Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1444887

CHÚA GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN

Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên

(Lm Trần Ngà)

"Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào”. (Ga 10, 9-10)

* * *

Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên

Cửa đóng lại để bảo vệ chở che

Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà ngủ mới yên giấc và tài sản trong nhà mới được bảo vệ. Vì thế, khi xây nhà, việc đầu tiên là lắp đặt cửa ngõ thật vững chắc rồi khoá lại kỹ lưỡng để người nhà được yên giấc về đêm và của cải được an toàn.

Nhưng tìm đâu trên đời nầy một thứ cửa đủ vững chắc và kiên cố có thể bảo vệ tâm hồn con người được bình an và giúp cho linh hồn họ được an toàn trước những đợt tấn công ác liệt của ác thần? Cửa nào có thể bảo vệ tâm linh con người khỏi bị công phá bởi vô vàn hung thủ của thế gian?

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Ngài là thứ Cửa như thế. Ngài nói: "Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu", tức là được bảo vệ. Ngài là cửa đóng lại để bảo vệ đoàn chiên trong chuồng được an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.

Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.

Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn; được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến họ xem tội ác là chuyện bình thường, xem việc phá thai, mẹ giết con là điều chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là điều đơn giản và cần thiết...

Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giêsu Chúa. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết đón nhận giáo huấn của Ngài.

* * *

Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng

Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giêsu còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng.

Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phanxicô Át-xi-di, Phanxicô Xaviê, Têrêxa Hài Đồng Giêsu của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêxa Calcutta thời nay, nhờ được dẫn vào nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những vĩ nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội Thánh.

Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Cánh Cửa Giêsu để được dẫn vào đồng cỏ tốt tươi.

* * *

Lạy Chúa Giêsu,

Nhờ Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;

Nhờ Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, chúng con được nuôi dưỡng sung mãn trong vô vàn ân phúc của Chúa.

Xin cho nhân loại hôm nay biết nhìn nhận Chúa là Cửa, là Thành Trì chở che bảo vệ tâm linh nhân loại và xin cho mọi người nương vào Chúa như Cửa rộng mở vào đồng cỏ thiêng liêng cho muôn người được lớn lên thành người có đạo đức và phẩm chất cao đẹp.

 

18. Nhân loại chỉ có một Đức Kitô

(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Nền văn minh cơ giới khiến chúng ta quen thấy các bãi đậu xe hơn là các chuồng chiên. Để hiểu rõ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần gợi lại trong trí tưởng tượng một trong những quang cảnh đời sống thôn dã quen thuộc vào thời Đức Kitô. Những người chăn chiên chiều đến lùa đàn súc vật của mình vào một ràng để cho một người trong bọn trông coi, canh giữ cửa ra vào suốt đêm. Kẻ toan tính vào trong ràng để giết trộm buộc phải trèo qua rào. Chiên thuộc các bầy khác nhau biết tiếng người chăn mình. Sáng đến, người ấy tới trước cửa, người canh mở cửa cho ông ta. Nghe tiếng gọi mà chúng nhận ra không lầm lẫn. Chiên mỗi bầy tụ lại chung quanh người chăn của mình rồi ra đi đến đồng cỏ. Chúa Giêsu tự ví mình như người chăn chiên và đoàn lũ đông đảo của gia đình nhân loại Ngài ví như đoàn chiên. Ngài biết toàn thể loài người, cũng như từng người riêng biệt. Đối với nhân loại đã không có ai và sẽ không có ai được như Ngài. Ngài không những là người chăn chiên mà còn là cửa ràn chiên. Người ta chỉ hiểu biết thâm sâu cộng đoàn nhân loại bằng cách nhờ vào sự thông hiểu của Đức Kitô. Có nhiều đường lối khác, nhưng ít hay nhiều đó là những đường đột nhập. Những lời mời gọi con người mà không có cung giọng, tiếng nói của Đức Kitô dẫn đưa họ đến những mục đích không có được sự toàn vẹn, như ơn cứu độ Đấng Kitô Cứu Chúa duy nhất mang lại.

1) Các chiên của Ngài, Ngài gọi từng con một.

Điều này có nghĩa là Chúa biết mỗi người riêng biệt. Ngài biết được vì Ngài là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện khiến lòng ta phấn khởi sao? Chúng ta sống trong một xã hội giảm trừ dần dần con người vào chỗ vô danh của một lá phiếu điện toán. Vì hiện nay giá trị độc nhất của nhân vị càng tiêu tán dần, nên người ta phản ứng lại bằng việc học hỏi cách khoa học vấn đề các tương giao liên vị. Làm như thế, người ta lại phá huỷ thêm tính chất liên lạc hợp nhất của nhân vị. Còn lại được gì? Đối với người Kitô hữu còn lại việc Thiên Chúa biết đến mình, biết đến chỗ thâm sâu độc nhất và không thể thông truyền của mình. Khi trong đám đông có lúc chúng ta cảm thấy hết sức trơ trọi cô độc, hãy nhớ đến một Đấng thông hiểu chúng ta tường tận riêng biệt. Hãy nhớ đến một giọng nói hoà hợp với khả năng đón nghe bên trong chúng ta.

2) Ta đến để chúng được sống

Sự sống Đức Kitô mang lại cho chúng ta là điều mà người ta gọi là ơn thánh hoá, một sự thông phần vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Tại thế này chúng ta đang sống những chặng khởi đầu, chờ đợi hồi triển nở đầy đủ khi chúng ta được hoàn toàn thông hiệp vào sự phục sinh của Chúa. Ngay tự bây giờ trí khôn, ước muốn, tâm hồn chúng ta đã được hưởng nhờ hồng ân Thiên Chúa. Khả năng hiểu biết sự thật, ước muốn điều thiện được tăng cường đến một mức vượt quá sức tự nhiên. Không bao giờ một mình trí khôn chúng ta biết được mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh. Không bao giờ tâm hồn chúng ta tự mình khám phá được niềm hy vọng lớn lao. Chính Đức Giêsu Kitô mang sự sống của con cái Thiên Chúa đến cho chúng ta. Đó chẳng phải là sự sống đầy tràn quý nhất hay sao?

 

19. Chúa Chiên Lành

(Lm. Phaolô Nguyễn Văn Châu)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử và đoàn chiên. Hình ảnh này đối với người Việt nam chúng ta thì không quen thuộc lắm vì dân tộc chúng ta sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp cây lúa, gắn bó với con trâu con bò: “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”

Nhưng đối với những dân tộc du mục ở xứ Palestina thì rất quen thuộc và dễ hiểu. Dân Israel nuôi chiên rất nhiều vì nơi đây có nhiều đồng cỏ thích hợp cho việc chăn nuôi chiên, cừu. Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với họ. Người mục tử rất yêu thương đoàn chiên, sống gần gũi với chiên, không muốn để một con chiên nào bị bệnh hay hư mất.

Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng người lạ…Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với từng con chiên một là từng người chúng ta để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của ma quỷ, của thế gian, của những thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của ma quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên là những kẻ thuộc về Người.

Khi chiêm ngưỡng dung mạo của vị mục tử đích thật là Chúa Giêsu, chúng ta được Người mời gọi lãnh nhận vai trò mục tử và đoàn chiên trong đời sống đức tin và đức ái của mình. Vì vậy, chúng ta sẽ sống như thế nào trước lời mời gọi này?

Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tục hóa của con người. Đó là: Chúng ta thích sống hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, tìm kiếm chủ nghĩa cá nhân... Nhiều vị mục tử cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy thích sống sa hoa tiện nghi, chỉ biết chạy theo những lợi lộc trần thế mà quên đi nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên và hy sinh vì đoàn chiên.

Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các vị mục tử nói chung mà con phải cầu nguyện cho các giám mục, linh mục trong giáo phận Quy Nhơn chúng ta nói riêng, luôn biết sống dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về mục tử như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Ngài đòi hỏi phận vụ của linh mục là “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa về với Chúa, đã chối bỏ Chúa, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình, đôi khi cũng bị bách hại bởi thế gian…Người mục tử nhân lành là Cha xứ cần phải tìm đến với họ để an ủi, chữa lành và mời gọi họ quay trở về với Chúa.

Trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là mục tử trong giáo xứ, trong giáo họ và trong gia đình của chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho, biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng một giáo xứ lớn mạnh về mọi mặt.

Xin anh chị em cũng cầu nguyện cho cha xứ của anh chị em luôn là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước.

Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử tối cao, xin chúc lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của chúng con. Amen.

 

20. Ơn gọi thánh hiến

(Lm Dom. Trần Quang Hiền)

Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi

Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở cuối cùng.

Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh hiến. Vì thế, trên thực tế ở Châu Âu Giáo Hội đang báo động tình trạng khan hiếm ơn gọi, đời sống thánh hiến không còn hấp dẫn nơi người trẻ nữa, nhiều dòng tu đã đóng cửa, nhiều dòng tu chỉ còn những Cha, Thầy, nữ tu đã già. Nếu so sánh ở Việt Nam, chúng ta vẫn còn cảm thấy phải tạ ơn Chúa vì chúng ta vẫn còn nhiều ơn gọi tuy đang trong tình trạng giảm sút so với trước đây, nhưng vẫn còn có nhiều bạn trẻ quảng đại, dấn thân trong đời sống thánh hiến. Nói như thế, tự bản chất đời sống thánh hiến là đẹp, là hấp dẫn, là ước mơ của bao người, là hồng ân của Thiên Chúa, Chúa yêu thương, Chúa mời gọi và thánh hiến, chỉ có điều là mỗi người chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả lại tiếng gọi này.

Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong sứ điệp gởi toàn thể dân chúa nhân ngày ơn gọi năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như sau: “Ơn gọi là hoa trái chín mọng trong một cánh đồng được canh tác tốt bởi tình yêu thương lẫn nhau thể hiện nơi việc phục vụ lẫn nhau, trong bối cảnh của một cuộc sống cộng đoàn thực sự. Không có ơn gọi nào được sinh ra chỉ cho riêng mình hay sống cho chính mình. Ơn gọi triển nở từ con tim Thiên Chúa và đâm hoa kết trái trong mảnh đất tốt của dân trung tín với Chúa, và từ những cảm nghiệm của tình huynh đệ. Chẳng phải là Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13:35) hay sao?”

Đây chính là câu trả lời cho những thao thức về tình hình ơn gọi giảm sút hiện nay, trả lời cho những chất vấn tại sao các bạn trẻ không cảm thấy bị thu hút nơi những người sống đời thánh hiến nữa? có nhiều lần tôi đã nghe nhiều bạn trẻ nói, nhìn vào cách sống của ông Cha này, ông Thầy kia hay bà Sr nọ con chẳng muốn đi tu chút nào, vì họ sống không triệt để lối sống mà họ đã chọn, vẫn còn lo cho chính bản thân mình, không quảng đại phục vụ người khác, không phải là một mục tử nhân lành..... rồi cũng có nhiều câu hỏi tự chúng ta đặt ra: tại sao giáo xứ, cộng đoàn của tôi ở đây bao nhiêu năm rồi mà chẳng có một mống ơn gọi nào? lỗi do ai? chắc có lẽ mỗi người chúng ta cần phải chất vấn chính mình, tôi có làm chứng một cách hùng hồn về đời sống thánh hiến của tôi để qua đó người trẻ có thể bị hấp dẫn, lôi cuốn muốn dấn thân trong đời sống tu trì hay không? cộng đoàn của tôi có làm chứng về đời sống hiệp nhất, yêu thương, vui tươi trong đời sống thánh hiến và phục vụ người khác hay không? vì ngày nay giới trẻ muốn tận mắt chứng kiến chứng tá của người tu sĩ hơn là qua tu phục, qua những lời giảng dạy. Người trẻ ngày nay bị thuyết phục hơn khi thấy người linh mục, tu sĩ sống khiêm tốn, hy sinh, khó nghèo, quên mình phục vụ người khác. Mẹ Têrêsa thành Calcuta là một mẫu gương sống động nhất về một chứng tá của người tu sĩ quên mình phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi làm cho nhiều người trẻ bị hấp dẫn, lôi cuốn và thế giới phải thán phục.

“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Kitô chính là Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đàn chiên, Ngài yêu thương hết tất cả chúng ta và Ngài muốn hết thảy chúng ta đều là những con chiên dễ thương của Ngài, sống trong một ràn chiên của Ngài. Là những linh mục, tu sĩ chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng là những mục tử nhân lành, biết yêu thương, hy sinh, phục vụ, quan tâm đến giới trẻ, thanh thiếu niên để nhờ đó thanh thiếu niên, người trẻ sẽ cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được đánh động bởi chứng tá đời sống thánh hiến của chúng ta, qua đó họ sẽ quảng đại dấn thân trong đời sống tu trì. Để có nhiều ơn gọi, mỗi người chúng ta phải quan tâm vun trồng, gieo hạt, Thiên Chúa sẽ cho lớn lên, vì Ngài chính là Chủ mùa gặt, chúng ta là cánh tay nối dài, khơi dậy nơi thanh thiếu niên và giới trẻ lòng quảng đại dấn thân. Amen.

home Mục lục Lưu trữ