền sở hữu của Nhà nước.”[12] Chỉ có xã hội chủ nghĩa mới có thứ công lý như vậy! Công lý đã bị phá hủy hoàn toàn. Thử bỏ súng xuống xem nhà nước có dám lý luận như vậy không? Có người còn nói nhà nước là cha mẹ nhân dân, nên có thể phân phát của cải cho ai tùy ý. Nếu đúng thế, “tại sao khi qui hoạch đất đai để mở rộng phố xá, đô thị, hay lập khu công nghiệp, chính phủ lại phải bồi thường giải tỏa làm chi? Đất của Nhà nước thì cứ sử dụng như “đất chùa”, đâu cần phải thương lượng với ai!”[13] Thế mới biết khi nào cần, người ta có thể xoay đủ chiều để cho vừa cái bụng tham và củng chế độ bất công thối nát của mình, mặc cho dân oan đang đang rên siết khắp nơi.
Tóm lại, nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã được giải oan. Từ mặc cảm tội lỗi, nàng đã tìm được một chỗ đứng trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Những bất công về xã hội và tôn giáo cũng biến mất, vì Chúa đã chỉ cho nàng biết đường lối thờ phượng đích thực chỉ có trong Thần Khí và sự thật. Gặp gỡ Chúa Kitô là gặp con đường giải thoát và đưa tới công lý thực sự trên mặt đất.
Gặp gỡ Chúa Kitô là tìm thấy công lý, “vì công lý xây dựng mối tương quan ngôi vị vững chắc giữa Thiên Chúa và dân Người qua Giao ước và Luật. Nhờ đó, chúng ta biết đường đi nước bước của Thiên Chúa và lòng từ bi của Người. Nhưng công lý cũng thiết lập những mối tương quan vững chắc đó giữa con người, dạy chúng ta biết kính trọng nhau và phát triển những mối tương quan chính đáng đưa đến hòa bình và hòa hợp. ”[14] Chúa Kitô xứng đáng là Đấng cứu độ toàn thể nhân loại vì đã thiết lập được công lý trên trần gian.
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là đi gặp gỡ mọi người, và xác tín rằng họ đang được Chúa Giêsu tìm kiếm, yêu thương và cứu độ, bất chấp hoàn cảnh và lai lịch họ ra sao.
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là không bao giờ thất vọng về tình trạng thù nghịch và xung đột giữa chúng ta, nhưng tin tưởng Chúa Giêsu có thể bẻ gẫy mọi rào cản để quy tụ tất cả trong công lý và tình yêu duy nhất của Người.
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là chiêm ngắm Chúa trong hình dạng mệt mỏi, nhưng lại là Đấng duy nhất có thể củng cố cuộc đời của những ai đang bị thương tổn, đổ vỡ và khai thác. Trên thập giá, một trong lời sau cùng cũng là lời đầu tiên Chúa đã ngỏ với thiếu phụ Samari: “Tôi khát!” Người sẽ ăn mày tình thương chúng ta. Nhưng từ trái tim Người, những mạch nước hằng sống tuôn ra cho tất những ai đang đói khát công lý và tình yêu trên mặt đất.
Lạy Chúa, ngày nay chúng con đang sống giữa bao nhiêu thành kiến và bất công. Xin Chúa sai Thần Khí đến để sự thật là Đức Kitô đem lại sự giải thoát và hạnh phúc đích thực cho chúng con. Amen.
60. Xin cho được uống Nước Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Để hiểu rõ cuộc đấu lý của người phụ nữ xứ Samaria với Chúa Giêsu, cũng như đường lối Chúa dùng để đưa dẫn chị đến việc trao ban cho chị nước hằng sống, ta cần tìm hiểu sơ qua bối cảnh địa dư, lịch sử, chính trị và tôn giáo của dân Do thái thời bấy giờ. Nước Do thái thời Chúa Giêsu được chia thành ba miền giống như ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Từ thế kỷ thứ tám trước kỷ nguyên, miền trung của họ là đất Samaria, bị ngoại bang là người Átxiria chiếm đóng và đô hộ. Luật pháp Do thái cấm người Do thái kết hôn với người khác đạo, cũng như người ngoại bang. Tuy nhiên người Do thái ở Samaria cuối cùng đã chấp nhận dân đô hộ, lập gia đình với thực dân, rồi tiêm nhiễm những phong tục tập quán ngoại bang. Điều đó khiến người Do thái ở miền nam là Giuđê phẫn nộ, coi rẻ người Samari, cho họ là dân lai căng, không còn thuần tuý Do thái nữa.
Sau này miền Giuđê cũng bị đô hộ. Tuy nhiên người Do thái ở đây nhất định không chịu đồng hoá với dân ngoại bang. Khi người Do thái xây lại đền thờ Giêrusalem, người Samari ngỏ ý muốn giúp đỡ, nhưng người Do thái từ chối. Rồi một việc khác xẩy ra là một vị đại giáo trưởng Do thái còn âm mưu cho đốt đền thờ của người Samari. Những thái độ và hành động đó làm cho người Samari căm phẫn, khiến cho hai dân tộc, trước kia thuộc cùng dòng giống, càng ngày càng xa cách. Do đó mà người Do thái từ miền bắc là Galilê muốn xuống miền nam, và ngược lại người Do thái ở miền nam muốn lên miền bắc, không thèm đi qua đất Samaria, nhưng lại đi vòng xa hơn để đạt tới đích. Để giúp cho dễ hình dung, ta có thể tưởng tượng ra người Bắc Việt muốn vào Nam Việt, hay người Nam Việt ra Bắc Việt, không thèm đi qua Trung Việt, nhưng vòng qua đất Lào để tới đích. Vì thế mà hai dân Do thái và Samari thường không giao thiệp với nhau vì mang mối thù truyền kiếp này. Tuy nhiên người Samari vẫn nhận biết Thiên Chúa của người Do thái và họ tin theo bộ sách Ngũ kinh của người Do thái. Họ cũng trông đợi Đấng Cứu thế đến như người Do thái.
Phúc Âm hôm nay kể lại chuyến hành trình của Chúa Giêsu đến thành Xikha thuộc xứ Samaria. Chúa đã không đi vòng để tránh đặt chân lên đất Samaria như những người Do thái khác quen làm, nhưng đi thẳng vào đất Samaria. Và khi dừng chân nghỉ mệt bên bờ giếng Giacóp, Chúa đụng độ người phụ nữ xứ Samaria đi kéo nước. Nước mang hai ý nghĩa và công hiệu quan trọng. Người ta cần nước để rửa sạch. Loài người, loài vật và cả thực vật cần nước uống để sống. Người Do thái trong sa mạc khát nước nên kêu trách Môisê đã đem con đi bỏ chợ như bài trích sách Xuất hành hôm nay kể lại. Môisê xin Chúa can thiệp. Chúa bảo Môisê cầm gậy đập trên tảng đá đê nước chảy ra cho dân uống.
Đối diện với người phụ nữ có vẻ nghi kị và ác cảm, Chúa đành cố gắng phá tan bức tường vô hình ngăn cách bằng cách đặt mình vào thế yếu để xin chị cho nước uống. Phong tục Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng nhất là hàng giáo sĩ và những người có địa vị như Chúa Giêsu. Vì thế mà người phụ nữ bèn mỉa mai nói Chúa là người Do thái mà lại xin chị là người Samari cho nước uống sao? Để trả lời Chúa bảo nếu chị nhận ra ơn Chúa và người nói với chị là ai, chị sẽ xin người cho uống nước hằng sống. Chị liền bắt bẻ, nói Chúa không có gầu mà giếng lại sâu, sao lấy đâu ra nước hằng sống.
Chúa phán bảo chị: Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa (Ga 4:14). Chộp lấy cơ hội, người phụ nữ liền xin cho được nước hằng sống - mặc dù chị chưa hiểu là nước gì - để từ nay không phải đi xa múc nước nữa. Lúc này chị đã nhận ra Chúa Giêsu có gì để ban tặng cho chị. Đến đây Chúa đánh động một niềm thức tỉnh nơi chị bằng cách đưa ra ánh sáng cái thực tại của đời sống cá nhân chị, khi chị nói chị không có chồng. Chúa bảo chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Lúc này người phụ nữ nhận ra nơi Chúa có cái tri giác luân lý, nên nói: Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ (Ga 4:19).
Toan đổi đề tài, người phụ nữ hỏi Chúa xem người ta phải phụng thờ Thiên Chúa ở đâu? Chúa bảo chị không nên quan tâm đến việc tranh chấp về nơi thờ phượng vì sẽ đến giờ khi người ta không hẳn chỉ thờ phượng Chúa ở Giêrusalem hay ở Samaria, nhưng là thờ phượng Chúa ở khắp mọi nơi trên khắp mặt địa cầu. Chị cũng hiểu biết khi Đức Kitô đến, Người sẽ loan báo cho người ta mọi sự. Câu chuyện tiếp diễn đến đây, thì người phụ nữ vội vã trở về kể cho người làng xóm về những gì mà tai và mắt chị đã nghe và thấy và cảm nghiệm được. Người làng tuốn ra gặp Chúa. Cùng với chị, họ đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.
Cuộc đối chất giữa người phụ nữ với Chúa Giêsu cho thấy không những chị ta có vẻ lý sự, mà còn đanh đá là khác - đanh đá dễ sợ. Tuy nhiên xét cho cùng thì chị ta cũng không đến nỗi đáng sợ mấy vì chị biết phục thiện và biết mở lòng. Nếu thực sự đanh đá và cứng lòng, chị ta đã có thể nói với Chúa đừng có tò mò mà xía vô chuyện riêng tư của đời chị. Đứng trước một người nào đó có cái tri giác luân lý, người ta thường nể nang, không muốn chống đối. Đối diện với Đức Giêsu là người mà người phụ nữ nhận ra có tri giác luân lý, chị ta phải nhận cái thực tại về đời sống cá nhân của mình và để cho lòng mềm ra.
Từ câu chuyện xin nước uống, Chúa đưa chị đến việc dần dà mở tâm hồn chị. Chị ta đã nhận ra ơn cứu độ từ việc coi Chúa Giêsu chỉ là một người Do thái thường, qua việc xưng Chúa là ngài, đến việc nhận ra Chúa là một ngôn sứ và cuối cùng tin Chúa là Đấng Cứu thế: Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao (Ga 4:29)? Như vậy câu chuyện Phúc Âm cho thấy Chúa đến mang ơn cứu độ không những chỉ riêng cho người Do thái, nhưng còn cho dân ngoại qua việc ban tặng nước hằng sống cho người phụ nữ Samari. Nước hằng sống theo thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma chính là tìn yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng ta, nhờ Thánh thần của Người (Rm 5:5).
Lạy Chúa, xưa kia một thời tổ tiên chúng con cũng là dân ngoại. Nhờ các nhà truyền giáo, mà tổ tiên con đã được ơn nhận lãnh đức tin. Do đó con cũng được thừa hưởng ơn được uống nước hằng sống. Nếu con đi lầm đường lạc lối về phương diện nào đó trong đời sống, xin cho con được ơn biết thức tỉnh tâm hồn như người phụ nữ Samari, để con được tiếp tục uống nước hằng sống. Amen.
61. Suy niệm của Lm. Peter Hoàng Xuân Nghiêm
Ai là Người Đàn Bà Samaria, Ai là Chúa Giêsu Đối Với Tôi?
1. Bờ giếng Gacóp là môi-trường sống riêng biệt của mỗi cá nhân.
Môi trường nầy có thể là gia đình, là một Phong trào tôi đang sinh hoạt, một Hội đoàn Công giáo tiến hành tôi đang tham dự, là môi trường giáo xứ, môi trường công tư sở mà tôi đang là một thành viên trực thuộc. Bờ giếng Giacóp như một quán nước bên đường, một Rest Area bên xa lộ cuộc đời cho người lữ khách đường xa dừng lại, nghỉ ngơi, bồi đưỡng để lên đường đi tiếp đích điểm cuối cùng của cuộc hành trình.
Tôi là một người đàn bà Samaria đang làm chủ hay đang tiếp xúc, tiếp cận với môi trường riêng tư hay công cộng mỗi ngày hay mỗi tuần khi có dịp.
Chúa Giêsu có thể hiện thân là một trong những thành viên của gia đình tôi, một người bạn đồng sở làm với tôi, một hội viên, một đoàn viên, một thành viên cùng giáo xứ với tôi.
2. Người đàn bà Samaria đã cho Chúa Giêsu nước uống khi Ngài xin.
Muốn tặng nước cho Chúa Giêsu uống, người đàn bà Samaria phải có nước hay phải có gàu để múc nước từ dưới giếng Giacóp lên mà biếu tặng Chúa Giêsu. Muốn cho, muốn tặng thì phải có cái để tặng, để cho. Không ai cho cái mình không có bao giờ cả. Cái nguyên lý căn bản nầy ai cũng biết hết.
Tôi là một người Samaria mới trong vai trò làm vợ tại môi trường gia đình. Chồng tôi là một Giêsu đang tiến lại gần, tiếp cận với tôi và thành khẩn xin tôi thứ nước cảm thông, tha thứ để giúp anh bắt đầu làm tốt lại từ đầu vai trò của một người chồng, người cha mà cả hơn một năm nay đã bỏ bê không ngó ngàng tới. Anh rất ân hận, lúng túng. Anh muốn sửa lại mọi sự trong ngoài. Thứ nước cảm thông, tha thứ từ chị bên bờ giếng Giacóp là môi trường gia đình. Chị có sẵn sàng như người đàn bà Samaria làm cho Chúa Giêsu không?
Tôi là một người chồng trong một hoàn cảnh tương tự như trên đây, tôi có sẳn sàng ban tặng người số một của tôi thứ nước hòa giải để nối lại tình xưa nghĩa cũ đã một thời gián đoạn vì hiểu lầm, để vợ chồng, con cái cùng đoàn tụ trong một môi trường gia đình đấm ấm, hạnh phúc như xưa, được không?
Tôi là một đứa con trong một gia đình. Bố mẹ tôi đã luống tuổi, lại chịu ảnh hưởng của nền văn hoá lâu đời của Việt-Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, chịu ảnh hưởng một nên văn hóa và giáo dục sâu đậm của Hoa-Kỳ. Giữa tôi và bố có sự xung khắc, vì bố tôi chỉ nói tiếng Việt, còn tôi chỉ biết nói tiếng Anh. Hai bố con không gặp nhau trong quan niệm sống và không hoà hợp nhau trong đời sống gia đình. Tôi nghe cha sở của tôi giải thích rằng giưã bố mẹ và con cái có thể không hiểu và không thông cảm nhau vì khả năng ngôn ngữ. Cho nên bố mẹ cần cập nhật-hoá tiếng Anh và con cái cần trau dối thêm tiếng Việt để dễ dàng thông cảm với nhau, nhưng về tình yêu thương bố mẹ Việt-Nam dành cho con cái thì không cần "ấp đết". Tôi đang ngồi bên giếng Giacóp của gia đình trong Mùa Chay như một cơ-hội. Chiếc gầu cảm thông tôi đang cầm trong tay. Tôi chỉ cần thả xuống... kéo lên nuớc "I'm sorry" và đổ vào thùng yêu thương của bố tôi có sẵn thì tôi sẽ trở thành một người Samaria thứ thiệt, bắt đầu từ Mùa Chay thánh năm nay
Tôi là một thành viên có hạng trong Phong Trào. Tôi đang ở trong Ban điều hành cuả Phong Trào. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những người không ủng hộ tôi trong những kế hoạch tôi đề nghị. Tôi muốn loại bỏ và khai trừ hết những người chống đối. Cha Sở của tôi và cũng là linh hướng của Phong Trào nói với tôi rằng ngày xưa tại Nam Việt-Nam, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có nói mọt câu chua cay nhưng để đời: "Trong hoàn cảnh của xã hội Miền Nam hôm nay, nếu sa thải hết những người hối lộ thì lấy ai làm việc công". Cha sở khuyên tôi hãy chấp nhận hợp nhất trong khác biệt và ngài thêm: Biết đâu nhờ những chống đối ấy mà người trong cuộc sẽ cẩn trọng hơn trong các phương án. Âu đó cũng là một điều hay. Bây giờ Mùa Chay là một cơ-hội. Hội Họp của Phong Trào như quán nước Giacóp bên đường. Giếng đây, gàu đây tôi có vui lòng cúi xuống... kéo lên để biến tôi thành một người Samaria mới ở dây và bây giờ không?
Tôi là một thành viên năng nổ của cộng đồng xứ đạo của tôi. Tôi đang giữ một vai trò tương đối có ảnh hưởng. Một ngày kia, có thể là Cha Sở, có thể là một thành viên khác vì thiếu tế nhị cũng có hay vô tình cũng có, đã nói một lời hay tỏ một thái độ... đụng chạm đến tôi. Thế là tôi buồn, tôi giận, tôi bỏ xứ và bỏ luôn cả việc đi lễ tại nhà thờ giáo xứ trong một thời gian dài. Mùa Chay là một cơ hội. Giếng Giacóp là quán nước bên đường mời tôi là một lữ khách dừng lại. Tự nhiên tôi suy nghĩ. Tôi giận người khác, tôi giận luôn cả Chúa được sao? Thiệt là vô lý. Tôi chỉ cần tra tay vào chiếc gầu cảm thông và thả xuống giếng rồi múc lên nước tha thứ là tôi có thể trở thành một người Samaria mới bên bờ giếng Giacóp của giáo xứ.
Người phụ nữ Samaria đã múc nước cho Chúa Giêsu uống khi Người ngồi bên bờ giếng Giacóp ngày xưa. Chúa Giêsu đang ngồi đấy bên bờ giếng Giacóp của cuộc đời. Ngài đang hiện thân trong những người khác đang có nhiều liên hệ đến cuộc đời bạn và tôi... và Ngài đang nói với mỗi chúng ta: "Cho tôi uống nước với". Liệu chúng ta có sẵn sàng không?
62. Lớn lên trong dòng Nước Hằng Sống
(Suy niệm của Lm Trương Đình Hiền)
Kính thưa ông bà anh chị em, cộng đoàn chúng ta đang tiến vào trung tâm điểm của Mùa Chay và các anh chị em Dự Tòng trên khắp thế giới đang có những ngày chuẩn bị gấp rút để tiến về Giếng Rửa Tội, tiến vào cuộc Tái Sinh thiêng liêng quan trọng nhất của cuộc đời sẽ được thực hiện trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Trong ý nghĩa ấy, phụng vụ Chúa Nhật III Mùa Chay, với sứ điệp Lời Chúa mang trọng tâm "Nước Hằng Sống" đang gọi mời dân Chúa khắp nơi hãy biến đức tin thành một cuộc "hội ngộ" với chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, biến việc sống đạo của mỗi người thành cuộc "gặp gỡ Đức Kitô" là "Đường, Chân lý và Sự sống" đích thật. Thánh lễ hôm nay cũng là một cơ hội để chúng ta một lần nữa đặt niềm tin vào Thiên Chúa, quay trở về với Thiên Chúa và tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh lễ nầy để ban chính sự sống thần linh cho ta.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng dáng cử hành Thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Sống trên đời ai mà đã không một lần vật lộn với những cơn khát: khát nước, khát tình, khát tiền, khát thành công, khát hạnh phúc, khát bình an, khát yên lặng, khát cảm thông, khát gần gũi, khát sống, khát yêu, khát thù khát hận...Chính vì thế, nhà thơ Đình bảng đã nói lên nổi khát đó qua những câu thơ:
Hồn tôi một cánh đồng không
Lạy trời mưa xuống thành sông, thành ngòi...
Lạy trời mưa suốt đêm nay
Hồn tôi là những luống cày khô khan...
(Lời buồn thánh. Lê Đình Bảng, Hành Hương, thơ. 2006)
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta về những cơn khát. Đặc biệt, qua biến cố "cơn khát nước điên cuồng" của Ít-ra-en trong hoang mạc, và cuộc đàm thoại về Nước Hằng sống giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Lời Chúa đã đưa chúng ta và các anh chị dự tòng đi vào các chiều kích sâu xa của cuộc hành trình đức tin mà bí tích Rửa tội chính là cửa ngỏ đầu tiên. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi lòng mở trí chúng ta.
1. Cuộc đời và những cơn khát:
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, "nước" được nhiều lần nhắc đến: Ngay từ buổi khai thiên lập địa, nước đã có mặt trong công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Nước chảy nơi vườn Eden để biến nơi đây thành địa đàng trần gian. Nước dâng cao thành Hồng thủy để thanh tẩy địa cầu. Nước Biển Đỏ và sông Gio-đan dựng đứng như tường thành để dân Ít-ra-en đi bộ tiến vào Hứa đại. Nước làm cho muôn vật sinh sôi nẩy nở. Và người công chính được ví như cây dừa mọc bên bờ suối nước, trổ sinh hoa trái tốt lành. Trong khi đó, sứ ngôn Ê-dê-ki-en đã loan báo, vào thời Cứu Thế, nước sẽ chảy ra từ bên phải đền thờ để chữa lành và cứu sống muôn người...
Tuy nhiên, dụng ý của trích đoạn sách Xuất Hành được công bố nơi bài đọc 1 hôm nay, khi nhắc đến biến cố "khát nước" của dân Ít-ra-en trong hoang địa là muốn nhắc nhở chúng ta về những "cơn khát của thời đại hôm nay" và thái độ ứng xử của đức tin trước những cơn khát nầy.
Thật vậy, ngày hôm nay nhân loại cũng đang bị dày vò bởi nhiều cơn khát cháy bỏng: khát tiền, khát tình, khát hưởng thụ, khát tự do, khát cơm no áo ấm, khát danh vọng chức quyền, khát thành công, khát quyền lực, cũng không loại trừ những cơn khát hận thù, khát đam mê và dục vọng... Và để thỏa mãn những cơn khát đó, đã có không biết bao nhiêu những "mời chào, những giải pháp, những đề nghị". Biết bao nhiêu người bỏ mạng trên Biển Đông khi khao khát đi tìm một "chân trời đất hứa tự do"; cũng không ít người chôn thây nơi rừng thiêng núi thẳm vì khao khát tìm vàng hay tìm trầm. Các phương tiện truyền thông hôm nay cũng đã báo động khi có không ít cô gái Việt nam vì khát khao một thiên đàng hạnh phúc nên chấp nhận xa quê lấy chồng Đài Loan hay Hàn Quốc, để cuối cùng ôm phận bạc lỡ làng...Ngày xưa, dân Ít-ra-en khi phải đối diện với cơn khát nước điên cuồng nơi hoang mạc, đã liều quay lưng chống đối Mô-sê, nghi ngờ sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa, quên hết bao nhiêu ơn lành và kỳ công Chúa đã thực hiện trong biến cố Vượt Qua khai mạc cuộc Xuất Hành. Họ quên cả "chiếc gậy của Mô-sê" đã từng dương ra trên biển Đỏ để họ tiến bước ráo chân giữa hai bờ tường nước dựng. Quên cả manna, quên luôn chim cút, quên cột mây che mát, cột lửa dẫn đường, quên hết Thập điều trên núi Sinai...Ngày nay, trước những cơn khát của cuộc đời, chúng ta cũng đã bao lần dẹp Thiên Chúa sang một bên, hay chí ít, cũng hồ nghi về sự hiện hữu của Ngài, quên mình là Kitô hữu, quên dòng nước rửa tội, quên Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, quên các giới răn và các thực hành luân lý Kitô giáo, quên hết những lời dạy của tin mừng...
2. Khi "chiếc gậy Thánh Thần" can thiệp:
Nhưng Thiên Chúa lại chứng tỏ quyền năng bằng lòng tha thứ; và Ngài lại một lần nữa ra tay. Chiếc gậy của Mô-sê có dịp được dương ra để đập vào tảng đá cho mạch nước tuôn trào. Trên "từng cây số của chiều dài lịch sử nhân loại", Thiên Chúa nào chịu thua sự cứng lòng và yếu đuối của loài người! Kể từ những giọt máu và nước từ trái tim của Con một tuôn ra trên đồi Sọ, chiếc gậy Thánh thần đã dương ra trên khắp địa cầu để đập vào muôn vạn trái tim chai cứng, khô khan làm vọt lên dòng nước của ơn cứu độ, của tái tạo, của phục sinh. Ngay trong hoang mạc của tối tăm và sự chết trên đỉnh đồi Can-vê chiều thứ Sáu, dòng nước đó đó đã chạm đén trái tim của người trộm bên hữu để trong anh bừng lên niềm hy vọng đi vào hạnh phúc vĩnh hằng. Người phụ nữ Samari trong Tin mừng hôm nay đang khát tình với năm người đàn ông không chính thức, đang khao khát một niềm tin đúng nghĩa để thờ phượng Thiên Chúa, một khi được gặp gỡ Đấng là Đường, là Sự thật và Sự sống đã hân hoan trở nên một con người mới. Rồi tiếp nối những Maria Bêtania ngồi bên chân Chúa, Giakê cố nhìn Chúa trên cành cây sung hay Lê-vi nghe tiếng Chúa ngay nơi bàn thu thuế, người thiếu phụ ngoại tình đứng nhìn Chúa im lặng vẽ hình trên cát...tất cả đã đứng lên và làm lại cuộc đời trong niềm vui của một cuộc phục sinh, của một đời sống mới... Cứ thế, suốt hai ngàn năm nay, hàng hàng lớp lớp con người đã được chiếc gậy Thánh Thần chạm đến để tuôn đổ hồng ân, để nhận được dòng nước hằng sống tái sinh qua bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng lớn lên nhờThánh Thể. Đúng như lời Đức Kitô đã nới với người thiếu phụ Samari trong Tin mừng hôm nay: "và nước tôi cho sẽ sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".
3. Tắm gội trong dòng nước hằng sống
Như vậy điều quan trọng còn lại hôm nay chính là hãy mở lòng ra, hãy đến và hãy gặp. Chính người thiếu phụ Samari hôm nay đã chịu mở lòng ra đối thoại với Chúa, đã chấp nhận để Chúa truy vấn và đã để Lời Chúa xuyên thấu cõi lòng. Và từ đó lại một mạch nước hằng sống đã tuôn trào nơi trái tim tưởng đâu đã cằn khô nơi chị, biến chị trở thành chứng nhân, thành tông đồ để rao giảng đơn sơ chỉ một tin Mừng: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?". Quả thật, đức tin luôn là một cuộc khao khát vươn tới, là một sự khó nghèo để được lấp đầy, một niềm trông cậy để được đáp trả. Bởi vì Đức Kitô không bao giờ khước từ những ai đến cùng Ngài; lại càng không phải là kẻ dồn ta vào bước đường cùng để xô ta xuống vực thẳm. Hãy tự nhiên và bộc trực như người thiếu phụ Samari hôm nay, hay cứ huyên náo lăng xăng tiếp Chúa như cô Matta Bêtania, yên lặng nghe Chúa như cô Maria, tò mò trèo lên cây để được thấy Chúa như Giakê, đứng ngay lên bỏ tất cả theo Chúa như Matthêô, cả khi bất đắc dĩ vác đỡ thập giá như Simêon... Điều quan trọng là hãy đến, hãy tiếp cận, hãy gặp gỡ. Chúa nào có xa đâu.
Như vậy Mùa Chay phải chăng là Mùa để chúng ta mở rộng cõi lòng tập luyện sống niềm tin tích cực, sống cuộc gặp gỡ Đức Kitô, sống đối diện với cái tôi đích thực của mình để tìm gặp một sức sống mới, một nguồn nước mới. Chúng ta hãy bước ra khỏi cái ảo tưởng cho rằng: mình sống đạo như thế đủ rồi, đức tin như thế là tạm ổn. Hãy tỉnh táo. Coi chừng chúng ta đang trong "cơn thiếu nước trầm trọng", đang trong thế "quay lưng lại với Thiên Chúa". Hãy mạnh dạn quay lại ngõ lời với Đức Kitô như người thiéu phụ Samari: "Xin ban cho con thứ nước ấy", và hãy để chiếc gậy Thánh Thần đập vào cõi lòng, vào tim óc và cuộc sống. Đó là chiếc gậy của tòa Giải tội, của Thánh Lễ, của việc cầu nguyện, của Tin mừng, của ăn chay và làm phúc, của tha thứ hòa giải với anh chị em xung quanh, của việc thực hành liêm khiết, thủy chung trong đời sống gia đình, trong sáng, trách nhiệm nơi công sở...Hãy để dòng nước của nhiệm tích Rửa tội vọt lên trong cuộc đời, hãy để dòng nước của Thánh Linh tuôn trào trong tim óc. Chắc chắn, chúng ta sẽ lớn dần lên trong tin yêu và niềm vui hạnh phúc thánh thiêng như cảm nghiệm của nhà thơ Đình bảng:
Cảm ơn Chúa đã cho tôi tắm gội
Lớn dần lên trong hương sắc của Người
Này lại ngày hoa trái cứ sinh sôi
Mỗi gieo vãi là một lần đẫy hạt..
(Giữa bao la đất trời. Lê Đình Bảng, Hành Hương, thơ. 2006)
Dòng nước đó chính là Đức Kitô đang có ở đây. Hãy hướng về Ngài. Hãy gặp gỡ Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam