Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 78

Tổng truy cập: 1446723

CHẤP NHẬN VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA

Chấp nhận vương quyền của Chúa

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Có những người mang cái tên họ nhà vua như họ Trần, họ Nguyễn, họ Lý, họ Lê, họ Trịnh, họ Đinh.. Mang cái tên họ hoàng tộc có thể có liên hệ gần hay xa đến hoàng tộc đó, có thể làm người ta hãnh diện hoặc mắc cở với hoàng tộc nào liên hệ. Riêng người công giáo, họ còn thuộc dòng tộc Kitô giáo, mang dòng máu đức tin vào Đức Kitô, vua vũ trụ. Như trong kinh Tiền tụng Chuá nhật Thường niên I, Giáo hội tuyên xưng qua miệng chủ tế: Bởi đó, chúng con được hân hạnh mang danh là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tư tế, là dân thánh, dân riêng của Chúa.

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô vua. Khi quan Philatô hỏi Chúa Giêsu xem Người có phải là vua dân Do thái không? Chúa trả lời đó là ý tưởng của Philatô. Philatô phải hiểu rằng câu trả lời của Chúa có nghĩa là Ngài chối từ danh hiệu là vua dân Do thái. Tuy nhiên Philatô vẫn cho khắc trên Thánh giá dòng chữ: Đây Là Vua Dân Do Thái (Lc 23:38). Thực ra dòng chữ khắc trên Thánh giá là một tính toán sai lầm của Philatô. Bởi vì các thày cả thượng phẩm trong dân không muốn Chúa Giêsu làm vua của họ. Và Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của dân Do thái. Sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn vinh Chúa làm vua. Còn Chúa thì lại không muốn can dự vào việc cai trị một vương quốc trần thế.

Vậy thì vương quốc của Đức Kitô là gì và ở đâu? Theo Phúc âm thánh Gioan, Chúa trả lời Philatô rằng: Vương quốc của tôi không thuộc thế gian này (Ga 18:36). Đứng bên Thánh giá Chúa, ta thấy có hai loại người: một loại chế diễu và nhạo báng Chúa, một loại người khác khóc than và thương tiếc Chúa. Trong số những người khóc than và thương tiếc Chúa, có một người Trộm lành, cũng chịu đóng đinh với Chúa, đã nhận ra được tội lỗi mình. Anh ta có lòng kính sợ Chúa và tin vào sự sống vĩnh cửu. Người Trộm lành có tên là Điđimô nhận ra Đức Kitô đích thực là Con Thiên Chúa và là Vua vũ trụ nên đã xin với Chúa: Lạy Ngài Giêsu, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi (Lc 23:42). Bằng lời nói đó, người Trộm lành đã tuyên xưng vương quốc và chấp nhận vương quyền của Chúa. Và Chúa hứa với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng (Lc 23:43).

Hôm nay mỗi người cần tự hỏi xem mình có chấp nhận vương quyền của Chúa chưa? Ta có để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa như thế nào? Nhận Chúa làm Vua là việc xem ra dễ dàng. Còn để Chúa làm vua và làm chủ tâm hồn và đời sống mình lại là chuyện khác. Để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là để Chúa làm chủ tư tưởng, lời nói, ước muốn và hành động. Còn khi ta bực mình về những sự việc xẩy ra ngoài ý muốn như mưa bão làm hỏng chương trình đi du ngoạn là ta không muốn để Chúa làm chủ đời sống. Để Chúa làm chủ tâm hồn sẽ gặp khó khăn khi ta được thành công. Còn khi gặp thất bại, người ta sẽ nảy sinh ta hai thái độ: hoặc là hận Chúa rồi bỏ Chúa hay phó thác vào Chúa, để Chúa làm chủ. Có những người nghĩ nếu để Chúa làm chủ, họ sẽ mất đi cái tự do. Những ai đã sống theo đường lối vã thánh ý Chúa, chắc hẳn đã cảm nghiệm được thế nào là tự do của con cái Chúa. Cái tự do đó chính là sự bình an trong tâm hồn. Vậy hiện thời thì ai đang làm chủ tâm hồn và đời sống ta? Có phải Chúa làm chủ đời sống hay ta đã để cho tiền tài, danh vọng, thú vui làm chủ? Ta có mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa để quyền năng Chúa có thể biến đồi hay ta vẫn còn chần chừ trong bóng tối của sự chết, tính ích kỷ, đam mê và lười biếng.

Giáo hội thiết lập lễ Chúa Kitô vua để kêu gọi loài người công nhận vương quyền của Chúa trên đời sống cá nhân và gia đình. Lời kêu gọi này rất là cần thiết trong thời đại ta đang sống khi mà những tham lam thế gian và tham vọng trần thế đang lôi kéo tâm trí loài khỏi Thiên Chúa và những lãnh vực thiêng liêng.

 

67. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Giêsu là Vua của vũ trụ. Nhưng là Vua theo nghĩa nào?

2. Ngài là Vua của cả vũ trụ. Nhưng thử hỏi: Ngài đã đích thực là Vua của chính bản thân bạn chưa? đã là Vua trong trái tim bạn chưa?

3. Miệng bạn tuyên xưng về Đức Giêsu thế này thế kia, nhưng hành động và cách cư xử của bạn đối với mọi người có tuyên xưng đúng như vậy không?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu là Vua, nhưng là vua theo nghĩa nào?

Trên trần gian này, có nhiều cách làm vua. Có những vị vua hay tổng thống cai trị đất nước với quyền lực trong tay, ngồi trên ngai vàng và ra lệnh, buộc các thần dân phải tuân phục. Có những vị vua không ngai, không lãnh thổ, nhưng làm chủ một lãnh vực kinh tế nào đó trên thế giới. Họ cũng được gọi là vua, như vua dầu lửa (Rockfeller), vua xe hơi (Ford), v.v…

Hôm nay, Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Nhưng chúng ta cần phải xác định xem Ngài là Vua theo nghĩa nào? Vì quả thật Ngài chưa bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng chưa bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.

2. Một phần ba nhân loại tôn Ngài là Vua của tâm hồn mình

Hiện nay trên thế giới, 34,86% nhân loại – tức khoảng 2 tỷ trên 6 tỷ người – là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một cảnh tượng cảm động chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến của Ngài đối với nhân loại. Ngài đã chấp nhận một cái chết thật đau khổ và nhục nhã, giữa sự chế giễu của mọi người, vì yêu thương con người. Và câu cuối cùng của bài Tin Mừng là «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» cho thấy Ngài có khả năng ban hạnh phúc vĩnh cửu cho con người. Ngài có thể ban hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, cho dẫu chúng ta tội lỗi đến đâu, miễn là chúng ta thành tâm sám hối và liên kết chặt chẽ với Ngài.

Tin và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tự nguyện đáp lại bằng tình yêu thương của họ. Thế là cuộc đời họ trở nên hạnh phúc và mang một ý nghĩa cao đẹp vì yêu và biết mình được yêu. Tương tự như một cô gái yếu đuối hèn mọn được một chàng trai cao sang để ý yêu thương, yêu thương đến độ sẵn sàng hy sinh tất cả cho mình, kể cả mạng sống. Thế là cô thấy đời mình hạnh phúc và có ý nghĩa hoàn toàn khác trước. Để đáp lại tình yêu cao cả ấy, cô tự nguyện dâng hiến đời mình cho chàng, làm tất cả những gì chàng muốn để chàng được hạnh phúc. Hạnh phúc lớn nhất của nàng là được biết chàng hạnh phúc, vì chính chàng cũng đối xử như thế với nàng. Chàng trở thành vua lòng nàng, và nàng trở thành hoàng hậu của lòng chàng.

Biết bao Kitô hữu trên đời đã có một tình yêu song phương như thế đối với Đức Giêsu. Đối với họ, Đức Giêsu chính là vị Vua duy nhất của lòng họ, chiếm trọn vẹn trái tim họ. Họ đã hiến trọn cuộc đời mình để phụng sự Ngài nơi những hiện thân cụ thể của Ngài là những người chung quanh họ, những người họ gặp trong cuộc đời, nhất là những người nghèo khổ nhất, bị bỏ rơi hoặc chịu áp bức bất công nhất trên đời.

Với họ, tình yêu đối với Đức Giêsu được biến thành tình yêu đối với tha nhân. Vì Đức Giêsu đã nhiều lần tự đồng hóa Ngài với những người nhỏ bé nhất, đau khổ nhất trên đời (xem Mt 25,40.45; 10,40; 18,5; Lc 10,16). Hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất. Đối với họ, sự phân biệt giữa yêu Đức Giêsu và yêu tha nhân chỉ có trong lý thuyết chứ không có trong thực tế của đời sống. Nghĩa là yêu Đức Giêsu thì tất nhiên phải yêu tha nhân, và yêu tha nhân chính là yêu Đức Giêsu. Họ đã yêu Ngài, và phụng sự Ngài trong tha nhân đến mức sẵn sàng chịu tất cả mọi đau khổ có thể xảy đến, thậm chí hy sinh mạng sống mình (điển hình: gương của 2 linh mục Ba Lan Maximilianô Kôlbê và Jerzy Pôpiêlúskô).

3. Đức Giêsu đã là Vua của bản thân ta chưa?

Nếu phải tranh luận về thần học xem Đức Giêsu có phải là Vua của nhân loại, của vũ trụ không, thì chắc chắn biết bao người trong chúng ta sẽ tỏ ra hăng say nhiệt tình như thể sẵn sàng sống chết để bảo vệ luận điểm ấy. Nhưng nếu phải tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, thì chắc chắn rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời «CHƯA!» Thực tế thật đau lòng: Ngài là Vua của cả vũ trụ, nhưng đời sống và cách hành xử của ta lại chứng tỏ Ngài chưa phải là Vua của chính bản thân ta! Chân lý kia chỉ được ta công nhận trên lý thuyết, chứ không trở thành thực tế trong đời sống. Trong thực tế, vua của tâm hồn ta, thường xuyên ảnh hưởng mạnh mẽ đến những động lực của ta không phải là Ngài, mà là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta!

Nói một cách cụ thể hơn, nhiều khi miệng chúng ta tuyên xưng rất mạnh mẽ rằng Đức Giêsu là Vua của cả vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn nhân loại, đồng thời kết án và tẩy chay những ai tuyên xưng bằng miệng khác với chúng ta, dẫu chỉ là một chút… Nhưng hành động và cách cư xử của chúng ta đối với mọi người lại tuyên xưng rất rõ ràng rằng tiền hay quyền bính mới là Vua của vũ trụ, mới là đấng cứu độ duy nhất của nhân loại! Thế mà chẳng ai kết án ta cả?! Liệu tuyên xưng kiểu ấy có phù hợp với tinh thần Kitô giáo chăng? Dẫu sao, ta có thể chắc chắn một điều là: nó không phù hợp với tinh thần của Đức Giêsu.

Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng hùng hồn kia ấy có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của tổng thống Bush: «Show, but don’t tell!»: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói xuông!

Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài sẽ không thèm hỏi ta đã chấp nhận và tuyên xưng những giáo điều nào, những luận điểm nào, hay đã tuyên xưng Ngài là Vua của cả vũ trụ chưa… Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?

Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là «người khôn ngoan xây nhà trên đá» (Mt 7,24). Nhân dịp này, ta thử xét lại xem cách sống đạo hiện tại của chúng ta là «xây nhà trên đá» hay «trên cát»?

Cầu nguyện

Lạy Cha, từ xưa đến nay, con luôn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của nhân loại, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Nhưng hành động của con, cách cư xử và đời sống của con dường như muốn nói rằng không phải như thế. Xin Cha hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa, để con đủ can đảm sống đúng những điều con tuyên xưng. Con xin bắt đầu việc tuyên xưng Đức Giêsu là Vua từ ngay trong bản thân con, qua chính cách sống và hành động của con, chứ không phải từ bên ngoài và lời nói xuông. Amen.

 

68. Chú giải của Lm Fx. Vũ Phan Long

ĐỨC VUA CŨNG LÀ ĐẤNG CỨU THẾ CHỊU ĐÓNG ĐINH

1.- Ngữ cảnh

Đây là đoạn văn trích từ bài tường thuật của tác giả Luca về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Trong bản văn này, Đức Giêsu đã đến điểm chung kết số phận Người; cuộc "xuất hành" của Người (9,31) đi từ cuộc đời này đã đưa Người đến chặng cuối này. Người đã bị đóng đinh tại nơi gọi là "Cái Sọ" giữa hai tên gian phi (23,33). "Quyền lực tối tăm" (22,53) đã khép lại trên Người. Bây giờ, đến lúc các thủ lãnh và lính Rôma sỉ vả Người. Nhưng cũng trong tình cảnh này, Người được chính thức gọi là "vua dân Do Thái".

Tiếp nối cảnh tang thương này, là một bản văn chỉ có trong TM III: một tên gian phi nhục mạ Người, nhưng tên kia đã mắng lại vì nhận biết sự vô tội của Đức Giêsu và xin Người nhớ đến anh. Đức Giêsu đã ban một lời hứa thật đẹp.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (23,35-38);

2) Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu (23,39-43).

3.- Vài điểm chú giải

- Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (35): Theo thói quen của ngài, tác giả Lc không trích nguyên văn bản văn Kinh Thánh, nhưng bản văn thánh vẫn bàng bạc trong bài tường thuật. Ở c. 35 này, chúng ta có thể nhận ra Tv 22,8 LXX ("Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai" [Bd CGKPV]): "Hễ thấy (theôrountes) tôi là họ nhạo cười (exemyktêrisan), họ trề môi, họ lắc đầu" (NTT), vì Lc 23,35 dùng lại hai động từ này: "Dân chúng đứng nhìn (theôrôn), còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (exemyktêrizon)". Bằng cách này, tác giả cho thấy là quang cảnh này lại hoàn tất Kinh Thánh cách bí nhiệm.

- Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Chúa tuyển chọn (35): "Đấng Kitô của Thiên Chúa" là danh hiệu vương giả; "người được Chúa tuyển chọn" là danh hiệu của Đấng Mêsia.

- đưa giấm cho Người uống (36): Oxos (do tính từ oxys, "cay") được dùng trong vùng đông Địa Trung Hải thời cổ. Đây là một thứ rượu chua, hoặc cay, khác với oinos là rượu ngọt. Ta không rõ vì sao người ta lại cho Đức Giêsu uống thứ rượu này, chỉ biết là Lc đã bỏ đi thứ "rượu pha mộc dược" nhằm giảm đau (esmyrnismenon oinon) trong Mt 15,23.

- Nếu ông là vua dân Do Thái (37): Câu này gợi ý tới lời quan Philatô hỏi Đức Giêsu (23,3) cũng như tới tấm biển ghi bản án trên thập giá (23,38).

- Chúng ta chịu như thế này là đích đáng (41): Tên gian phi thứ hai nhìn nhận tội mình, và như thế là mặc nhiên diễn tả tâm tình metanoia (hoán cải) trước nhan Thiên Chúa.

- hôm nay, anh sẽ được ở với tôi (43): "Hôm nay" đây không phải là "ngày đóng đinh theo lịch", nhưng là ngày "ơn cứu độ thiên sai được ban", đặc biệt nhờ cái chết của Đức Giêsu.

- thiên đàng (43): Danh từ Hy Lạp paradeisos lấy từ tiếng Ba Tư cổ (pairidaêza) được dùng ba lần trong Kinh Thánh với nghĩa là một khu vườn có cây cối (Dc 4,13; Nkm 2,8; Gv 2,5). Bản LXX đã dịch "khu vườn" ở Êđen là paradeisos (St 2,8.9.210.15.16; 3,1…). Người Do Thái diễn tả thế giới bên kia bằng những công thức liên hệ đến không gian: "sheol" hoặc nơi cư ngụ của tất cả những người đã chết, "lòng Abraham" hoặc "thiên đàng", là nơi mà những người công chính quây quần quanh các tổ phụ mà chờ đợi được nhận vinh quang trọn vẹn vào lúc tận thế.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Vào lúc Đức Giêsu chào đời, thần sứ Chúa đã loan báo: "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa" (Lc 2,11). Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện, Đức Giêsu đã có một nhiệm vụ lớn lao. Ngay từ đầu, câu hỏi này đã được nêu ra: Đức Giêsu sẽ thực hiện nhiệm vụ này như thế nào? Người có ở ngang tầm với mọi tình cảnh bần khốn của con người chăng? Phải chăng Người là Đức Kitô, là Đức Vua vĩnh viễn được Thiên Chúa sai phái đến, để đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn?

Câu hỏi này được đặt ra hết sức trầm trọng sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, không phải là đặt ra trên bàn giấy, trong cuộc tranh luận, nhưng được ném ra cho Đức Giêsu đang ở trên thập giá, giữa hai tên gian phi. Toàn bản văn được đặt dưới dấu chỉ là "đức vua", có khi là đối tượng cho người ta mỉa mai (cc. 35-39), có khi là đối tượng cho người ta tin tưởng để rồi được ban thưởng (cc. 40-43).

* Dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (35-38)

Trước tiên, có đoàn dân chúng. Họ có vẻ không hiểu những gì đang xảy ra. Rất có thể họ đang tự hỏi làm thế nào mà con người đã không kháng cư lại cái chết lại có thể là đức vua bao đời mong đợi và nếu Người là vị vua ấy, tại sao Thiên Chúa không cứu Người? Chúng ta biết tác giả Lc vẫn có thiện cảm với những người nghèo nhất, những người cùng rốt. Ngài cho thấy dân chúng đứng lặng thinh và cho biết rằng họ không chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Một vài câu sau, ngài sẽ nhận xét: "Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48). Những con người này có thể đại diện cho tất cả những người có thiện chí đang muốn hiểu được chương trình của Thiên Chúa, nhưng không thể được, vì những người có thể soi sáng cho họ đều mù quáng và không ý thức về điều dữ họ đang làm.

Dưới chân thập giá, cũng có các nhà lãnh đạo, các đối thủ của Đức Giêsu, những người chịu trách nhiệm về cái chết của Người. Bây giờ họ chỉ còn có thể chế nhạo Người về biết bao tự phụ và điên rồ mà Người đã chứng tỏ trước đây thôi. Một kẻ đã bị buộc phải đi đến thập giá và bị người ta làm cho mình tất cả những gì mình không muốn, có thể nào lại là Đức Vua Cứu thế được Thiên Chúa gửi đến? Đáng giá gì một Đức Kitô mà đến việc cứu chính mình khỏi chết cũng không làm nổi? Nếu ý đồ của hắn ta là thật, hắn chỉ việc chứng minh ngay bây giờ đi!

Câu nói chế nhạo sau đây trở đi trở lại như một điệp khúc: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi"; "Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy chứng tỏ sức mạnh của mình đi!". Các lời này, các thủ lãnh nói ra để sỉ vả Người. Thật ra, khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã bị Satan cám dỗ như thế (4,3), rồi tại Nadarét, Người cũng đã bị yêu cầu như vậy (4,23); nay là tại chặng chót của hành trình trần thế.

Còn một nhóm thứ ba có mặt là toán lính. Họ cũng là những người nghèo, nên vì một ít tiền bạc, có thể dùng vũ lực để áp đảo những người có lối ăn nói, thói tục và tôn giáo khác họ. Họ có tội, nhưng họ cũng là nạn nhân của sự điên rồ của các sĩ quan của họ; họ phải vâng lệnh. Họ đóng kịch như dâng rượu lên đức vua, để chế nhạo Người. Ngay cả tấm biển ghi bản án, "Đây là vua dân Do Thái", thật ra là một cái nhãn hiệu đầy mỉa mai do quan Philatô tạo ra (x. Ga 19,15.19.22). Tên gian phi thứ nhất cũng yêu cầu được cứu với giọng cay độc. Thập giá đặt một dấu chấm hỏi to lớn trên tất cả công trình trước đây của Đức Giêsu. Thập giá dường như đã bác bỏ cao vọng của Người. Một con người đã bị đóng cứng trên thập giá và sắp chết thì còn có thể giúp đỡ ai? Trong bầu khí đen tối này, chi tiết: "Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48), là chi tiết đầy an ủi và hy vọng.

Trước tất cả những lời sỉ nhục và thách thức đó, Đức Giêsu không trả lời một tiếng nào.

* Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu (39-43)

Một tên gian phi cũng cùng với tập thể kia hòa lời mỉa mai sỉ nhục Đức Giêsu. Thế nhưng tên gian phi thứ hai lại trách bạn mình. Anh nhìn nhận tội lỗi mình và nhìn nhận cái chết thập giá dành cho mình là xứng đáng, nhưng anh tuyên bố Đức Giêsu vô tội. Chẳng những thế, anh còn công nhận rằng con người bị đóng đinh và bị chế giễu này, con người không xuống khỏi thập giá dù bị thách thức, chính là Đức Vua Cứu thế. Anh đã diễn tả lòng tin vào Đức Giêsu như Đấng Mêsia vương giả bằng lời thỉnh cầu: "Khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi"; lòng tin này được bày tỏ với một tình yêu đặc biệt qua lời kêu cầu rất thân thương: "Giêsu ơi!". Anh ta không xin Đức Giêsu cứu cho khỏi chết, vì anh chấp nhận cái chết như là hình phạt đích đáng. Nhưng anh xác tín rằng Đức Giêsu không chấm dứt cuộc đời với cái chết, mà qua cái chết, Người sẽ đi vào trong vương quốc Người. Anh tin rằng Đức Giêsu cứu người ta không phải chỉ là khỏi cái chết, nhưng là đưa sang bên kia cái chết. Như thế, câu viết trên bản án đầy vẻ bôi bác, "Đây là vua dân Do Thái", lại đạt được nội dung đích thực: Đức Giêsu đúng là Vua Cứu thế; Người đi vào vương quốc của Người và đưa vào đó tất cả những ai tín thác nơi Người.

Với anh gian phi này, Đức Giêsu trả lời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng". Qua câu nói này, Người cho hiểu rằng, với cái chết, Người sẽ đi vào trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa; nhưng cũng cho hiểu rằng chính Người quyết định ai sẽ vào đó với Người: chính Người bố trí để đưa người ta đi vào hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.

+ Kết luận

Tất cả những điều xảy ra trên Núi Sọ hôm ấy có thể được nhìn theo theo nhiều quan điểm: đối với các thủ lãnh, đây là một thành công vì họ đã trừ khử được một kẻ lâu nay cứ ngáng đường họ. Đối với dân chúng, dường như họ còn chờ đợi để hiểu rõ biến cố này hơn. Nhưng đối với tác giả Lc khi suy gẫm về câu chuyện này, thì đây là chương trình của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh nay đã hoàn tất.

Ngoài ra, tư cách "Vua" của Đức Giêsu, điều mà các thủ lãnh và lính tráng đưa ra làm trò cười bởi vì họ chỉ đầy ứ sự căm hờn và mỉa mai, lại đã được khẳng định tích cực khi người gian phi thứ hai lấy đức tin nhìn nhận Người và được Người hứa cho vào thiên đàng, "Nước của Ngài". Cho đến chết, Người vẫn là Đấng cứu độ những người tội lỗi.

Chúng ta ghi nhận trong mỗi phân đoạn có một cảnh đối lập:

- Trong phân đoạn 1: Trong khi dân chúng đứng nhìn (rồi họ sẽ hoán cải: c. 38), các thủ lãnh và lính tráng lại chế giễu Đức Giêsu;

- Trong phân đoạn 2: Trong khi tên gian phi thứ nhất nhục mạ Người, tên gian phi thứ hai lại tin tưởng trao phó cuộc đời cho Người.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Ra sức làm một hành vi vĩ đại, thì đã chứng tỏ mình đáng được nể trọng. Nhưng im lặng thản nhiên, khi bị người ta khinh bỉ, sỉ nhục, bôi nhọ, thì càng chứng tỏ mình có tâm hồn cao thượng và đáng nể trọng hơn. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế, nhất là khi Người lại là chính Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, và các kẻ đang nhao nhao sỉ nhục Người chỉ là những thọ tạo của Người. Đấy là bài học cho các Kitô hữu mỗi khi cảm thấy mình không được tôn trọng đủ.

2. Bản văn nói lên sự mỉa mai của loài người trước Đức Giêsu bị đóng đinh, nhưng cũng cho thấy có sự mỉa mai của Thiên Chúa đối với sự "khôn ngoan ranh mãnh" của người đời: Chính khi họ tưởng họ thắng được Thiên Chúa thì họ lại thua vĩnh viễn; chính khi công trình cứu độ có vẻ thất bại, thì lại thành công mỹ mãn.

3. TM Luca ghi lại biết bao người đã tin tưởng đến với Đức Giêsu và đã trải nghiệm sự giúp đỡ và ơn cứu độ của Người. Người thường bảo họ: "Đức tin của con đã cứu con" (7,50; 8,48; 17,19; 18,42). Cũng như người phụ nữ tội lỗi và như Dakêu, có những người đã đến với Người từ tình trạng bị đẩy ra bên lề và đã được Người ban ơn hoán cải và ơn cứu độ. Anh gian phi hoán cải là kết tinh của công trình cứu chữa này. Anh ở trong tình trạng bị loại trừ tuyệt đối, anh nhìn nhận mình đáng phải chết đóng đinh, nhưng anh cũng xứng đáng được Đức Giêsu áp dụng câu nói: "Đức tin của anh đã cứu anh". Anh đã tin vào Đức Giêsu, một con người bị đóng đinh như anh. Do đó, anh đã được ban cho ơn cứu độ toàn vẹn.

4. Đức Giêsu chịu đóng đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức Vua Cứu thế sẽ đảm bảo cho họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính mình khỏi chết, thì Người cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái chết. Quyền lực của Người không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng ta, nhưng nhắm đến đời sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông với Thiên Chúa, và biết nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù người ấy đến với Người như một tên gian phi.

 

69. Chú giải của Noel Quesson.

Lễ Đức Kitô Vua là một ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925. Những canh tân phụng vụ thời nào cũng có. Thật vậy, việc cử hành thật sự vương quyền của Đức Giêsu là ngày lễ Thăng Thiên: Nhưng, trong Chúa nhật cuối cùng này của năm phụng vụ, chúng ta chiêm niệm "Triều đại của Thiên Chúa" đến từ từ xuyên qua, lịch sử và đạt đến sự thực hiện viên mãn vào thời cách chung.

Để mừng lễ Đức Kitô Vua chúng ta, một cách rất nghịch lý, Giáo Hội đưa ra cho chúng ta cảnh tượng mà Đức Giêsu khai mạc triều đại của Người: ngai vàng của Người là thập giá. Vương miện Người là một vòng gai làm đổ máu khuôn mặt Người... lễ phong vương của Người là một “danh hiệu" của việc kết án tử được đóng đinh bên trên đầu Người. “Đây là vua dân Do Thái! Hai chứng nhân, hai nam tước của Người, là hai tên gian phi bị kết án với Người.

Nghịch lý cao cả của Tin Mừng! Vua ư? Phải! Nhưng chắc chắn không như cách hiểu của những người hoặc muốn đứng về phe Người để hoan hô tôn phong Người hoặc là những đối thủ của Người để lên án Người. Vua "theo cách của Thiên Chúa"!

Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. Dân chúng đứng nhìn.

Vậy đây là đinh điểm!

Đó là "đỉnh núi" của Tin Mừng. Sau "Núi Bát Phúc" nơi Đức Giêsu lần đầu tiên công bố sứ điệp của Người... sau "Núi Ta-bo" nơi Đức Giêsu biến hình và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: "Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!". Đây là đỉnh điểm thứ ba và cao siêu của Tin Mừng. Ở cổng vào thành phố Giê-ru-sa-lem và gần cổng Ép-ra-im, trong một nơi khai thác đá cũ những thợ khai thác đá còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là "Golgotha", từ này có nghĩa là cái sọ (tiếng Hy-lạp là Kranion; tiếng La-tinh là Calvanô) vì hình dạng của tảng đá. Một truyền thuyết lâu đời cho rằng đó là cái sọ của A-đam được chôn cất mãi mãi ở đó! Đỉnh núi ấy của Tin Mừng là một ngọn "núi trọc", một ngọn núi “cô độc". Một nơi buồn thảm: một miếng đất nhỏ xíu, cao hơn mặt đất dùng để đặt giá treo cổ những tử tội, gần con đường có nhiều người đi qua, để mọi người có thể nhìn thấy các tội nhân bị hành hình và lấy đó mà làm gương!

Thật vậy đám đông đang ở đó... và nhìn... ao ước nhìn! Ở đây, Luca dùng một từ rất có ý nghĩa: Ngài không dùng từ "đám đông", nhưng dùng từ "dân chúng" (tiếng Hy-lạp là saos), một từ thường dùng để chỉ "dân Thiên Chúa". Cũng từ ấy dùng để nói "toàn dân say mê nghe Người giảng dạy trong Đền Thờ" (Lc 19,48) trong lúc mà các thượng tế và kinh sư cả các thân hào trong dân tìm cách giết Người (Lc 19,47). Luca thường ghi nhận rằng đối với Đức Giêsu, "dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1 -20,45 - 21,38)

“Và dân chúng đứng nhìn" như biến cố làm họ chán ngán. Sự im lặng của dân chúng rất ấn tượng. Dân chúng Israel hiền lành không còn hiểu gì cả. Họ đã chờ đợi Đấng Mêsia như một "ông vua", một vua Đa-vít mới. Trong lịch sử của họ, vương quyền không kéo dài được bao lâu và các ông vua của họ, không phải thiếu nhưng không có được tầm cỡ của vua Đavít và Salômôn; nhưng đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Mêsia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù làm vị thẩm phân của Thiên Chúa. Vâng họ cứ ngỡ rằng Đức Giêsu đến để "phục hưng vương quyền của Israel". Họ đã thử tôn Người lên làm vua": Người lại tránh né (Ga 6,15; Lc 19,38). Và giờ đây, Người kia kìa, bị kết án tử hình! Còn dân chúng đứng nhìn.

Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!"

Khác với những người dân đen đang đứng nhìn, đã hẳn, ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh cười nhạo và buông lời thách thức. Thách đố của họ là Đức Giêsu hãy tỏ vương quyền của Người là Đấng Mêsia. Đấng được Thiên Chúa xức dầu là một danh hiệu vương đế bởi vì các vua Israel được gọi như thế, và quả thực đã “thánh hiến" bởi dầu thánh, (Chrême) làm họ trở thành những Đức Kitô (tiếng Hy-lạp Christos dịch từ tiếng Mêsia trong tiếng Do Thái). Nếu Đức Giêsu là Đức Kitô, Đấng được tuyển chọn (từ này lấy trong sách Isai-a 42,1) nếu Người là Cứu Chúa của thế gian trước tiên Người phải tự cứu lấy mình.

Những lời gào la chế nhạo ấy là tiếng vang của những lời ma quỷ cám dỗ trong sa mạc lúc Đức Giêsu bắt đầu đời sống công khai của Người (Lc 4,3); cũng là tiếng vang của những lời chê trách mà các người đồng hương Nagiarét đã nói với Người: "Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình" (Lc 4,23) Trong thế giới hiện đại của chúng ta, "những kẻ thế thạo Thiên Chúa" không còn lớn tiếng như thế, nhưng chẳng phải vẫn luôn có cùng một vấn đề, cùng một lời khinh chê: "Thiên Chúa phải tỏ mình ra đi, cho người ta thấy! Phải hiện ra đi, nếu Người hiện diện! Và câu trả lời của Thiên Chúa vẫn luôn là câu trả lời của Đức Giêsu: Người im lặng và không can thiệp vào bình diện các sự vật trần thế mà Người để chúng tồn tại hoàn toàn tự lập. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực và không hiện hữu. Đức Giêsu, cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ để "hành động vì mình", sử dụng sự Toàn Năng của mình chỉ vì chính mình.

Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!"

Đó là những binh sĩ La Mã, những dân ngoại trong đoàn quân xâm lăng; họ dùng từ “vua" mà họ nhìn thấy ghi phía trên đầu Người. Một sự chế giễu cao siêu lại một lần nữa nhắm vào kẻ bị loại trừ đó, bị treo trên thập giá... thở khò khè chờ tắt thở!

Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do thái”.

Nghi lễ lên ngôi của các ông vua bao gồm một bản phong vương: một Thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua "danh hiệu” của vua, như người ta thấy trong Thánh Vịnh 109: "Ngày đăng quang con nắm tuyển thủ lĩnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh con".

Ở đây bên trên "ngai vàng" ứng biến là thập giá, bản án dùng làm bản phong vương, giống như Lời của Chúa Cha tấn phong Con Người trên sông Giođan ngày Người chịu phép rửa: "Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con" (Lc 3,22). Trong Tin Mừng thánh Luca, bản án trên thập giá không được trình bày như một "lời lên án". Đức Giêsu đã được giới thiệu như một ông vua, nhưng "Nước Người không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Trong một sứ vụ của Người, Người đã hết sức cẩn thận không cho người ta giải thích sứ vụ của Người theo nghĩa chính trị. Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế nhưng không cạnh tranh với "các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế". Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của chủ nghĩa Đấng Mêsia vua dân Israel.

Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"

Câu chuyện của Luca được xây dựng theo kiểu bi kịch, trong sự căng thẳng tăng lên dần: dân chúng đứng "nhìn", các thủ lãnh "cười nhạo”, lính tráng "chế giễu”, những tên gian phi "nhục mạ".

Luật của Môsê đòi phải có "hai chứng nhân" để mọi hành động trở thành hợp pháp. Như thế, các chứng nhân của việc tôn phong Chúa: Biến hình là hai nhân vật chính của Cựu ước. Môsê và Êlia (Lc 9, 28.36). Hai chứng nhân của sự sống lại sẽ là hai người lữ hành dễ thương và bí hiểm trên đường trở về Emmau (Lc 24,18), trước đó ít lâu là hai chứng nhân không kém huyền bí của Ngôi Mộ trống (Lc 24,4). Nhưng ở đây, hai chứng nhân cho sự lên ngôi ở Núi Sọ chỉ là hai tên cướp tầm thường. Đức Giêsu, vị vua bị nhạo báng đến cùng!

Đức Giêsu, vị vua của ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một vị vua bị bóp méo xuyên tạc mà người ta ngần ngại chỉ ra như một người bị nhạo báng, trần truồng, bị khạc nhổ và đầy những vết thương đẫm máu, hai bên có hai tên gian phi.

Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!"

Trong tiếng ồn ào của sự khinh bỉ chung, đây là một tiếng nói yếu ớt và nghèo nàn dám nói chen vào. Chính Đức Maria ở dưới chân thập giá đã nghe được và đã thuật lại cho Luca, là người duy nhất đã kể lại cho chúng ta. Luca vị thánh sử của lòng "nhân hậu” và của những "người nghèo hèn" đã phải vui mừng đặc biệt về việc này. Triều Đại của Đức Ki tô, Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho những người "hối cải". Đối với Đức Kitô, cách thực thi vương quyền của Người trên mọi người, kể cả những kẻ thù của Người, chính là ban cho họ ơn tha thứ (Lc 23, 34.43); một sự tha thứ không hạn chế? Để vào được Nước Chúa, không cần điều lớn lao là "công chính". Người tội lỗi cũng có chỗ trong Nước Chúa với một điều kiện duy nhất: đón nhận ơn tha thứ mà Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta. Người đầu tiên sống sự hòa giải hoàn vũ này là một "kẻ cắp", kẻ đã biết nhận ra tội lỗi của mình và đồng thời công bố sự vô tội của Đức Giêsu.

Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."

Đức Giêsu đúng là “Ađam mới", giúp nhân loại về lại địa đàng đã mất. Chia sẻ "cùng một nỗi khổ cực như Đức Giêsu, chết, đó là bắt đầu "sống với Đức Giêsu”.

 

70. Chú giải của Fiches Dominicales.

TRÊN THẬP GIÁ, KHI BAN ƠN THA THỨ CHO MỘT NGƯỜI BẠN CÙNG CHỊU KHỔ HÌNH VỚI MÌNH.

ĐỨC GIÊSU KHAI TRƯƠNG TRIỀU ĐẠI CỦA NGƯỜI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Những lời nhục mạ mang hình thức bộ ba cám dỗ:

Khi đến nơi gọi là "Đồi sọ", hay đồi Canvê, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, cùng lúc vởi hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái". Người vừa mới xin ơn tha thứ cho những tên lính có nhiệm vụ hành quyết Người, và họ cũng đã chia nhau xong những tấm áo của Người.

Đang lúc dân chúng đứng "nhìn" thì "những lời nhục mạ" hai chi tiết này cùng ứng nghiệm lời Thánh Vịnh 21 – được "xổ” ra từ phía các thủ lãnh Do Thái, binh lính và một tên gian phi. Những lời nhục mạ của họ mang hình thức một bộ ba cám dỗ như dư âm của những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã chiến thắng hồi Người mởi bắt đầu thi hành sứ vụ. Thời ‘Lc 4,13’ cho cuộc chiến đấu cuối cùng nay đã tới.

Các "thủ lãnh" Do Thái diễn đạt tư tưởng cùng một kiểu như quỷ sa tan đã dùng xưa khi cám dỗ Chúa ở trong hoang địa: "Hắn hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn"; hắn hãy dùng quyền mình có mà mưu ích cho mình đi!

"Lính tráng" cũng dựa vào bản án xử tội gắn trên đầu người mà chế giễu Người rằng: "Nếu ông, là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!".

Sau cùng, "một trong hai tên gian phi" lặp lại cùng một điệp khúc, tiếp thêm mấy lời là cứu cả chúng tôi với. Nếu Đức Giêsu yên lặng từ chối cho mình hưởng ơn cứu độ theo đúng nghĩa là ơn giải thoát, liệu người có thể từ chối cứu thoát kẻ khác chăng, bởi lẽ Người "chỉ có thể tỏ mình là Đức Kitô thực sự khi thực thi quyền năng của mình để cứu thoát người ta" (cf. Dupont).

2. Ơn tha thứ vương giả của một kẻ bị đóng đinh:

Thế rồi, xen giữa những lời phỉ báng nhạo cười, thì một tiếng nói khác cất lên, khác vởi các tiếng nói kia, tiếng nói của một tên gian phi khác.

Anh chính là điển hình cho con người hối cải, con người khốn khổ biết nhìn nhận mình có tội và chịu nhận hình phạt. Anh trả lời người bạn nhục mạ Chúa Giêsu: "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm". Cùng lúc ấy anh tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội: "Ông này đâu có làm điều gì trái". Hơn nữa, đang khi mọi người chế giễu tư cách là Đấng Mêsia và là Vua của Người, thì chính anh lại lên tiếng tuyên xưng niềm tin vào ông Giêsu này là Đấng Mêsia vua, mà vẫn nghĩ rằng quyền cứu thoát của Người sẽ chỉ được tỏ ra vào lúc tận cùng thời gian: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi".

Đáp lời anh thỉnh nguyện, Chúa Giêsu long trọng loan báo cho anh ơn giải thoát: "Tôi bảo thật anh...". Và ơn giải thoát Chúa báo cho anh đây, không phải chỉ xảy ra vào cuối thời gian, mà diễn ra ngay "hôm nay": "Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Thiên đàng theo truyền thống Do Thái là nơi tượng trưng bằng cây sự sống mà tất cả những ai sau khi chết được Chúa xét là công chính sẽ được hưởng.

Thiên đàng ấy anh sắp được biết nó rồi, và cốt lõi của nơi hạnh phúc và được sống mãi ấy, chính là được "ở với Người" là Đức Giêsu. J. Dupont kết luận: "Như thế, Đức Giêsu đã trả lời thách thức là coi khinh tất cả những gì mà người ta đã nhục mạ Người trước đó; Người đã cứu thoát một tên gian phi, một con người, không phải bằng cách cứu cho anh khỏi cái chết đời này, nhưng làm cho anh biết dùng cuộc sống này như bước vượt qua tiến đến sự sống thật và hạnh phúc thật ".

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Trên thập giá, tình thương mạnh hơn hận thù.

(“Missel Emmaus", trg 1l58).

Cuộc đời Đức Kitô được hoàn tất trên thập giá. Vì thế một vấn đề căn bản được đặt ra, vấn đề tách biệt ai là kẻ tin và ai là người không tin.

Cuộc đời Người là một thất bại ư? Ngay cả một số người vốn ngưỡng mộ Người cũng nghĩ như thế. Đối với họ, Đức Giêsu là một người có một nhân cách tuyệt vời đấy. Nhưng Người đã sống trên một giấc mơ đã sụp đổ. Bất công đã chiến thắng và vẫn tiếp tục chiến thăng trong thế giới của ta đây. Rất tiếc nhưng đó là một thực tế.

Cũng là thất bại, dưới con mắt của những kẻ chống đối Người. Nhung con người này tỏ ra vui mừng, nhân danh lạc thú của họ, hoặc nhân danh Lề Luật là cả chính tôn giáo nữa.

Thế mà kìa, anh chàng bị đóng đinh bên cạnh Đức Giêsu, một tên cướp, lại đang mở to mắt, ngỡ ngàng: ông này là ai vậy, mà phải chết như thế này? Nơi anh đang diễn ra cảnh đảo lộn cả một khung trời anh đang sống. Với con người như thế, Đức Giêsu, mặc dầu đang hấp hối lại dám hứa rằng: "Hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng". Ảo tưởng hết chỗ nói chăng? Hay là vén màn lên cho thấy một thực tại không thể ngờ được?

Đối với người có lòng tin, thì đây chính là thời điểm quang vinh. Tình thương đã chứng tỏ mạnh hơn hận thù. Triều đại của Đức Giêsu bắt đầu.

Phục vụ Đức Kitô-vua, chẳng có sức mạnh nào cưỡng ép được nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương. Quyền lực của Người tuy là vô biên, nhưng lây lan dần nhờ những đốm lửa nhỏ của Tình yêu.

2. "Một sự đảo ngược tình thế lạ thường"

Đức Giêsu bị ngay cả những người cùng chịu khổ hình với mình khinh chê, nhục mạ, sỉ nhục đến thế là cùng. Thế nhưng, giờ đây lại xảy ra một sự đảo ngược tình thế lạ lùng: một trong hai tên gian phi từ chối hùa theo những lời xúc phạm mà tên kia tuôn ra; anh thú nhận cả hai đều có tội, nhìn nhận Đức Giêsu vô tội, rồi diễn tả lòng tin của anh bằng lời thỉnh cầu khiêm tốn. Đức Giêsu đáp lại lòng tin này bằng cách báo cho anh biết anh sẽ được như lời thỉnh cầu ngay lúc ấy: "Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng" (23,43).

Chính bằng cách đó, Luca đã chứng thực hiệu quả hy lễ của Đức Giêsu: thập giá Đức Giêsu biến đổi thế giới, khi làm nẩy sinh ơn sám hối nơi các tâm hồn và mở cửa thiên đàng cho họ. Cùng vởi người trộm lành, chính mỗi người chúng ta phải coi mình như được mời gọi gẫm suy cho kỹ những đau khổ của Đức Giêsu và tự vấn lương tâm: "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng... chứ ông này, đâu có làm điều gì trái" (23,41).

Vừa khơi dậy lòng sám hối thập giá Đức Kitô còn làm nẩy sinh sự đổi mới lạ lùng với lòng tin cậy của trẻ thơ: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi" (23,42). Và câu trả lời của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng lòng tin tưởng của trẻ thơ kia hoàn toàn có cơ sở Đấng Chịu-đóng-đinh đang mở toang mọi cánh cửa của lòng thương xót (cf. Lc 6,36; 18,9-14): Người thực hiện điều mà tên gian phi thứ nhất kia đã thách thức Người làm, nhưng ở một bình diện hoàn toàn khác, bình diện thiêng liêng, nơi tâm hồn: "Ông hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với" (23,39).

 

home Mục lục Lưu trữ