Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1449903
CHÚA GIÊSU BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG
Chúa Giêsu biến hình đổi dạng – John Nguyễn
- Chúng ta cũng giống như Đức Giêsu: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần Cuộc biến hình của Đức Giêsu cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.
Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giêsu, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2Pr 1,4).
- Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa
Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.
Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.
Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm… Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.
Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: “Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó”. Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.
- Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy
Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp cua Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.
- Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giêsu, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.
Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức được bản chất cao quí của con là con cái Chúa, là hình ảnh của Chúa, và được Chúa thông phần bản tính của Chúa cho con. Xin cho con biết luôn ý thức bản chất cao quí của mình, và sống xứng đáng với bản chất ấy. Amen.
67. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng
Không phải hết các tông đồ được thấy Chúa biến hình
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ nạn của Người sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba tông đồ sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Chúa trong Vườn Cây dầu. Việc ba Tông đồ phản ứng về cuộc Biến hình của Chúa đáng cho ta lưu ý. Thoạt tiên các ông tỏ ra phấn khởi với thị kiến biến hình, nên Phêrô đại diện ba Tông đồ thốt lên: Thưa Thày, chúng con mà được ở đây thì tuyệt vời (Lc 9:33). Cái hiệu quả của thần linh hiện diện khiến họ say mê đến nỗi muốn lưu trữ kinh nghiệm biến hình để làm bảo vật bằng cách xin dựng lều ở lại. Tuy nhiên khi nghe tiếng từ trời phán, họ lâm vào tình trạng sợ hãi.
Người Kitô giáo sống đức tin cũng có thể trải qua những kinh nghiệm biến hình nào đó trong cuộc sống. Có những khi họ phấn khởi trước tiếng gọi nên thánh. Đôi khi việc bày tỏ sự thánh thiện không là gì khác ngoài cảm giác cao hứng sống đạo giống như hiệu quả của thuốc kích thích thần kinh. Sách tu đức thần bí diễn tả cái hiện tượng khác thường như vậy là xuất thần hoặc bay bổng. Tuy nhiên những cảm giác đạo đức khác thường như vậy không bảo đảm cho sự thánh thiện. Người Kitô giáo cũng không nhất thiết phải có cảm giác thiêng liêng về đạo giáo như vậy. Đôi khi người ta nghe những lời phàn nàn cho rằng đạo giáo không giúp gì cho đời sống của người theo đạo được thay đổi. Người ta thấy không có gì khác biệt giữa người Kitô giáo và người không phải Kitô giáo. Cách suy tư hay lý luận như thế chẳng qua nảy sinh ra từ cái tiềm thức muốn thấy đức tin phải tạo ra những gì khác biệt hay những hiệu quả kỳ diệu. Những người mang tâm trạng như vậy ôm ấp cái ảo tưởng cho rằng đạo giáo phải cung ứng cho họ những cảm giác đạo giáo khác lạ. Có những người đòi hỏi Chúa làm cuộc biến hình trước mắt họ, nghĩa là đòi Chúa làm phép lạ cho họ thấy những việc kỳ diệu trước khi họ đặt tin tưởng vào Người. Họ muốn đi tìm những cảm giác thiêng liêng về đạo giáo. Nếu có cảm giác rồi, họ muốn đi tìm thêm nữa, nghĩa là họ nghiền cảm giác. Họ để cho cảm giác điều khiển cuộc sống thiêng liêng, nghĩa là khi cảm thấy thích thú thì họ giữ đạo, còn không thì bỏ cuộc.
Họ là loại người nhanh chân đi tìm đến những nơi mà người ta cho rằng có phép lạ hay hiện tượng lạ. Cái tính tò mò về đạo giáo của họ là muốn có kinh nghiệm bằng cảm giác, và khi cái tò mò tính của họ không được toại nguyện, họ đổ lỗi cho đạo giáo, đã không cung ứng cho họ cảm giác. Hôm nay ta cần nhận thức rằng cảm giác chỉ là cảm giác. Ngay cả cảm giác về đạo giáo cũng chỉ có ích lợi tới mức mà có thể là khởi điểm của việc hoán cải nội tâm, hoặc là khởi điểm cho việc thiết lập mối liên hệ gần gũi với Chúa. Ước mong quá nhiều cảm giác đạo giáo, hay tuỳ thuộc quá nhiều vào cảm giác đạo giáo là dấu hiệu chưa trưởng thành về đời sống đức tin.
Người công giáo không thể chỉ mong Chúa làm phép lạ biến hình cho thấy vinh quang của nước Chúa, hoặc cho họ cảm giác đạo giáo như là điều kiện để theo Chúa và để sống đạo. Người công giáo không thể để cho cảm giác đạo giáo điều khiển cuộc sống, như là hễ có cảm giác vui, hứng khởi về đạo giáo thì mới giữ đạo và thực hành đức tin. Người công giáo phải nhớ rằng không phải hết các tông đồ đều được thấy cảnh biến hình của Thầy mình, mà chỉ có ba ông được thấy. Và Chúa căn dặn các ông đã thấy cảnh biến hình ‘ không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’ (Mt 17:9). Phúc âm ghi lại các Tông Đồ ‘tuân giữ lời căn dặn đó’ (Mc 9:10) và ‘suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.’ (Lc 9:36). Các Tông đồ không thấy cảnh biến hình của Chúa cũng đã chấp nhận hy sinh, đau khổ và thánh giá. Vậy nếu thấy được cảnh Chúa biến hình, hoặc nếu có được cảm giác đạo giáo, thì là điều tốt. Tuy nhiên người Kitô giáo không thể để cho cảm giác điều khiển cuộc sống. Chỉ có quyết định mới là quan hệ, vì những quyết định người ta làm bây giờ sẽ định hướng cho tương lai của cuộc đời. Để được tham dự vào cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, người Kitô giáo phải sẵn sàng vác thánh giá Chúa gửi đến, chứ không phải chỉ tìm cảm giác vui thích và hứng khởi về đạo giáo.
68. Sống trong niềm tin
Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối dòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
- Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
- Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?
69. Cứ gặm mãi cho đến khi lạc lối
Một trong những trách nhiệm của người chủ chiên là phải canh chừng đoàn chiên không cho chúng đi lạc lối. Chúa Giêsu vẫn thường dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên trong lời giảng dạy của Ngài. Một trong những dụ ngôn đẹp nhất là “Dụ Ngôn Về Đàn Chiên Lạc.” Lập đi lập lại Ngài miêu tả mình là một “Chủ Chiên Tốt Lành” với những người theo Ngài.
Nếu bạn hỏi bất cứ một người chăn chiên nào họ cũng sẽ nói với bạn là các con chiên không bao giờ được tự rời khỏi đàn chiên và đi lạc như là một hành động bất tuân quyền hành của chủ mình. Con chiên không bao giờ tự quyết định là không theo người chủ của mình nữa. Ngược lại, nó cứ quanh đi quẩn lại một cách lơ đãng không chú ý về sự nguy hiểm. Hễ khi nào nó thấy một đống cỏ tốt hơn chỗ nó đang ăn, thì nó chạy lại, và cứ như thế cho đến khi nó đi lạc. Một người chăn chiên lành nghề đã nói rằng con chiên đi lạc là bởi vì nó cứ lân la gặm cho đến khi lạc.
Trong đoạn thứ sáu của Phúc Âm Thánh Máccô có diễn tả một đoạn về Chúa Giêsu, về thể lý, Ngài đã mệt mỏi, và Ngài đã nói với các môn đệ của Ngài tìm chỗ để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, cả ngàn người đã ồn ào kéo đến muốn nghe Chúa Giêsu giảng dạy và không để cho Ngài được nghỉ yên. Khi nhìn thấy dân chúng, Chúa Giêsu thương xót họ như những đàn chiên không người chủ chăn, và Ngài bắt đầu giảng dạy họ (Mc 6:34). Không một chút nghi ngờ, một số người lắng nghe, và một số thì không; một số người đã chú ý và một số người thì lơ đãng; một số người đã thực hành lời họ nghe được, và một số thì không; một số hiểu rõ và có những nhận thức mới về Lời Chúa; còn một số khác thì cứ từ từ gặm và lạc lối.
Điều mà chúng ta đang nói là những gì mà các cuốn sách “giúp chính mình” đã nói tới. Đó là chúng ta cần phải tìm lại con người thật của mình. Đó là chúng ta cần phải tập trung vào bản chất của chính mình. Đó là chúng ta cần phải đào sâu xuống cõi lòng của mình và xem coi điều gì cản trở bước tiến của mình.
Vấn đề là ở chỗ nhiều khi chúng ta đã cố gắng để tiêu hoá tất cả những thứ đó, tuy nhiên chúng ta vẫn cứ từ từ gặm cho đến khi mình bị lạc lối. Sự tai hại của rất nhiều người là họ bắt đầu từ một chỗ sai lối, đi tìm chính mình. Cách giải quyết tốt nhất cho các cơn khủng hoảng không bắt đầu từ chỗ đi tìm mình, nhưng là Thiên Chúa.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, sức mạnh vô biên của Chúa được tỏ hiện với ba người môn đệ của Chúa Giêsu trên núi biến hình. Ở đó, trong sự hiện diện của Phêrô, Giacôbê, và Gioan, vinh quang của Chúa Kitô được mặc khải với ánh sáng chói loà. Sau đó, một giọng nói từ trời phán với ba môn đệ, “Đây là Con Ta yêu dấu, Người Ta tuyển chọn. Hãy nghe Lời Người!” (Lc 9:35).
Hãy nghe Lời Ngài, hỡi tất cả mọi người trên thế giới đang bận rộn lo gặm cỏ và để cho mình đi lạc lối. Hãy nghe Lời Người!
Những ai tự đem mình lên sẽ bị hạ mình xuống, và những ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Ai muốn làm lớn ở trong anh em, thì hãy phục vụ mọi người.
Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta là con cái của Thiên Chúa tình yêu, tất cả đều đáng mến trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải biết nhìn nhau bằng cũng con mắt đó, biết kính trọng nhau, yêu thương nhau. Trong khi chúng ta làm những điều đó, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa Tình Yêu.
Nói về Thiên Chúa thì có lẽ quá sức tưởng tượng của nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, trong con mắt Thiên Chúa, nếu chúng ta biết trung thành để giữ các điều Ngài truyền dạy, thì chúng ta sẽ tìm thấy được câu trả lời về con người của mình.
Nếu chúng ta còn chưa biết đem ra thực hành những lời Thánh Kinh dạy, thì chúng ta còn đang gặm cỏ dần dà rồi đi lạc hướng luôn.
Khi cầu nguyện, chúng ta đừng có ra lệnh cho Chúa. Chúng ta chỉ cần khiêm nhường tỏ bày tâm sự của mình với Chúa, bởi vì những ai khiêm nhường thì sẽ được nâng lên. Chúng ta cùng cầu nguyện:
Xin cho con, trong những lúc mệt mỏi, được một chút phấn khởi. Xin cho con biết phục vụ tốt hơn đối với những người mà con đang phải cố gắng chiến đấu. Xin cho con, trong lúc bị cám dỗ, được một chút dũng lực. Xin cho con được biết chiến đấu mạnh mẽ với tất cả nghị lực của con. Xin cho con được biết sống hiền lành với những người yếu đuối hơn con. Xin cho con được biết nghĩ đến những người đang sống chung quanh con.
70. Đức Giêsu hiển dung – Lm PX Vũ Phan Long
Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta.
1 – Ngữ cảnh
Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Đức Giêsu đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở Mc 9,2-8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2 – Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28);
2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35):
- a) Lý do (cc. 29-32),
- b) Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3 – Vài điểm chú giải
– dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ “được biến hình” (metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
– có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là “hai nhân vật, hai người đàn ông” (andres dyo), ta có thể nghĩ đến “hai người đàn ông y phục sáng chói” trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc “hai người đàn ông mặc áo trắng” trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).
– Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai-cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).
– ngủ mê mệt (32): Dịch sát là “bị đè nặng trong giấc ngủ” (bebarêmenoi hypnô).
– vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ “vinh quang” ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).
– thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.
– đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là “từ đám mây có tiếng phán ra”. Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là “sự hiện diện của Thiên Chúa”) của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
– Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các “Bài ca về Người Tôi Trung” (Is 42,1; 49,7).
– trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4 -Ý nghĩa của bản văn
Khung ảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. Mc 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ “vác thập giá” và thị kiến về “vinh quang” được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào “khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy” (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu “vác thập giá mà theo” Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định “đem theo” ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là “cầu nguyện”. Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang khi Người cầu nguyện, thì “dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong Mc và Mt (x. Mc 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với dân Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ô-liu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều…” (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết “dựng ba cái lều” vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì” (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển dung trong chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: “Chính Người, anh em hãy nghe lời!”). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel cà những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với Mc (Mc 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông “nín thinh”. Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ (“Trong những ngày ấy”).
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thât bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là “chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5 – Gợi ý suy niệm
- Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để “cầu nguyện” (c. 28). Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
- Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu “đổi khác” (c. 29). Tác giả không nói là “biến hình” như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng ta hiể trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trinh cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
- Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
- Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
- Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu. Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng hoạt động và bằng lời nói của Người, Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lc 24,17).
71. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi “khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê”. Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại nầy của Người “khoảng tám ngày trước đó” (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian. Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: “Anh em bảo Thầy là ai?” và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch” này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là “Đấng Mêsia của Thiên Chúa”… Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. “Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.
Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; Mc 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải “vác thập giá, của mình để theo Người” (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, “một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9,27)… “Vương quốc” bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để “nhờ thập giá tiến đến niềm vui”. Thương khó – Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.
Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.
Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại “ngủ”. Đức Giêsu thật là “con người của cầu nguyện”. Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 – 5,16 – 6,12 – 9,18 – 9,28 – 10,21 -11,1 – 22,32 – 22,41 – 42-23,84 – 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là “Cha”. Đức Giêsu là “con người muốn hướng về Chúa Cha”. Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. “Cha” là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).
Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.
Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ “biến hình” một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường”. Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.
Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng “y phục” cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà” là “dấu chỉ” cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa… Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin… áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ… Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 – 3,18-4,4 – 6,11-7,9-9,13)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi” phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!
Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.
Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc “xuất hành” (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua” cuộc vượt qua của Người (Ga 13, 1) và Luca gọi là “sự bốc đi” (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người “bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết”, và kéo theo Người toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang “xuất hành”, rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!”. Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.
Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia”. Ong không biết mình đang nói gì.
Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.
Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?
Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong “đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác”. Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được”. Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.
Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn”. Hãy vâng nghe lời Người.
Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ “Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là “Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ “Người con đã được tuyển chọn” (tiếng Hy Lạp là “eklegnlenos”). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ “được tuyển chọn”, là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về “dân Chúa” một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật “Người tôi tớ của Thiên Chúa” (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).
Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.
Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.
Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
72. Chú giải của Fiches Dominicales
ÁNH SÁNG TRONG BÓNG TỐI CỦA HÀNH TRÌNH VỀ GIÊRUSALEM
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Trong bước đi tăm tối về Giêrusalem
Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó:
Câu hỏi then chốt của Hêrôđê về căn tính thực sự của Đức Giêsu: “Người này là ai mà ta nghe nói đến nhiều?”. Ong thắc mắc và “ông tìm cách gặp Người” (9,9)
Lời tuyên xưng của Phêrô với Đức Giêsu như với “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” (9,2) và lời tiên báo lần đầu về cuộc
khổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi không chỉ đối với Đức Giêsu: “Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, chịu chối bỏ; chịu chết nhưng đến ngày thứ ba người sẽ sống lại (9,22), nhưng còn đối với các môn đệ thân tín của Người: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày rồi theo Ta” (9,23).
Jean-luc Vesco chú giải: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn, một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn là Phục Sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó”, Cerf, trg 38).
Khoảng “8 ngày sau khi nói những lời này” là thời gian Luca đã định vị trình thuật về cuộc Hiển Dung, trong đó hai khía cạnh của mầu nhiệm vượt qua sẽ nối kết với nhau. Đó là.”khoảnh khắc thoáng qua lúc tấm màn che phủ căn tính Đức Giêsu được vén lên, lúc vinh quang tàng ẩn trong Người, nhờ qua đau khổ và cái chết, sẽ bừng lên vào buổi sáng lễ Phục sinh, sẽ từ thân thể Người chiếu toả ra.
- Một thị kiến chói loà trên núi.
Trừ hai ba chi tiết, Tin Mừng thứ ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và mát thêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.
* Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một “ngọn núi”, theo truyền thống Kinh Thánh, là nơi gặp Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người.
* Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: “Phêrô, Gioan và Giacôbê” những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zai-rô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).
* Khung cảnh của biến cố cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Đức Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Tin Mừng thứ ba, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Đức Giêsu.
Lúc Người “cầu nguyện” trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3.21-22). Sau khi lánh vào “núi rừng để cầu nguyện”, Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người “cầu nguyện một mình” Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-51).
– Tại nơi đây, trên núi cao, chính “đang khi cầu nguyện” mà
Đức Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói “dung mạo Người trở nên khác thường” và “Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Người viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Đức Giêsu”.
Hugues Cousin xác định: “Mặc lấy vinh quang” có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Đức Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người “Tin Mừng theo thánh Luca” Centurion, trg 137).
-Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: “Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang” (Lc 24,26-27).
Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.
-Một chi tiết riêng của Tin Mừng thứ ba đó là “cuộc lên đường của Người” (theo sát nghĩa là: cuộc “Xuất Hành” của Người: vừa chết, vừa Phục sinh, vừa được tôn vinh) mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê không phải là con người của cuộc Xuất hành. của núi Si-nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao? Và Êlia chẳng phải là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh sao?
Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” (9,51) trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất
Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.
– Phêrô có lẽ nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng “ba lều”. Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài “ông không biết phải nói gì” vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn thống khổ nạn như một đoạn đường buộc phải đi qua.
– Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong “một đám mây” – Trong Kinh Thánh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa – giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy “phủ bóng che rợp” các ngài. Các ngài “sợ hãi “.
– Chính lúc ấy “một tiếng nói ” vang lên trong đám mây. Cũng là tiếng nói khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Đức Giêsu nữa (“ Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (xem Is. 42,1-8). Đức Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ là Người Con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải “lắng nghe” Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.
- Quy hướng về cuộc Xuất hành của Đức Giêsu.
Giờ đây mọi sự trở lại bình thường; “họ chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu “. Tạm thời, các môn đệ “im lặng” cho tới buổi sáng sau đêm khổ nạn, mọi sự chợt có ý nghĩa dưới ánh sáng ban mai ngày Phục sinh, ngày mà Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống sẽ tháo cởi miệng lưỡi để họ làm chứng về những gì đã thấy đã nghe. Nhưng họ hiểu rằng từ nay họ sẽ cùng Người dấn thân vào một định mệnh vượt quá sức họ. Cần phải lên đường, đường đi về Giêrusalem chỉ mới bắt đầu. Định mệnh đó phải diễn ra trong niềm thao thức lắng nghe lời vị tiên tri, Con Thiên Chúa là Người Tôi tớ vừa mạc khải cho biết chuyến xuất hành lên Giêrusalem là thiết yếu. Giờ đây, Đức Giêsu chỉ còn một mình, nhưng ta phải bước theo Người.
Con Người tiến về sự chết, nhưng cũng là tiến về vinh quang cuộc biến hình vừa biểu lộ và các tông đồ đều được mời gọi bước theo số phận của Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
- Điểm dừng chân ơn phúc nơi cộng đoàn ngày Chúa nhật.
(F. Deleclos trong hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn”, Centurion-
Duculot trg 195).
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu. Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Nhưng đường thăm thẳm và đích điểm còn quá xa vời. Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân giữa “những sự dưới đất” và “những sự trên trời”, ta có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì?
Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng “dung nhan của Chúa” và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chang, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về “thế giới khác” với cõi phàm trần nơi ta cư ngụ. Cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc.
Từ nay họ biết rằng Đức Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Họ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ lênh láng máu.
Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người tìm lại con đường phiêu lưu dưới đồng bằng.
Dù vật vã say ngủ và thổn thức bất an, hay sa lầy trong những thói tật xưa cũ trên đường, ta vẫn được Đức Giêsu mời gọi lên núi cầu nguyện.
Thánh lễ là điểm dừng chân ơn phúc, là ánh sáng chân lý là mạc khải hành trình là ý nghĩa cuộc hành hương của ta. Một dừng chân vắn vỏi để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.
- Khi con Người chiếu toả Thiên Chúa
(G. Bossière trong Thiên Chúa rất gần, năm C”, DDB, trg 35-36).
Khi bị khinh miệt, bị săn đuổi, các Kitô hữu vẫn giữ được lòng can đảm nhờ nói về Đức Giêsu. Trong số những kỷ niệm trao đổi cho nhau, có đoạn văn tươi đẹp này: Đức Giêsu hiển dung, đột nhiên chói ngời ánh sáng thần thiêng. Việc toả sáng phát xuất từ bên trong bản thân Người: “Dung mạo Người trở nên khác thường”. Một con người chiếu toả Thiên Chúa! Và khoảnh khắc khiêm tốn nhất của đời Người đã đem đến sự Hiện Diện như thế.
Hằng ngày, ta vẫn nghe nói. “Nhân loại không xinh đẹp”. Con người có thể làm được tất cả. Thật ra nhân loại thường bị biến dạng vì bạo lực, ích kỷ hèn hạ, và thật thảm hại, lịch sử những điều ghê sợ vẫn chưa chấm dứt. Cần phải tỉnh táo tiến bước. Tuy nhân:ân nhân loại thật sự là đẹp, và con người – theo kiểu nói mạnh của những Kitô hữu thế kỷ đầu tiên “có khả năng đạt tới Thiên Chúa”.
Biết bao người, nổi tiếng hay vô danh, đã biểu lộ Thiên Chúa qua lòng can đảm, qua sức mạnh tình yêu, qua sự hy sinh trong đời sống hằng ngày của họ. Sự biến hình diễn ra rạng ngày ở khắp nói trên trái đất: Sự biến hình là năng lượng thẳm sâu của lịch sử, năng lượng ấy giúp con người tiếp tục dong duổi đường trường. Môsê, Êlia là hai khuôn mặt vĩ đại của quá khứ hai con người bằng lửa đã đưa dân qua những chặng đường hiển hách. Các ngài cũng có mặt và nói về “cuộc lên đường của Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” của Người. Một chuỗi các thế kỷ vừa khép lại và một kỷ nguyên mới sắp bắt đầu.
Ba tông đồ, ba kẻ thân tín nhất, muốn ở lại cắm lều trong ánh sáng, khai mạc thành đô và các lễ hội vinh quang. Không được phải đi thôi. Cuộc biến hình đó chính là một hành trình, phải mất hằng thiên niên kỷ. Ta vẫn chưa leo lên đỉnh núi, chưa cầu nguyện cho đủ đâu.
Còn Đức Giêsu đã hướng đích điểm về Giêrusalem, sự đương đầu, phiên toà và cái chết. Chính trên giá khổ hình mà Người đã xé đôi chân trời trần gian để thời gian liên tục.
Người vẫn là Tin Mừng, là nắm men trong các lương tâm, và Người chỉ cho ta thấy thành đô đang kêu gọi mọi xã hội hãy biến đổi tận gốc rễ. Đức Giêsu, tiêu điểm, chuẩn mực, là khuôn mặt thần linh của nhân loại chúng ta. Cuộc sống của Người sẽ mãi mãi biến hình cuộc sống của ta.
73. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
BIẾN HÌNH TRÊN NÚI
- Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Ngài. Việc rao giảng ở Galilê đã kết thúc. Trong nội bộ nhóm môn đệ. Phêrô vừa suy tôn Ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa (9,20) và Chúa Giêsu, khi đón nhận lời tuyên tín ấy, đã hoàn toàn thêm bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài (9,22): Ngài không phải là kẻ chinh phục hiển hách mà từ bao đời vẫn mong chờ, cũng không phải là Đấng giải phóng chính trị mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia chịu đau khổ. Thánh giá nằm cuối chặng đường sứ mạng Ngài và là luật sống của Ngài cũng như của các môn đệ (9,23-26): thật là một viễn tượng khắc khổ cay đắng, nhưng đưa đến vinh quang nước trời (9,27). Cuộc biến hình làm cho các môn đệ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng ý nghĩa của cuộc thử thách sắp đến. Chúa Giêsu dành riêng mạc khải này cho ba môn đệ đã đến rất gần mầu nhiệm của Ngài: Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba cũng vừa được chứng kiến sự sống lại của con gái ông Giairô (8,51-56).
- Bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình có các đặc điểm chung của phúc âm thứ ba. Tiếng metamorphpthê (“đã biến hình”, coi Mc 9,2; và Mt 17,2) xem ra Lc đã cố ý tránh không dùng; nó được thế bằng câu: “dung nhan mặt Ngài ra khác”. Quả vậy, phải tránh cho các độc giả Kitô giáo gốc lương dân hình dung ra một tương tự nào đó giữa biến cố này với những chuyện hoá thân của thần thoại ngoại giáo.
Chỉ có Lc ghi rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình xảy ra đang khi Ngài cầu nguyện, như thế là kết quả của lời cầu.
Trong Púc âm thứ ba. Môisen và Êlia cũng được mặc lấy vinh quang thiên quốc, hai ông được trình bày như sau: “Có hai người là Môisen và Êlia… hiện đến trong vinh quang”. Có nên từ đó suy luận rằng nhị vị ấy tiên báo”hai người mặc áo chói loà” trong trình thuật phục sinh (24,4) hoặc tiên báo “hai người y phục trắng ngời” (Cv 1,10) đến cắt nghĩa cuộc thăng thiên siêu phàm cho các tông đồ chăng? Điều đó xem ra hoàn toàn thích hợp với dòng tư tưởng của tác giả phúc âm thứ ba. Êlia đã được cất về trời (2V 2,11; 1Mac 2,58; Hđ 48,9); còn trong kinh thánh (Đnl 34,5), cái chết của Môisen bao trùm màn bí ẩn, nên chắc hẳn đã tạo cơ hội phát sinh cuốn nguỵ thư được người ta biết đến dưới cái tên “sự thăng thiên của Môisen”; sau cùng, việc Chúa Giêsu kết thúc đời trần gian được gọi là cuộc “siêu thăng”, như tiếng dùng cho Êlia (9,51; x.Cv 1,2.11.22; Mc 16,19) Tất cả những dự kiện góp chung lại đó làm cho chúng ta tin rằng sở dĩ Môisen và Elia có mặt trong bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình là vì họ mang tư cách những nhân vật thiên quốc đến báo trước vinh quang tương lai của Chúa Giêsu. Các dữ kiện ấy cũng khiến ta tin rằng trong phúc âm thứ ba quang cảnh này trước hết là tiên trưng của biến cố thăng thiên. Đám mây, mà tác giả phúc âm muốn người ta chú ý vì đã làm cho các môn đệ sững sờ, có thể đem so sánh với đám mây thăng thiên (Cv 1,9) mà một ngày nào đó sẽ mãi mãi che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt người đời.
- Điểm đáng chú ý của bài trình thuật là việc Môisen và Elia đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc “xuất hành” của Ngài, nghĩa là cái chết của Ngài “sắp hoàn tất tại Giêtusalem (c.31). Cũng như ở chỗ khác, Lc là tác giả phúc âm duy nhất dùng tiếng doxa (vinh quang:c.32); mối liên hệ ông ta tạo ra giữa sự tử nạn và vinh quang rất gần với quang cảnh của Ga 12,27-28 mà người ta thường coi là tương ứng với câu chuyện Biến hình của phúc âm nhất lãm.
Người ta không nhất trí mấy về ý nghĩa chữ “xuất hành” (exodus). Nhiều người hiểu là “kết thúc” hay là “chết”. Theo nguyên tự, chữ đó có nghĩa là “ra đi”, mà người Pháp dịch là exode. Lc có lẽ xem toàn thể cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các khổ đau của Ngài, Chúa Giêsu rời bỏ Giêruselem cứng tin, tương ứng với Ai cập, để đi vào vinh quang, tương ứng với Đất hứa của cuộc xuất hành xưa. Với lối chú giải này, người ta đi đến kết luận rằng: cuộc xuất hành mà trong Mc và Mt trùng vào những ngày Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, thì lại được Lc cũng như Gioan đặt vào chặng cuối của cuộc sống Ngài ở trần gian. Cuộc viễn du 40 năm của dân Do thái tiến về đất hứa tương ứng với 40 ngày (Cv 1,3) từ khi sống lại đến lên trời. Tuy nhiên phải nhận rằng cách giải thích này còn gây nhiều vấn đề nan giải. Điều chắc chắn là tiếng xuất hành (exodos) không phải là tiếng thường dùng để chỉ sự chết (x. F,. Josephe, Ant. Jud. 4,8,2). Nhưng trái với hoài niệm xuất hành, người ta thấy rõ là sách tông đồ công vụ gọi cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc “tiến vào” (trong sứ mạng công khai) và “đi ra” (1,21; 13,24).
- Như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Giêsu, kể cả phép rửa và cám dỗ, cuộc biến hình trong phúc âm thứ ba được qui hướng về tấn kịch cuối cùng và hướng về Giêrusalem. Ngoài những yếu tố khác nhau được ghi lại trên đây, Lc còn là người duy nhất ghi lại điều này: trong cuộc biến hình cũng như ở vườn Giêtsimani, các môn đệ mê ngủ mà họ chỉ chứng kiến sự kỳ diệu khi thức dậy. Trong cùng một ý nghĩa đó, việc Phêrô xin dựng ba lều để kéo dài thời gian đặc ân làm cho ta liên tưởng đến việc hai khách bộ hành đi Emmau cầu xin Đấng – sống – lại ở với họ lâu hơn nữa.
- Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa, đã có tiếng từ trời phán ra để trao cho Ngài một sứ điệp tương tự: “Con là Con ta, hôm nay ta sinh ra con” (Lc 3,22). Đó là lời Chúa Cha nói với Con Ngài, là lời tấn phong Đấng Messia theo kiểu CƯ (Tv 2,7) là lời khai mạc sứ mệnh của Đấng cứu thế (theo Mt 3,17: lời Tc nói với đám đông để giới thiệu cho họ Đấng Messia)
Còn trong cuộc biến hình, Chúa Cha ngỏ lời cho chính các môn đệ. Ngài mạc khải cho họ mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài là Con Đấng đã được chọn. Danh hiệu “Đấng đã được chọn” này, tái xuất hiện khi Chúa chịu treo trên thập giá (23,35), đã gợi lại hình ảnh người tôi tớ (trong Is 42,1), vị tiên tri mang ánh sáng đến cho muôn dân và dùng cái chết để chuộc tội muôn người.
KẾT LUẬN
Cuộc biến hình là một gạch nối giữa ánh sáng mau vụt qua của phép rửa và ánh sáng rạng ngời của ngày phục sinh. Trong việc lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thấy mình được lời Chúa Cha xác nhận trong sứ mạng Messia chịu đau khổ: Chúa Giêsu là Lời mà hết thảy mọi người phải nghe, là vị hướng đạo chắc chắn cho cuộc xuất hành cuối cùng tiến về cuộc sống sung mãn.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Luật muôn đời của đức tin là: vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho chúng ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc được an ủi thiêng liêng sâu xa nhất: vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do của nó. Suốt thời gian thử thách Thiên Chúa vẫn là Vị Thiên Chúa mai ẩn đối với người tín hữu, bởi vì Ngài là Cha và vì Ngài muốn được các tâm hồn tự do yêu mến.
- Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha đối với việc Ngài chấp nhận cuộc tử nạn với tình yêu. Quả thật, ít hôm trước, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ cuộc tử nạn sắp đến của Ngài. Ngài hoàn toàn ý thức Ngài đang tiến về cái chết. Ngài đón nhận cái chết như do ý muốn Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tình yêu của con, Chúa Cha mặc cho Chúa Giêsu ánh sáng và vinh quang. Một thời gian nữa, Thiên Chúa cũng làm cho như thế tại Giêrusalem. Chúa Giêsu sẽ uống chén đau khổ và chén sự chết vì tình yêu vâng phục thánh ý Chúa Cha. Và để đáp lại tình yêu đó, Chúa Cha sẽ phục sinh con Ngài trong ánh sáng và vinh quang. Trong đời sống Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Nếu trong một vài lúc, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha xem ra là một thánh giá nặng nề, chúng ta hãy tin chắc rằng ngày kia sư vâng phục đó sẽ là nguồn vâng phục khôn tả. Và ngay trong cuộc đời này, chúng ta đã được sự bình an của Chúa Giêsu. Với Ngài chúng ta có thể nói: “Tôi không ở một mình, vì có Cha ở với tôi, vì tôi hằng làm đẹp lòng Ngài” (Ga 8,29).
- Chính đang khi cầu nguyện mà Chúa Giêsu được biến đổi. Thông thường các thánh, hình như cũng được biến đổi nhờ cầu nguyện và ngợi khen. Điều đó không lạ gì cả. Cầu nguyện là một sự gặp gỡ với Chúa Cha, làm chúng ta nên giống Ngài, ít ra là về tinh thần nếu không phải là về thể xác như trường hợp Chúa Giêsu và các thánh. Nếu chúng ta trung thành cầu nguyện, chắc chắn dần dần Chúa sẽ thông ban cho chúng ta ngay trong cuộc sống này một chút gì đó của sự bình an, của niềm hy vọng rạng rỡ của hạnh phúc Ngài.
- Sau cuộc biến hình, các môn đệ gặp lại Chúa Giêsu với dáng vẻ tầm thường và cuộc sống thường nhật của Ngài lại tiếp tục. Và chỉ sau khi phục sinh, họ lại thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài. Chúng ta cũng vậy, sau khi được an ủi nhiều, sau những cử hành phụng vụ đẹp mắt làm chúng ta sốt sắng, chúng ta lại trở về cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở với chúng ta trong mọi biến cố, mọi hành động thường ngày của đời sống. Trên đường đời, cho dù gặp nhiều thánh giá, nếu chúng ta bền tâm đi theo Ngài, một ngày kia chúng ta sẽ gặp Ngài trong mối thân tình êm ái còn hơn cả tình thân thỉnh thoảng chúng ta nếm được trên trái đất này. Vì khi đó, chúng ta sẽ thấy Ngài rõ ràng, mặt đối mặt. Khi đó, chính chúng ta cũng được biến đổi cho đến muôn đời.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam