Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1446710

CHIẾC RÌU SÁT GỐC CÂY

Chiếc rìu sát gốc cây

Có bao giờ chúng ta nghĩ đến những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ đổ xuống trên nhân loại này hay không? Xã hội chúng ta đang sống chìm ngập trong tội lỗi, thế nhưng nhiều người lại không nhận ra điều đó.

Trước kia, lề luật của Thiên Chúa được coi là khuôn vàng thước ngọc, được coi là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, từ gia đình cho tới học đường, từ làng xã cho đến quốc gia và quốc tế. Đâu đâu người ta cũng nói đến Thượng đế, đến Ông Trời, đến Thiên Chúa. Kẻ làm điều ác sẽ bị mọi người cảnh cáo, khinh bỉ và có khi còn bị loại trừ. Dĩ nhiên không phải vì thế mà tội lỗi biến đi, nhưng ít ra còn có những người can đảm dám nói lên tiếng nói của lương tâm, phủ nhận tội ác, không dung túng cũng như không đứng về phe tội ác.

Trái lại, trong thời buổi hiện nay phạm tội nhiều khi còn được coi là một hành động anh hùng và nếp sống vô luân trở thành một nếp sống bình thường. Đã có những người cho rằng không phạm tội mới là bất bình thường. Có người chưa dám phạm tội, nhưng lại khoác lác như mình đã phạm tội để cho thiên hạ phải nể phục. Đã có những người tuyên bố rằng:

- Thời vàng son của tự do đã tới, con người được thoải mái sống theo bản năng, muốn làm gì thì làm.

Từ đó, lòng trung thành với tình yêu bị phai mờ. Sự ngay thẳng bị rút vào bóng tối. Tham nhũng hối lộ là chuyện thường ngày. Kẻ lường gạt được coi là khôn ngoan. Người ta không cho kẻ gian ác bị tống ngục là điều chính đáng, nhưng chỉ tiếc là hắn ta thiếu khôn ngoan. Ngay cả những nơi trước kia nền luân lý được coi là khắt khe nhất, thì bây giờ cũng đã bị bóng tối che phủ.

Biết bao nhiêu tội nhân không hề biết dừng bước trên con đường tội lỗi. Ho ung dung bước đi, đến nỗi cảm thấy áy náy nếu không phạm tội, đúng như lời Đức Thánh Cha Piô XII đã cảnh cáo:

- Tội nặng nhất của con người thời nay, đó là họ đã mất ý thức về tội lỗi.

Hình như càng văn minh, con người càng phạm nhiều tội ác. Ngày xưa chỉ có một ngọn tháp Babel, chứ ngày nay không biết có bao nhiêu ngọn tháp như thế? Chúng ta có nghĩ rằng mình đang sống ngoài vòng tội lỗi hay cũng đang lặn ngụp trong đó? Chúng ta có ghi nhận những lời cảnh cáo của Chúa hay không? Ngài sẽ làm gì khi thấy chúng ta như những con thiêu thân lao mình vào lửa?

Nếu đã nói nhiều về tình thương của Chúa, thì hôm nay chúng ta cũng phải nói về cơn thịnh nộ của Ngài. Thực vậy, tình yêu không phải chỉ được biểu lộ qua những ân huệ trao ban, mà còn được biểu lộ qua những hình phạt sửa dạy. Kinh Thánh cũng đã cho thấy:

Một trận đại hồng thủy đã vùi dập nhân loại thuở ban sơ đang chìm đắm trong tội lỗi.

Một dân tộc Do Thái, dù đã được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa, thế mà khi phản bội, Ngài cũng không ngần ngại trừng phạt họ một cách đích đáng, khiến bản thân họ bị tàn sát bởi những dân tộc hùng mạnh và đất nước họ bị đổ vỡ tan hoang.

Chúng ta liệu có xứng đáng hơn những người thời ông Noe, liệu chúng ta có trung thành hơn những người Do Thái hay không? Chưa chắc đâu, bởi vì tội ác đã lên ngôi và Thiên Chúa sẽ trừng phạt:

- Cây nào không sinh trái thì sẽ bị chặt và quăng vào lửa.

Nói tới đây, hẳn chúng ta sẽ liên tưởng đến những trái bom nguyên tử đang treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Một trái bom loại này ngày xưa đã hủy diệt cả một thành phố như Hiroshima, còn hôm nay chỉ trong nháy mắt có thể san bằng cả một lục địa. Đúng là gậy ông đập lưng ông.

Thực vậy, chính tội ác của chúng ta đã làm nên những trái bom khủng khiếp ấy, để rồi một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu lãnh nhận hậu quả thảm khốc của nó.

Tuy nhiên, ngày xưa cũng như hôm nay, Thiên Chúa luôn tìm kiếm và cứu vớt những người kính sợ Ngài. Nếu ngày xưa tám người trong gia đình ông Noe được cứu thoát trên chiếc tàu do tay ông đóng lấy, thì hôm nay, chúng ta hãy biết sám hối trở về cùng Chúa, để nhờ đó thoát khỏi án phạt của Ngài, vì này đây, chiếc rìu đã được đặt sát gốc cây.

 

40. Sứ giả của Thiên Chúa

Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.

Nếu vị hoàng đế quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ giả ấy cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.

Đúng thế, vào lúc vị Vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, chia sẻ thân phận làm người của chúng ta và nhất là để cứu chuộc chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri Malachia đã loan báo: Này đây, ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.

Lời loan này ám chỉ về Gioan Tẩy giả. Đúng thế, bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép rửa sám hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế: Có tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, (Mt 3,3), quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.

Gioan Tẩy giả không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta. Nếu không hoán cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt 3,10).

Ngoài ra, cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan Tẩy giả còn tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái vì cho rằng mình đã có tổ phụ Abraham. (Mt 3,9). Đúng thế, đức tin không phải là một di sản của nòi giống, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với người Do thái, trong lúc sự hoán cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.

Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ tấm bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.

Gioan trả lời cho chúng ta hay: Không phải là như thế. Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham. (Mt 3,8). Và như vậy, trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị quăng ra ngoài, vào chốn tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. (Mt 8,11-12).

Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn trừ cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.

Mùa vọng đã trở về, đây chính là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta lắng nghe và thực thi sứ mạng của Gioan Tiền hô: sám hối và canh tân để dọn đường đón mừng Chúa đến, bởi vì tâm tình sám hối chính là bước chân đầu tiên trên con đường trở về cùng Chúa và cõi lòng ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.

Hay như thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Tâm tình sám hối ăn năn chính là sự cộng tác, chính là sự góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

 

41. Ăn năn sám hối

Cách đây không lâu có một bài báo viết về một chương trình rất đặc biệt. Chương trình nói về việc tẩy xóa những vết xăm không còn muốn giữ lại trên thân mình, đặc biệt là những dấu xăm có liên hệ đến băng đảng của các bạn trẻ. Một điều rất ngạc nhiên xảy ra là sau khi bài báo xuất hiện, đã có trên 1000 lá thư từ các bạn trẻ khắp nơi gửi về tòa soạn hỏi thêm chi tiết về chương trình. Nhờ sự đáp ứng đáng kể đó mà một cơ quan giáo dục tại Los Angeles đã phối hợp với một hãng truyền hình địa phương sản xuất một cuốn phim gọi là “Untatoo You” – “Tẩy vết xăm cho bạn”.

Cuốn phim nói về những nguy hiểm của việc xăm mình và trình bày sự khó khăn của việc tẩy đi những dấu xăm nhỏ trên những cánh tay, khuôn mặt, và những vết xăm lớn hơn trên ngực và sau lưng. Các tài tử đóng phim này chính là những bạn trẻ đã xăm mình. Họ nói một cách thành thật về lý do tại sao lúc ban đầu họ đã xăm, và bây giờ tại sao họ lại muốn tẩy xóa đi. Sau cùng, cuốn phim đã chiếm được giải thưởng quốc gia, và bây giờ đã được phát hành trên khắp nơi.

Câu chuyện đằng sau cuốn phim nói với chúng ta một điều quan trọng. Trong cuộc đời chúng ta đã làm những điều mà bây giờ cảm thấy ăn năn sám hối và muốn tẩy xóa đi. “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng”.

Giống như những người trẻ vui mừng khi khám phá ra cách tẩy xóa những dấu xăm không còn muốn giữ nữa, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng vui mừng vì Chúa Giêsu Kitô đã cho chúng ta một cách để tẩy xóa tội lỗi của mình. Chính Ngài đã đến để xóa tội trần gian. Chính Ngài đã lập ra Bích tích Hòa giải để tẩy xóa tội lỗi ta.

Chủ đề chính của Chúa nhật thứ II mùa vọng hôm nay là sự sám hối chân thành và lòng ăn năn trở về với Thiên Chúa. Sự sám hối chân thành được thể hiện bằng những thái độ, sự lựa chọn và cách sống phù hợp với những giảng huấn của Chúa Giêsu và Giáo Hội. Điều này được thực hiện trong Bí tích Giải tội với những tên gọi khác nhau như Bí tích của sự trở lại, Bí tích sám hối, Bí tích của ơn tha thứ, Bí tích hòa giải.

Trong tiếng Hy Lạp chữ sám hối, metanoia, vừa có nghĩa một cảm xúc hối tiếc về những tội lỗi quá khứ làm xúc phạm đến Thiên Chúa, vừa là việc xét mình tỉ mỉ những tội đã phạm, từng tội một, để xin Chúa tha thứ, vừa là một sự đòi hỏi hoán cải sâu xa trong tâm trí và cuộc sống.

Sự biến đổi cuộc sống là dấu chỉ của lòng sám hối đích thật. Phải thay đổi cách suy nghĩ, cách cư xử, và cách hành động. Giáo Hội vừa thánh thiện, vừa gồm những tội nhân. Như một thành phần trong Giáo Hội, chúng ta chưa là thánh, nhưng đang được kêu gọi để trở nên thánh, và luôn được mời gọi để thay đổi.

Nhưng trong quá trình hoán cải, giống như thánh Augustinô, đôi khi chúng ta cũng có khuynh hướng cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy thay đổi con, nhưng xin thay đổi con từ từ thôi”. Chúng ta cũng còn muốn giữ lại một điều gì đó dính bén với tật xấu, thói quen tội lỗi và trần gian. Sự do dự chần chừ trong việc thay đổi cuộc sống như thế thường xảy ra trong đời sống thiêng liêng của con người. Hay tệ hơn nữa chúng ta lại còn có những cảm xúc hối tiếc giả tạo, đánh lừa chính mình nữa.

 

42. Ăn năn sám hối

Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả thật rõ ràng: hãy nhận lấy trách nhiệm về những hành động của mình. Phải phục hồi lại cảm giác luân lý trong lời nói và việc làm. Phải nhìn thấy sự khác biệt giữa sự giả trá và lòng chân thành. Phải có bằng chứng hiển nhiên rằng mình thành thật ước muốn thay đổi cuộc sống. Một sự sám hối chân thành sẽ phát sinh hoa trái đạo đức: “Hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối”.

Hôm nay thánh Gioan Tẩy giả cũng giảng dạy cho những người Kitô hữu ở thế kỷ 21 đang hờ hững và lạt lẽo với đời sống tinh thần. Ngài thách thức họ phải vứt bỏ những cái mặt nạ giả hình, dối trá, và gian tà bằng sự chân thành sám hối có sức mạnh biến đổi cuộc sống, và trở về với Thiên Chúa. Vì chỉ có lòng sám hối chân thành và ngay thực mới phát sinh được hoa trái đạo đức và mang lại ơn cứu độ như thánh Grêgôriô thành Nazianzê đã nói: “Các giáo phụ đã có lý để gọi sự sám hối là ‘một phép rửa tội gian khổ’. Bí tích sám hối này cần cho ơn cứu độ của những người phạm tội sau khi chịu phép rửa tội…”

Mùa vọng là thời gian để phục hồi lại đời sống tinh thần lạt lẽo của chúng ta và đặt Thiên Chúa lên hàng ưu việt trong thái độ sống và trong các chọn lựa. Đối với Kitô giáo, không có sự hoàn thiện nào mà không đòi hỏi một sự sám hối chân thành.

 

43. Suy niệm của Đam. Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL    

“Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”

Nếu chủ đề của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm A tuần trước là “Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” , mà “leo lên núi Chúa”, như bài chia sẻ tuần trước cho thấy, là “hãy loại trừ những việc làm tối tăm” theo lời khuyên của Thánh Phaolô trong bài đọc hai tuần trước, chúng ta mới có thể gặp được Chúa Kitô, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì lời kêu gọi của tiên tri Isaia trong bài đọc một tuần trước đã nên trọn nơi lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Căn cứ vào mối liên hệ sâu xa nơi hai lời kêu gọi hết sức tương hợp với nhau này, một trong Cựu Ước và một trong Tân Ước, chúng ta có thể chuyển dịch ý nghĩa của hai lời mời gọi này như sau: “Hãy leo lên núi Chúa” tức là “hãy cải thiện đời sống”, và “tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” tức là “Triều đại Thiên Chúa đã đến”.

Thật vậy, như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, theo tiến trình cứu độ, Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Chúa Kitô đến cứu thế, song theo ý nghĩa phụng vụ, Mùa Vọng là thời điểm cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Đấng đã thực sự đến trong thế gian và không ngừng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế, bởi vậy Mùa Vọng của Giáo Hội Chúa Kitô cũng hướng về biến cố Chúa Kitô lại đến trong vinh quang. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm thần linh, có thể thực sự nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể, là Thiên Chúa Làm Người, cho dù Người có đang ở với mỗi người chúng ta bằng Thánh Sủng, và có ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người, nếu chúng ta không “leo lên núi Chúa”, tức không “cải thiện đời sống”. Bởi vì, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” ở trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất”, nơi chúng ta “thuộc về hạ giới” (Jn 8:23) không thể tới được, thậm chí không thể thấy được, nếu chúng ta không muốn hay không chịu khó “leo lên núi Chúa”. Thật vậy, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” đây là gì, nếu không phải là nhân tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người, một ngôi nhà không phải do tay người ta làm ra, mà là do chính Thiên Chúa, “là do Chúa Thánh Thần”, như thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse biết trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Tư Năm A Mùa Vọng hai tuần tới đây. Nếu “Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ; bởi thế trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”, như Phúc Âm Thánh Luca trình thuật ở đoạn 1 câu 35, thì quả thực “nhà của Thiên Chúa Giacóp”, một ngôi nhà đã được dựng lên bởi “quyền phép Đấng Tối Cao”, chính là ngôi nhà đã được xây cất ở trên ngọn của “một đỉnh núi cao nhất vượt trên các ngọn đồi”. Và nếu “trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” đây chính là Đấng, cũng theo lời thiên sứ cho biết ở Biến Cố Truyền Tin trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 32-33: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người sẽ vô tận”, thì một khi “nhà của Thiên Chúa Giacóp” được xây cất trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất” bấy giờ cũng là lúc “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, như lời Gioan Tiền Hô loan báo trong bài Phúc Âm hôm nay.

Thế nhưng, nếu thực sự “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, hay nếu Thiên Chúa Đã Làm Người, tại sao không ai trong dân Do Thái biết, không ai thấy, ngoại trừ một số rất hiếm, như tư tế Simêon và nữ tiên tri Anna như được Phúc Âm theo Thánh Luca thuật lại ở đoạn 2 câu 28-38? Phải chăng vì “nhà của Thiên Chúa Giacóp” này xây trên “đỉnh núi cao nhất”, hết sức khó thấy. Đúng thế, Thiên Chúa Nhập Thể là một mầu nhiệm, do đó, nếu không có ơn Chúa đặc biệt, con người không thể nào nhận ra Người, dù Người có thực sự ở giữa họ, như lời Tiền Hô Gioan khẳng định với dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Vậy mà tại sao Gioan Tiền Hô lại biết và loan báo cho dân chúng biết, trong khi chính ngài đã thẳng thắn tuyên bố với dân chúng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 31 rằng: “Thú thực, tôi không biết Người, mặc dù tôi đến lấy nước mà rửa để Người có thể tỏ mình ra cho dân Yến Duyên”? Trong khi tuyên bố “thú thực, tôi không biết Người” như thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan Tiền Hô lại nói rất rõ về thân phận và vai trò của “Đấng đến sau” mình. Về thân phận của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô tiết lộ: “Tôi lấy nước mà rửa cho các người hoán cải, nhưng Đấng đến sau tôi là Đấng quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người”; về vai trò của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô cũng đã nói rõ: “Người là Đấng sẽ rửa các người trong Thánh Thần và trong lửa… Người sẽ dọn sạch sân lúa của Người, thóc thì Người thu vào kho, còn rơm thì Người cho vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Quả thực Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô đã đến “rửa trong Thánh Thần và trong lửa”: Người đã “rửa trong Thánh Thần”, qua việc Người “thổi hơi” trên các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, để các vị “nhận lấy Thánh Thần”, như Phúc Âm theo Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 20 câu 22; và Người cũng đã “rửa trong lửa”, qua biến cố “những lưỡi như lửa xuất hiện tản ra đậu trên đầu mỗi một vị. Tất cả đều được đầy Thánh Thần. Các vị bắt đầu nói tiếng lạ và hiên ngang rao giảng theo Thần Linh thúc đẩy”, như được Thánh Ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở đoạn 2 câu 3.

Phúc Âm cho thấy khi Gioan Tiền Hô đang kêu gọi dân Do Thái “cải thiện đời sống” và làm phép rửa thống hối cho họ ngài chưa thực sự tận mắt thấy Đấng “tôi không biết”, thậm chí cho đến lúc thánh nhân làm phép rửa cho Người, và thấy được những dấu chứng tỏ và chứng thực về “Đấng đến sau” mình, như ngài cho biết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 2 câu 32-34: “Tôi đã thấy Thần Linh như chim bồ câu từ trời xuống đậu trên Người. Tuy nhiên, tôi không biết Người. Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống và đậu trên ai thì người ấy là Đấng rửa trong Thánh Thần’. Nay tôi đã tận mắt thấy và làm chứng ‘Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’”. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 3 câu 13 và 14, ngay trước khi Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô chịu phép rửa bởi ngài, thánh nhân hình như đã linh cảm được Người chính là “Đấng đến sau” mình rồi, nên thánh nhân đã từ chối làm phép rửa cho Người: “Tôi phải được Ngài rửa cho mới đúng, chứ đâu có chuyện Ngài lại đến xin tôi!”. Vấn đề ở đây là tại sao Gioan và chỉ có một mình Gioan bấy giờ linh cảm thấy Vị Thiên Chúa Làm Người trước khi làm phép rửa cho Người, và chẳng những nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người mà còn làm chứng cho Vị Thiên Chúa Làm Người này sau khi làm phép rửa cho Người, trong khi đó, đám dân chúng đông đảo đang kéo đến với thánh nhân, gồm có cả thành phần thông luật, thông Kinh Thánh, như phái Pharisiêu và Sađucê trong bài Phúc Âm hôm nay, không hề nhận ra Người?

Vẫn biết, nguyên do trước hết và trên hết khiến cho Gioan Tiền Hô có thể linh cảm thấy và nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người là vì, theo thánh nhân nói, như vừa được trích dẫn, “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi”, thế nhưng, Đấng sai thánh nhân đến “lấy nước mà làm phép rửa” đây là ai? Vào lúc nào? Tại đâu? Sao thánh nhân lại tin vào Đấng ấy? Không ai biết, và chính ngài cũng không tiết lộ một tí gì về những chi tiết này. Về vấn đề nguồn gốc sứ vụ của Gioan Tiền Hô đây cũng đã được Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần trưởng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 21 câu 24 thế này: “Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?” Nhưng họ không trả lời được, nói rõ hơn, họ không muốn trả lời, hay nói chính xác hơn, họ không dám trả lời, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cùng đoạn tiếp tục thuật lại như sau: “Nếu chúng ta đáp là bởi ‘thần linh’ thì hắn sẽ vặn chúng ta rằng ‘thế thì tại sao các người không tin vào phép rửa này?’ Bằng nếu chúng ta bảo bởi ‘loài người mà thôi’, chúng ta không thể nào lại không sợ dân chúng, vì toàn thể dân chúng đều coi Gioan như là một vị tiên tri vậy”. Đến đây, qua sự kiện thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ lập luận để giải đáp về nguồn gốc phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy được lý do chủ quan tại sao Gioan Tiền Hô có thể tự mình linh cảm thấy “Đấng đến sau” khi vừa thấy Người đến xin thánh nhân làm phép rửa cho, trước khi thánh nhân nhận ra Người căn cứ vào chính mạc khải từ “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa”.

Thật vậy, nếu lý do dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân chúng là Hội Đồng Do Thái bấy giờ nói riêng không nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, cho dù họ đã tận tai nghe lời Người giảng dạy vô cùng khôn ngoan cũng như đã tận mắt chứng kiến các phép lạ Người làm, chỉ vì họ muốn chối bỏ sự thật, không muốn chấp nhận sự thật, thì lý do chủ quan khiến Gioan Tiền Hô cảm nhận được ngay Vị Thiên Chúa Làm Người, đó là vì thánh nhân đã sống trong sự thật và tìm kiếm sự thật. Do đó, cho dù “toàn thể dân chúng” có trọng vọng thánh nhân “như một vị tiên tri”, thậm chí tưởng ngài là “Đấng Thiên Sai” (xem Jn 1:25), thánh nhân đã thành thực tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Thiên Sai” (Jn 1:20). Vì sống trong sự thật như thế, nên có lần nghe thấy các môn đồ của mình nói đến sự kiện dân chúng kéo tới xin Chúa Giêsu làm phép rửa cho đông hơn thánh nhân (xem Jn 3:26), thánh nhân liền nói: “Ngài phải được nổi nang hơn còn tôi cần phải lu mờ đi” (Jn 3:30). Gioan Tiền Hô tự mình chẳng những đã sống trong sự thật như vậy, mà còn mạnh mẽ rao giảng sự thật và cương quyết làm chứng cho sự thật nữa. Thánh nhân đã mạnh mẽ rao giảng sự thật, ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay thuật lại, khi ngài lên tiếng khiển trách “nhiều người Pharisiêu và Sađucê đến xin chịu phép rửa: ‘Đừng có mà tự phụ cho rằng Abraham la cha của mình. Tôi bảo cho các người hay Thiên Chúa có thể biến chính những hòn đá này thành con cái Abraham cũng được… Cây nào không sinh hoa kết trái sẽ bị chặt đi và quặng vào lửa”; chưa hết, thánh nhân chẳng những rao giảng mà còn hiên ngang “làm chứng cho sự thật” (Jn 5:33) nữa, ở chỗ, ngài đã lên tiếng phản đối việc hôn nhân bất chính của Hêrôđê và vì thế đã bị mất đầu, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 14, câu 4 và 11.

Vâng, cho dù Thiên Chúa Làm Người có thực sự tỏ mình ra, tỏ mình ra hoàn toàn nhất, đích thực nhất, hiển nhiên nhất nơi Con Người Giêsu Nazarét, và cho dù con người có được soi động cho biết những dấu hiệu đích thực để có thể chắc chắn nhận ra Ngài, nhận ra “Sự Thật”, chẳng hạn như trường hợp Gioan Tẩy Giả qua “Đấng đã sai (ngài) lấy nước mà làm phép rửa”, hay như trường hợp của thành phần lãnh đạo dân Do Thái trước vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra cho họ về ngồn gốc phép rửa của Gioan Tẩy Giả, tự mình con người vẫn cần phải thành tâm tìm kiếm sự thật và sống trong sự thật nữa mới có thể nhận ra Người. Vì Người đã quả quyết với Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đã đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tìm kiếm sự thật thì nghe thấy tiếng Tôi”. Cho dù thành phần tìm kiếm sự thật này chưa gặp được Người là chính “Sự Thật” (Jn 14:6), nơi họ cũng đã có sẵn tính chất là chiên của Người rồi, và bởi thế họ đã có khả năng làm chiên của Người nữa, khả năng nghe được tiếng chủ chiên của mình, khả năng nghe được “Sự Thật”, nhận biết “Sự Thật” khi được “Sự Thật” tỏ mình ra cho, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 27 và 16: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”; “Tôi còn những chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt cả chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Mùa Vọng chẳng những là thời điểm đợi trông Chúa Kitô đến lần thứ hai mà còn là thời điểm để Kitô hữu chúng ta cảm nghiệm được thực sự Chúa Kitô đã đến rồi và đang ở nơi mỗi một người chúng ta bằng Thánh Sủng cũng như ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế bằng Thần Linh của Người, và nếu muốn thực sự cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người này nơi mỗi người cũng như trong Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta cần phải như Gioan Tiền Hô sống trong sự thật, mà Sự Thật lại chính là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa Làm Người, vậy sống trong sự thật phải chăng là tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa thực sự đã Làm Người, và vì hoàn toàn tin tưởng nơi Vị Thiên Chúa Làm Người như vậy, Kitô hữu chúng ta sẽ không dám sống ngược lại với Đường Lối Nhập Thể của Người là khiêm nhượng, thanh bần, phục vụ và chịu đựng khổ đau, tóm lại, chúng ta luôn phải biết “bỏ mình đi và vác thập giá mà theo Thày” (Mt 16:24)?

 

44. Gioan Tiền Hô

Để hiểu được vai trò và sứ mạng của Gioan tiền hô, chúng ta hãy nhìn vào bối cảnh xã hội của người Do Thái thời bấy giờ.

Thực vậy, thời bấy giờ là thời đô hộ của đế quốc La mã, thời ra oai tác quá của Hêrôđê, thời dân Do Thái tìm mọi cách để được giải phóng.

Giữa lòng dân tộc và đặc biết tại thủ đô Giêrusalem, nhiều phe nhóm đã được hình thành với những khuynh hướng và lập trường khác biệt nhau.

Trước hết là nhóm Biệt phái. Nhóm này phát sinh từ thời Macabêô, qui tụ chừng sáu ngàn người, trong đó có một vài tư tế, các tiến sĩ luật, ký lục và thường dân. Nhờ trung thành với lề luật và truyền thống của cha ông, họ trở nên những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng. Do đó, họ có một ảnh tưởng đáng kể về phương diện tôn giáo và luân lý. Riêng trong lãnh vực chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt đối với việc tiếp xúc với người La mã.

Bên cạnh họ là nhóm Sađucêô, con cháu của Sađốc, vị thượng tế thời Salomon. Vì thế họ làm thành phái các tư tế vì qui tụ những gia đình tư tế khá giả. Họ chấp nhận các phong tục Hy Lạp và thích nghi với chế độ thống trị của đế quốc La Mã. Về phương diện tôn giáo, họ chối bỏ truyền thống và niềm tin về sự sống lại, sự hiện diện của các thiên thần cũng như sự quan phòng của Thiên Chúa.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải ghi nhận nhiều khuynh hướng cực đoan, chẳng hạn nhóm Zélote, là một đảng phái chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người xứ Galiêa thành lập vào năm thứ sáu với ước vọng hình thành một quốc gia thần quyền, trong đó chỉ mình Đức Giavê mới là vua dân Do Thái, đồng thời chủ trương dùng bạo lực để bẻ gẫy ách thống trị của đế quốc La mã. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị một cuộc thánh chiến. Và cuộc thánh chiến này đã bùng nổ vào năm 66.

Ngược lại, những người phái Esseni cũng vào hoang địa, nhưng để âm thầm sửa soạn cho một cộng đồng thiên sai của giao ước.

Chính trong môi trường đa diện ấy, khuôn mặt Gioan xuất hiện như một con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hãy ăn năn sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa.

Vậy lời kêu gọi của ông có ý nghĩa gì?

Đối với Gioan, lời kêu gọi ấy xác quyết rằng:

- Sự nong chờ của toàn dân đã đến ngày toại nguyện.

Cũng như những người đương thời, ông tin rằng:

- Niềm chờ mong sẽ được toại nguyện khi Đấng Thiên sai xuất hiện, Đấng mà ông giới thiệu như vị thẩm phán của thời sau hết…

Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và thời sau hết, giữa lúc bấy giờ và ngày cuối cùng chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, đó là việc quang lâm của Đấng sẽ đến để chấm dứt mọi sự.

Cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái chỉ vì mình là con cháu Abramham.

Thế nhưng, đức tin không phải là một di sản của giống nòi, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi.

An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với dân Do thái,trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.

Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: - Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.

Gioan trả lời: - Không phải là như thế.

Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết:

- Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham…Và như vậy trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị loại ra ngoài.

Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.

home Mục lục Lưu trữ