Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 83

Tổng truy cập: 1446207

CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN

Các môn đệ đầu tiên

(Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)

1/ Ngữ cảnh

Trong Tin Mừng IV, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái khung gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.

- hai ngày đầu: Gioan làm chứng (phủ định – khẳng định);

- ngày thứ ba (“hôm sau”, Ga 1,35): lần này Gioan giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);

- đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;

- ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Nathanaen;

- “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tại Cana miền Galilê.

Các mốc về thời gian này có một ý nghĩa mà chúng ta cần nắm vững, để hiểu được bản văn. Chúng ta sẽ phân tích các nghĩa này trong truyện Tiệc cưới Cana (2,1-12).

2/ Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1/ Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);

2/ Anrê (1,40-42a);

3/ Simôn (1,42b).

3/ Vài ghi chú về chú giải

- Ông Gioan đang đứng… (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tiền Hô (x. Mc2,18t; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (c. 41); còn người thứ hai thì vô danh.

Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:

* Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.

* TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Nathanaen.

* Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tiền Hô, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Gioan bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.

* Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ; thật ra bản văn Mc là một bản tóm về thần học ơn gọi. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tiền Hô.

- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Gioan còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga 14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.

- Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong ngôn ngữ Hy Lạp của Bản LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Kn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Hípri, “tìm” là darash; darash hattorah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.

- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? (38): Rabbi là danh xưng tôn kính để gọi các kinh sư.

- Thầy ở đâu? (38): Trên môi các môn đệ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).

- Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là:blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. TrongGa 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.

Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức độ sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).

- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: theo các TMNL, đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quý và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).

- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn củaCựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, “ngày” là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.

- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.

- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia”Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Nathanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.

- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ Aram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c. 38) và Mêsia (c. 41), kêpha là từ Aram; điều này khiến chúng ta lưu ý là có ba từ Aram trong cùng một đoạn văn. Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ngài cũng rất quen thuộc các thuật ngữ Aram. Bản RSVdịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vậy anh là Simôn con ông Gioan à?”. Thật ra, bản văn không gợi ý một câu hỏi. Còn việc Đức Giêsu đặt tên cho Simôn thì chúng ta hiểu: Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Dn 1,7); các người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc1,63).

4/ Ý nghĩa của bản văn

* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)

Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).

Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’” (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Người thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại Người đề cập đến (x. Ga 20,19-23).

Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời xa ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.

Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.

Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người làrabbi, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Rất có thể chi tiết này gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là rabbi. “Thưa rabbi”. Rabbi là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là Rabbi.Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.

Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữrabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).

Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong hy-ngữ, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là rabbi. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL(x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.

Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.

Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể TM(Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?

Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa rabbi (Ga 1,38), nhưng danh hiệu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.

Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (Ga: 40 lần; truyền thống Gioan 28 lần (1 Ga: 24x; 2 Ga: 3x;Kh: 1x)[2].

Động từ này được TM Ga dùng theo các nghĩa sau[3]: (1) Nghĩa thông thường: “Ở lại” hoặc “sống” tại một nơi nào đó (1,39; 2,12; 4,40; 12,24). Thường, ý nghĩa địa dư này chuyển sang nghĩa thần học; (2) Nghĩa thần học: “Ở lại” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Người (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3). Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga15,4.5.7). Ý nghĩa tối hậu của bí tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56). Đây là một tình trạng cánh chung mà mọi tín hữu có thể sống ngay lúc này, nếu tuân giữ giới răn yêu thương (Ga 15,10; x. 1 Ga 4,12.16).

Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả Rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.

Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menơ) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.

* Anrê (40-42a)

Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trongGa 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Hội Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29);Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.

Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2;Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.

Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái mô hình đơn giản (pattern) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.

Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho anh. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia (messian)”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Hípri (mashiah) ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô (christos)”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.

Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như mộtrabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).

Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.

Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IVrút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.

* Simôn (42b)

Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.

Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Người.

Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Người nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.

Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của chương 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên Aram mới Kepha’ thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Hội Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.

+ Kết luận

Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.

5/ Gợi ý suy niệm

1/ Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tiền Hô. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.

2/ Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.

3/ Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động không? Nếu không, vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?

4/ Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?

[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.

[2] X. MORGENTHALER, Statistik, 119, và R. E. BROWN, John I, 510. Các tác phẩm Tân Ước khác: TMNL: 12x [Mt 3x; Mc 2x; Lc 7x]; Cv: 13x; Phaolô: 17x (Rm 1x; 1 Cr 8x; 2 Cr 3x;Pl 1x; 1 Tm 1x; 2 Tm 3x); Dt: 6x; 1 Pr: 2x.

[3] Có thể đọc những gợi ý phong phú về ý nghĩa của menô trong LÊ MINH THÔNG, Tình yêu và tình bạn, 65-78.

 

59. Chú giải của Noel Quesson

Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình...

Như ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng của Gioan mở đầu sứ vụ của Đức Giêsu bằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan. Những, như những Thánh sử khác, và còn hơn thế, Gioan khởi đi từ sự kiện lịch sử này (xảy ra khoảng năm 27) để cho chúng ta một suy tư thần học (mà ngài có thời gian nghiền ngẫm đến chín muồi đến khoảng năm 95 lúc biên soạn).

Gioan không mô tả "phép rửa" của Đức Giêsu, ngài chỉ dùng một từ để gợi ra ý đó." Gioan không nói rộng việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả kêu gọi hoán cải. Sau phần lời tựa (Ga 1,1-18) là một thứ thi ca về Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, Gioan "xây dựng" một thứ "tuần lễ đầu tiên" của Đức Giêsu, nhắc lại tuần lễ cao trọng đầu tiên của việc Sáng Thế: ngày đầu tiên (Ga 1,19): chứng từ tiêu cực của Gioan Tẩy Giả: tôi không Phải là Đấng Kitô... nhưng kìa người đến ở giữa các ông". ngày thứ hai (Ga 1,29): chứng từ tích cực của Gioan Tẩy Giả đây là một đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay. Ngày thứ ba (Ga 1,35): theo sự chỉ dần của Gioan Tẩy Giả, bốn môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu. Ngày thứ tư (Ga 1,43): ơn gọi của Philípphê. Và của Na-tha-na-en. Ngày thứ bảy (Ga 2,1): "Ba ngày sau những cảnh diễn ra ở bờ ông Giođan gần với Gioan Tẩy Giả, có tiệc cưới ở Cana miền Galilê và Mẹ Đức Giêsu cũng ở đó, và Đức Giêsu cũng được mời các môn đệ" "Dấu chỉ" đầu tiên!

Trong suốt tuần lễ khai mạc này, và chắc chắn không phải bởi sự ngẫu nhiên, Gioan tích lũy những "tước hiệu” thần học mà những Tin Mừng khác tiết lộ tuần tự sau này.

Qua lởi tựa, Gioan đã tức khắc kéo chúng ta lên đỉnh cao. Đức Giêsu là "Ngôi Lời đã trở thành người phàm" (Ga 1,1-2-14) "Ánh sáng của thế gian” (Ga 1,4-9) "Con Một của Thiên Chúa Cha mà không một ai đã thấy bao giờ” (Ga 1,14-18) "Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,29-36) “Đấng có trước" (Ga 1,15-30) "Con của Thiên Chúa có Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người" (Ga 1, 32.33.34) “Thầy hay Rápbi” (Gioan 1,38-49) "Đấng Mêsia hay Kitô" (Ga 1,41) "Đức Giêsu Nagiarét con ông Giuse" (Ga 1,45) "Đấng mà Luật pháp vàcác Ngôn sứ đã nói" (Ga 1,45) "Con Thiên Chúa và Vua Israel" (Ga 1,49); và sau hết là Con Người (Ga 1,51). Bản văn rữc rỡ này, hoàn toàn đốt mọi giai đoạn mà các môn đệ phải từ từ khám phá ra căn tính của Đức Giêsu; nó báo cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể giữ mãi một cách đọc và lý giải nông cạn và có tính giai thoại.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con vượt qua những vẻ bề ngoài. Biết bao lần, chúng ta không biết nhìn những người sống với chúng ta, và khư khư với những sự đánh giá mặt ngoài.

Rất nhiều người vào thời Đức Giêsu. đã không hiểu Người là ai. Vậy chúng ta hãy lắng nghe những chứng từ của Gioan Tẩy Giả kèm theo một loại "phát xạ" bổ sung mà Gioan nhà thần học và là chứng nhân đã đưa vào bằng sự suy niệm lâu dài của ngài. Bởi vì lúc đó, Gioan Thánh sử cũng có mặt trên bờ sông Giođan ấy.

Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.

"Đây là" không chỉ là môt tiếng bình thường, một từ dùng để chỉ. Từ gốc Do Thái " in neh" hoặc "zeh" là một từ ngữ Kinh Thánh rất thường gặp để chỉ "một mặc khải", bắt người ta phải tin: Chúng ta không trông mong gì, nhưng rồi đây là "Này (Đây là) trinh nữ sẽ thụ thai" (Is 7,14). "Đây là Môsê, chúng ta không biết điều đã xảy đến với ông" (Xh 32,1). "Đây là người sẽ nắm quyền trên dân Ta" (1 Sm 9,17).

“Chiên Thiên Chúa" "Đấng xóa bỏ tội trần gian"

"Chiên"! "Tội"! Hai tiếng ấy không đi vào trong những phạm trù trí tuệ của con người hiện đại hậu công nghiệp. Những từ mà chúng ta lặp lại và ca hát nhiều lần ở mỗi thánh lễ. Tuy nhiên, đó là những từ "phát xạ" nếu như chúng ta biết nhận ra sự tỏa sáng của chúng. Những từ dùng để tuyên xưng đức tin của các cộng đoàn đầu tiên.

Những từ chứa đựng cả một nền thần học cả một quan điểm về lịch sử và về con người. Những từ mà người ta không thể chỉ lấy ý nghĩa ngây thơ của chúng: sự hiền lành, yếu đuối và âu yếm của con chiên nhỏ. Những từ ấy chỉ có thể hiểu được trong sự sâu sắc của Kinh Thánh, bằng việc chấp nhận nền văn hóa mà những từ ấy chuyển chở. Chúng ta hãy thử để cho mình được "chiếu xạ" bởi sức chứa nóng bỏng của chúng, nhưng vẫn luôn ở trong hiện tại.

Đối với các thính giả Do Thái, sự ám chỉ về "chiên” xuất hiện rõ ràng ở đền thờ Giêrusalem, mỗi ngày, người ta hiến sinh một con chiên để thanh tẩy tội lỗi của dân. Với máu của một con chiên vượt qua bị cắt cổ vào mùa xuân khi sự sống hồi sinh sau mùa đông, người ta bôi máu đó lên cửa nhà; để nhớ lại kỷ niệm bồn chồn của ngày giải phóng khỏi sự áp bức của Ai Cập (Xh 12). Theo sau Giêrêmi, các ngôn sứ đã so sánh Israel bị lưu đầy với chiên con vô tội để người ta đem đi sát tế mà không mở miệng nói một lời nào (Is 53,7; Gr 11,19). Các giáo trưởng đã giới thiệu Đấng Mêsia sẽ đến như một con cừu đực vinh quang, với cặp sừng mạnh mẽ, sẽ quật ngã những kẻ thù của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta không còn có những chuồng chiên dịu dàng. Chúng ta bị chìm ngập trong tính thời sự khắp nơi. Bạo lực, đàn áp đủ loại. Mọi thời đại và thời đại của chúng ta cũng thế, niềm hy vọng giải phóng luôn chỗi dậy: NGÀY HÔM NAY. Khoa học tiến bộ kỹ thuật, những cuộc đấu tranh xã hội và chính trị được đẩy tới mức huyền thoại hóa những lãnh tụ đấu tranh thành những người cứu độ. Than ôi! Những cuộc cách mạng, khi đã hoàn thành thường chỉ là đổi chỗ những bất công và những sự chuyên chế áp bức. Và con người vẫn còn mãi đói khát một sự giải phóng, một sự cứu độ triệt để.

“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian". Cơ cấu áp bức bên ngoài chỉ là sự biểu hiện một sức mạnh khác ở nội tâm: cái xấu, ác ở bên trong; trong tôi, trong bạn, trong họ. Tôi ở đây là danh từ dùng ở số ít, không phải là chuyện nhỏ mà phải hiểu là toàn thể! Đức Giêsu sẽ gánh lấy, và làm biến mất toàn thể tội lỗi của thế gian trong một cuộc chiến đấu đẫm máu, Người sẽ đổ hết máu mình làm vật hiến tế trước những tay đao phủ. Đức Giêsu, Cứu Chúa của chúng ta! Đấng cất bỏ tội lỗi. Ơ đây Thánh Gioan dùng một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa kép mà thánh sử thích dùng cả hai: “airein”, vừa có nghĩa “gánh vác, lãnh nhận” vừa có nghĩa “cất đi, lấy đi làm biến mất” Đức Giêsu không phát triển công cuộc giải phóng bằng cuộc chiến đấu bên ngoài theo kiểu “đội đặc công” trả đũa áp bức bằng bạo lực; nhưng bằng cách lãnh nhận trên chính người, bằng cách chịu đựng trong sự liên đới với mọi người bị áp bức của thế giới.

Bạn hỡi! khi bạn hát đến những lời này trong thánh lễ, bạn hãy để cho những lời ấy làm bạn tỏa sáng, mà chớ dừng lại ở bề mặt các từ ngữ và cử chỉ. Đồng thời, nếu bạn làm một cử chỉ chúc bình an hãy nghĩ đến sự súc tích của cử chỉ ấy: Sự hòa giải chân thật, tình huynh đệ chân thật tình yêu thương chân thật với người đối diện. Mọi nỗ lực hiểu biết người khác không ở trong tầm tay của bạn, dù khi bạn luôn giơ tay mình ra. Đó là một ơn mà bạn phải nhận từ Thiên Chúa và mọi nỗ lực của bạn tuy cần thiết cũng không thể kiến tạo sự hiểu biết ấy. Bạn hãy mở bàn tay bạn ra. Bạn hãy nhận lấy Mình Chúa bi nộp vì bạn. Bạn hãy tiếp nhận Golgotha vào lòng bạn.

Chính Người là Đấng mà tôi đã nói tới khi bảo rằng: "Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người. Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel. tôi đến để làm phép rửa trong nước".

Về mặt lịch sử và con người, Gioan Tẩy Giả đã được thụ thai và sinh ra trước Đức Giêsu. Nhưng phải vượt qua những vẻ bề ngoài, những sự hiển nhiên duy lý. Đức Giêsu đến từ nơi khác. Nếu Người có thể “cứu chúng ta một cách triệt để, bởi vì Người hơn một con người. Lấy lại sự suy niệm của lời tựa, Gioan nói lại với chúng ta sự có trước của Ngôi Lời. "Nhờ Người, vạn vật được tạo thành", được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời. Đức Giêsu thực hiện lại hành động Sáng Thế. Vũ trụ, bị tội lỗi làm hư hỏng, bị bao lực làm tổn thương, bị sự không có tình yêu làm cho nhiễm độc; sẽ được "tái tạo" toàn bộ, từ đầu đến cuối: Đó là “tuần lễ đầu tiên" của sự canh tân. "Tôi đã không biết Người" Gioan Tẩy Giả nói. Tuy nhiên đó là em họ của ông. Chúng ta không biết Đức Giêsu chừng nào chúng ta vẫn còn ở lại trên bình diện con người.

Ông Gioan còn làm chứng: tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuồng và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần".

Đàng sau vẻ bề ngoài tầm thường của con người Nagiarét, Cả một mầu nhiệm được che giấu. Người được xức dầu, thánh hiến, được thấm nhuần. Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên Người và ở lại trong Người! Sự hiện diện không ai biết. được che giấu. Tôi đã không biết Người. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng đón nhận" (Ga 1,5-10). Đôi khi chúng ta thường nghĩ rằng mình biết Đức Giêsu, thật ra chúng ta không bao giờ hết chấm phá ra Người. Chúng ta phải hoàn toàn nhỏ bé, nghèo khó, hoàn toàn mở ra cho sự mạc khải.

Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.

Một vài thủ bản cho bản văn mà các nhà chú giải thấy đúng hơn và bản dịch tiếng Việt theo bản văn đó: “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" thay vì "Con Thiên Chúa". Cách diễn tả này tương đương với "Người yêu dấu” "Con yêu dấu” "Con Một"; ám chỉ đến các bài thơ của Người Tôi Tớ mà chúng ta đọc hôm nay và Chúa nhật vừa qua trong bài đọc một (Is 42,1 - 49,5).

Bạn hỡi, vào lúc mà con yêu dấu bắt tay thực hiện một sự sáng thế mới, giải thoát mọi người khỏi tội lỗi đã bắt sự sáng thế đầu tiên phải hàng phục, lúc ấy bạn sẽ để cho mình được tái tạo. Phải chăng bạn sẽ chấp nhận Đức Kitô tái tạo bạn. Bạn sẽ chấp nhận phép rửa và sự nhúng chìm mình trong Chúa Thánh Thần, bạn sẽ để mình đổi mới từ bên trong; bạn sẽ để mình được nhân bản hóa đến cùng trong sự "tham dự vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Ngày nay, hai thanh niên gặp nhau đó là Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Một thế giới mới bắt đầu; một thế giới của tình yêu thương.

 

60. Chú giải của Fiches Dominicales

ĐÂY LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Trong một bối cảnh thù nghịch cuộc vận động của các thầy cả, thầy lêvi yêu cầu Gioan tự xác định vai trò trong cuộc chờ đợi Đấng Cứu Thế: "ông là ai". Gioan Tẩy Giả đã trả lời trước hết bằng ba phủ định: ông không phải là Đấng Cứu Thế, không phải là Êlia, cũng không là một đại tiên tri. Rồi ông tuyên bố. "ở giữa anh", “một người mà anh em không biết; chính Ngài đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giày cho người” (l,2-27).

Bây giờ, Gioan Phúc âm xác định là ngày hôm sau, đối diện với các môn đệ, sau khi nhóm người điều tra bỏ đi.

+ Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu "tiến về phía Ngài”. Không phải là để xin rửa tội như ta tự nhiên nghĩ tới vì phép rửa đã xảy ra, nhưng để làm ứng nghiệm lời sấm của Isaia 40,10 "Chúa đến”.

+ Cũng trong chiều hướng làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia 40,2 đã loan báo cho Israel biết rằng "tội lỗi họ đã được tha thứ", Gioan tuyên bố: "Đây là hiểu ngầm một lời mời hãy nhận xem chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội tràn gian. Một nhận dạng mà ta sẽ gặp lại ở chương 1,36.

Sự đối chiếu với Chiên Thiên Chúa có thể có 3 nền tảng trong Cựu ước. Hoặc con chiên của Israel 53,7: "Như con chiên bị đưa đến lò bát tế, như cừu đến trước mặt kẻ xén lông... Trong trường hợp này, thánh sử Gioan đã thấy nơi Đức Giêsu khuôn mặt của Người Tôi Tớ đau khổ gánh lấy tội lỗi thế giới. Nhưng cũng nên biết rằng cùng một từ ngữ Aram ấy có thể có 3 nghĩa: "trẻ em”, "tôi tớ” hoặc "con chiên”. Hoặc con chiên bị sát tế và đứng trong sách Khải Huyền, có thể thắng vượt tội lỗi và sự chết, là Đức Kitô phục sinh (Kh 5,6; 14,10; l.7,14). Hoặc con chiên vượt qua. Thực vậy, theo Gioan 19,14, Đức Giêsu bị kết án vào giờ mà các thầy cả bắt đầu sát tế chiên để mừng lễ Vượt qua. A. Marchadour nhận định: "Một tước hiệu như thế có thể có 3 ý nghĩa. Một độc giả không am hiểu bối cảnh Kinh Thánh của từ ngữ sẽ ghi nhận rằng có 2 so sánh vay mượn. Ở thế gian động vât: con chiên Thiên Chúa và chim bồ câu từ trời xuống. Hai hình ảnh của sự bất bạo động này rất thích hợp với bản chất của Đức Giêsu và với công cuộc nối kết với thế giới của Thiên Chúa". Và làm chứng: "Chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Rồi, khi gợi lại phép rửa ở sông Giođan, Gioan Baotixita, người đã loan báo trước về Đấng Messia mà không biết (“Tôi không biết Ngài câu 31 và 33), đã làm chứng: "người đã thấy Ngài quả quyết 2 lần như vậy (câu 32 và 34): "Mọi người sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và ơn cứu độ Nơi Đức Giêsu, trên Ngài Gioan đã nhìn thấy "Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống từ trời và đậu lại", Thiên Chúa đã mạc khải cho ông biết đó là Con Thiên Chúa…X lon Dufour nhận xét: "Sự chứng nhận này hiển nhiên phù hợp với lời tuyên bố của Thiên Chúa khi Đức Giêsu chịu phép rữa: Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người (Mt 3,17). Nhưng đây không phải là tiếng nói từ trời cao. Đó là tiếng nói của người phàm, Gioan Tiền hô đã nói.

Trong tước hiệu “Con Thiên Chúa" độc giả Kitô hữu tìm ra ý nghĩa vượt quá lời tuyên xưng về Đấng Messia, tước hiệu ấy nối kết với tước hiệu "Con duy nhất" đã được nhấn mạnh ở phần nhập đề. Đó chính là ý nghĩa mà bản văn này nhẩm tới, vì Phúc âm đã viết "để anh em tin rằng Đức Giêsu, Đấng Messia là con Thiên Chúa (20,31).

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Dấu chỉ đến từ Thiên Chúa.

(Mgr. L. Daloz, "Nous avons vu ta gloire”, DDB).

Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Đức Giêsu, chứng từ của Chúa Cha: "Đấng mà trên Người ngươi sẽ thấy. Thần Linh xuống và ở lại, chính người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần". Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Đức Giêsu thường nhắc lại: "Ai nghe lời Cha và đón nhận thì đến với Ta” (6,45). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan Tẩy Giả biết Đức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Nếu không có Thánh Thần, không có lời chứng của các chứng nhân, ta sẽ không nhận biết Người. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu và suy gẫm. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Người là đối tượng của một chứng từ, không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhạn những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.

2. Con đường của Con Chiên.

(H. Denis, 100 mots pour dire la foi. DDB).

Hằng bao lần ta đã chẳng đọc và nghe: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian sao? Thư thánh Phêrô sử dụng một đề tài Kinh Thánh cổ xưa như chuyện phiêu lưu của Môsê bên Ai Cập, tôi muốn cùng các bạn đi lại con đường của Con Chiên Thiên Chúa, Người đi từ sự báo oán giải phóng đến sự bất bạo động hoà bình.

Con đường ấy khởi đi từ một lịch sử đẫm máu. Dân Thiên Chúa được cứu khỏi Ai Cập nhờ máu Con Chiên. Con Chiên sẽ trở nên biểu tượng của công cuộc giải phóng Israel. Vì, ta đừng quên điều này, cuộc gặp gỡ của Môsê ở bụi gai cháy đỏ không, phải là một câu chuyện thần bí phóng đại hoặc truyện trẻ em ham thấy Chúa Mẹ hiện ra. Không, Môsê đã giết ngọt một tên Ai-cập đáng ngờ và Thiên Chúa của ông, dù chưa rõ tên Ngài, đã hứa nghe thấy dân Ngài đang bị nô lệ kêu xin. Như thế Con Chiên thuộc về phía cánh tay báo oán của Thiên Chúa, cùng với tất cả sức mạnh của Người. Nhưng chẳng bao lâu, đặc biệt với các ngôn sứ (Is 53, Gr 11...) Con Chiên này sẽ trở nên kiểu mẫu của những ai chết cho dân Người, như con cừu câm rùn bị dẫn tới lò sát sinh...

Thiên Chúa rời bỏ ngai Đấng toàn Năng. Ta nói rằng Người đứng về phía Con Chiên chịu đau khổ. Như thể thời gian dần dần chín mùi để đón nhận một Đức Giêsu nào đó, được Gioan tuyên xưng là Đấng xoá tội trần gian, còn thư Phêrô thì nhận là Con Chiên không khiếm khuyết, không tì vết, giải thoát ta khỏi cuộc sống không mục đích như là chiên vất vưởng lầm lạc. Nhưng sự đảo ngược hình ảnh chưa hoàn toàn. Cuộc giải phóng bằng việc báo oán của Thiên Chúa chưa chuyển hoá thành lễ dâng của một vát hy sinh tự nguyện và tự hạ. Thật vậy, Con Chiên phải mặc lấy những màu sắc và những hình thức của Sự Sống thực sự và của Vương triều thiên quốc. Đó chính là Con Chiên của sách Khải Huyền, hiện diện trong biết bao trang sách khi thời gian viên mãn. Điều đó nhắc tôi nhớ tới một bức bích hoạ rất đẹp và rất cổ xưa ở vùng ngoại ô Lyon, trong đó ta thấy Đức Kitô vinh hiển dưới hình Con Chiên mặt người. Đó là cuộc khải hoàn của niềm bình an, sức mạnh của sự bất bao động của Thiên Chúa. Vâng, chỉ Con Chiên mới có thể ban sự Bình An của lễ Phục Sinh, niềm bình an được hứa ban cho thế giới đã được giải phóng. Xin ban bình an cho chúng con.

 

61. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CHIÊN THIÊN CHÚA

CÂU HỎI GỢI Ý

1) Đâu là cơ cấu của đoạn văn này?

2) Gioan Tẩy Giả “đã không biết” (cc. 31-33) Chúa Giêsu theo nghĩa nào? Ông chẳng phải là anh họ của Người sao?

3) Đâu là mối liên lạc giữa thị kiến khả giác và chứng từ của Gioan Tẩy Giả?

4) Về việc thị kiến Thần khí, có sự khác biệt nào giữa Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm?

5) Trong thị kiến ấy, con chim câu có nghĩa gì?

6) Trong quan điểm của Gioan, đâu là ý nghĩa của phép thanh tẩy bằng Thánh Thần, vốn là phép phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu?

7) Trong câu 34, giữa hai dị bản “Con Thiên Chúa” và “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, nên chọn dị bản nào hơn?

8) Thành ngữ “Chiên Thiên Chúa” (c. 29) quy chiếu về cái gì?

9) Đâu là ý nghĩa của biến cố này?

*******

1) Đoạn văn ta đang nghiên cứu là thành phần của một bản văn dài (1, 19-51) phân chia chứng từ của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu ra làm hai ngày:

- 1, 19-28: chứng từ gián tiếp và có tính cách tiêu cực.

- 1, 29-34: chứng từ trực tiếp và tích cực.

Hai ngày ấy được tiếp nối bằng hai ngày khác, tường thuật việc các môn đồ đầu tiên đến cùng Chúa Giêsu:

- 1, 35-42: Anrê, người môn đồ vô danh, Simon con Gioan.

- 1, 43-51: Philipphê, Nathanael.

Trong cơ cấu của toàn bộ này, C.H.Dodd (Historical Tradition in the Fourth Gospel, Cambridge, 1963, tr. 248tt) tìm ra được một lược đồ tam phần (schéma tripartite) chung cho 4 đoạn nói về Gioan Tẩy Giả trong Tin mừng thứ tư (1, 6-8; 1, 19-34; 3, 22-30; 10, 41-42). Mỗi lần như vậy, người ta nói:

1/ Gioan không phải là: ánh sáng (1,8), Messia (1,20; 3,28); ông không làm “dấu chỉ” nào (10,41).

2/ Ông là: chứng nhân của ánh sáng (1,7), của Đấng Messia (1, 29-34 và 3, 27-30), của Chúa Giêsu (10, 41).

3/ Ông làm công việc: dẫn thiên hạ tin vào Chúa Kitô và theo Người (1, 7.33-42, (3, 31-36); 10,42).

Chứng từ tích cực, đúng nghĩa của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô chiếm vị trí chủ yếu trong cả bốn trường hợp. Đó là vì đối với thánh sử, Gioan tự bản chất là chứng nhân của Chúa Kitô: ông đã đến để làm chứng... để làm chứng cho sự sáng… (1,7). Ông đã làm chứng cho Sự thật... (5, 33). Đây đúng là nét chính yếu và riêng biệt của Tin Mừng thứ tư.

Chứng từ dài nhất của Gioan Tẩy Giả nằm ở 1,19-34. Đoạn này làm thành một khối biệt lập, được phân định rõ ràng bằng một kiểu đóng khung: công thức “Và đây là chứng của Gioan" (1,19) đối lại với công thức “Vì đã được xem thấy nên tôi xin đoan chứng: chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (hoặc Con Thiên Chúa)” (1,34). Như vậy chủ đề căn bản là chứng từ của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu.

Nhưng như ta đã thấy lúc nãy, đoạn chứng từ này phân thành hai ngày:

- Ngày đầu (1,19-28) được dành cho việc Gioan làm chứng (với tính cách chuẩn bị) trước mặt các sứ giả của Biệt phái về Đấng “xứng đáng hơn”, đã đến đây rồi, đang có mặt "giữa họ”, nhưng còn "ẩn danh" và "tới sau Gioan". Chứng từ có vẻ tiêu cực theo nghĩa là Gioan tuyên bố mình không phải là: Messia, Con, Ngôn sứ; ông xóa mình trước “Đấng đến sau ông”.

- Ngày thứ hai (1, 29-34) dành cho chứng từ đích thực của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu và nhắm một đám đông vô giới hạn, tức là Israel và "thế gian" (1, 29-31), vì điều Thiên Chúa hoàn tất trong Israel thì nhắm tới toàn thể nhân loại.

2) Cơ cấu của 1, 29-34. Đoạn văn này, hình như thu thập và sắp xếp lại nhiều yếu tố có nguồn gốc khác nhau, được kết cấu theo lối nhị cú chuyển hoán (chiasme).

c. 29 “(Gioan) thấy Chúa Giêsu đến với ông thì nói: này là Chiên của Thiên Chúa...".

c. 30 “Chính Người là Đấng tôi đã nói: Sẽ đến sau tôi một người đã vượt trước tôi, vì Người đã có trước tôi”.

c. 31 "Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ mình ra cho Israel; mà tôi đã đến thanh tẩy bằng nước".

c. 34 Và tôi đã được xem thấy nên xin đoan chứng: chính Người là vị Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa?)".

c. 33b “Người thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần".

c. 33a “tôi chưa hề biết Người, nhưng Đấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Ngài đã nói với tôi:”

c. 32 “và Gioan đã đoan chứng rằng: Tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống, như chim câu, và đã lưu lại trên Người".

Tính cách nhất thống của toàn bộ được chỉ rõ qua kiểu đóng khung: “Chiên Thiên Chúa” (1, 29 – “Tuyển nhân của Thiên Chúa” (Con Thiên Chúa) (c.34). chóp đỉnh hay khúc ngoặt của bản văn nằm ở câu 32: "tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống và đã lưu lại trên Người". Như vậy đoạn văn, qua cơ cấu của nó, đặt trọng tâm vào việc nhìn thấy Thần khí đáp xuống từ trời và lưu lại trên Chúa Giêsu, nền tảng và đối tượng đoan chứng của Gioan Tẩy Giả.

3) Việc Gioan hai lần quả quyết (cc. 31.33) mình không biết Chúa Giêsu đã đóng khung cho câu 32. Sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa: vị Tẩy giả không biết Đấng mà phép rửa bằng nước của ông đang, chuẩn bị, dọn đường cho. Để diễn đạt sự vô tri đó, thánh sử dùng động từ "oida". I. de la Potterie đã xác định ý nghĩa của nó như sau: Động từ "oida" chỉ sự hiểu biết xét như đã thủ đắc, có tính cách chắc chắn tuyệt đối, trong lúc động từ "ginôskô " chỉ quá trình thủ đắc tri thức.

Lúc thánh sử bảo rằng Gioan Tẩy Giả không biết Đấng đến sau ông, điều ấy chẳng có nghĩa: Chúa Giêsu đối với ông chỉ là một kẻ xa lạ, nhưng có nghĩa: ông không biết Người như là Messia, ông chưa có đầy đủ ánh sáng đức tin, chưa thấy trong Người vị Tuyển nhân của Thiên Chúa. Cha De la Potterie đã có lý khi nhấn mạnh đến mối tương quan giữa sự vô tri này của Gioan Tẩy Giả và sự vô tri của người Do thái ở 1,26. Trên điểm này, Gioan Tẩy Giả còn giống với người Do thái là những kẻ đã chẳng hề có ý niệm nào về lai lịch của Đấng đang ở giữa họ: chính cảnh mặc khải ở sông Giođan sẽ cho Gioan Tẩy Giả cái nhìn đức tin ấy.

Thành ra việc nhìn thấy Thần khí có hai mục đích: kéo Gioan Tẩy Giả ra khỏi sự vô tri của ông, đồng thời đặt ông vào trong ơn gọi thực sự; khi mặc khải cho ông thấy. Tuyển nhân của Thiên Chúa, thị kiến đó biến đổi ông từ kẻ làm phép rửa bằng nước thành chứng nhân của Thần khí, hay đúng hơn thành chứng nhân của Đấng có Thần khí lưu lại bên trên. Chính vì lý do đó mà ông, đã “đến” (c. 31). Phép rửa bằng nước chỉ là một giai đoạn chuẩn bị cho vai trò quan yếu đó vậy.

Về vấn đề này, ta có thể so sánh 1,31: 'Tôi đã đến thanh tẩy trong nước” (thanh tẩy: hiện tại phân từ, chỉ một sự kiện đơn giản) với 1,7: "ông đã đến để làm chứng:... để làm chứng cho sự sáng" (mệnh đề chỉ mục đích) và với 1,31: tôi đã đến thanh tẩy bằng nước để Người được tỏ mình ra cho Israel". Cái thị kiến kéo Gioan Tẩy Giả ra khỏi sự vô tri của ông chẳng những đã mặc khải cho ông sứ mệnh đích thật, mà còn cho ông đủ khả năng chu toàn nó.

4) Chứng từ của Gioan Tẩy Giả mở đầu bằng lời tuyên bố. “Tôi đã chiêm ngắm Thần khí (tetheamai)” nơi câu 32, và kết thúc với câu 34: “tôi đã xem thấy và tôi xin đoan chứng...” hay dịch cách khác: Vì đã xem thấy, nên tôi xin đoan chứng. Chứng từ như thể dựa trên một thị kiến vậy.

Mối liên hệ giữa chứng từ và thị kiến xuất hiện nhiều lần trong Tin mừng thứ tư: x. 3, 11.32; cũng xin xem 1 Ga 1,2 và 4, 14. Tuy nhiên phải phân biệt hai hành động. Chứng tá không giản lược thành một thị kiến khả giác, hoàn toàn có tính cách vật chất, ngoại trừ trường hợp Chúa Giêsu, Đấng mà chứng tá là mặc khải trực tiếp về những thực tại thiên giới. Trong trường hợp chứng nhân loài người, có một sự phân cách giữa đối tượng của thị kiến và đối tượng của chứng tá: biến cố người ta đã thấy cho biết một điều khác không trông thấy được, và chính thực tại dấu ẩn này là cái người ta sẽ làm chứng cho. Dầu sao, việc nhìn thấy bên ngoài vẫn quan trọng: vai trò của chứng nhân tận mắt không thể bị xem nhẹ. Tại sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã nhìn thấy một sự kiện bên ngoài: Thần khí đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu (1, 32); nhưng cái ông làm chứng, chính là thiên sai tính của Người.

Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng và bản chất của thị kiến khả giác. Việc nhìn thấy bên ngoài, điều kiện của chứng tá, tượng trưng cho một trong nhiều trường hợp mà một hạn từ của Gioan phải được hiểu vừa trên bình diện kinh nghiệm khả giác, vừa trên bình diện thực tại thiêng liêng. Thị kiến không còn là một cái nhìn nào đó, nhưng là cái nhìn dẫn đến đức tin, nhìn biến cố như là dấu chỉ. Kẻ đã thấy thì làm chứng cho ý nghĩa của biến cố mình mục kích. Có thể nói ông làm chứng cho ý nghĩa ấy xét như nó đã được ông nhìn thấy trong biến cố.

Ta nên chú ý đến việc nghiên cứu các động từ được thánh sử dùng trong đoạn văn này đây để chỉ cái nhìn. Nơi 1,29, ông sử dụng tiếng blepein: Gioan thấy (nhận thấy) Chúa Giêsu đang đến với mình. Động từ rõ ràng diễn tả tri giác bằng mắt.

Nơi câu 32 Gioan Tẩy Giả đoan chứng cho việc ông đã nhìn thấy “Thần khí đáp xuống trên Chúa Giêsu và lưu lại trên Người". Động từ được dùng là theasthai ở thì quá khứ (“tetheamai"): nó mô tả thị kiến như một việc chiêm ngưỡng, theo dõi diễn tiến của biến cố để đi sâu vào ý nghĩa. Thành thử nó cho thấy có sự tiến triển trong tri giác. Bởi thế người ta đã dịch: "Tôi đã chiêm ngưỡng (đã trông thấy) Thần khí đáp xuống... và Ngài đã lưu lại trên Người". Việc chuyển từ phân từ (“đáp xuống") qua trực thuyết cách aoriste (indicatif aoriste) (“và Ngài đã lưu lại") có tác dụng làm cho ta chứng kiến và như thể chiêm ngưỡng được chính diễn tiến của biến cố vậy.

Trong các câu 33-34 (có lẽ thuộc về một truyền thống khác) xuất hiện động từ horân. Trước tiên nó được dùng ở thì aoriste c.33) để chỉ việc loan báo cho Gioan Tẩy Giả hay rằng ông sẽ được nhìn thấy (tận mắt) cái dấu chỉ sẽ đưa ông đến chỗ nắm được một thực tại siêu việt nhờ sự soi sáng của Thiên Chúa: "Ai mà ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại bên trên...”. Động từ cũng trở lại với trực thuyết cách quá khứ (indicatif parfait) (c.34) để chỉ chính tri giác ấy, cái tri giác mà lần này được thủ đắc và đào sâu đến độ nắm được thực tại trên. Trong thị kiến và nhờ thị kiến, Gioan Tẩy Giả được mặc khải cho biết tư cách thiên sai của Chúa Giêsu. Ông đã "thấy" và ông đoan chứng rằng "chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa)". Động từ horân ở thì quá khứ (parfait) diễn tả cái nhìn đã hoàn toàn được đào sâu và làm cơ sở cho một chứng từ 'bảo đảm và trường tồn từ nay (nghĩa của thì parfait trong Hy ngữ: heôraka hai memarturêka).

5) Đối tượng chủ yếu của thị kiến là Thần khí, như trong Nhất Lãm. Nơi Mt (3,16), Ngài được gọi là Thần khí Thiên Chúa (theo, không có mạo từ); nơi Lc (3,22), Thánh Thần; nơi Ga (1,32tt) như nơi Mc (1,10), Thần khí; nhưng nơi Gioan, nguồn gốc thiên giới (ex ouranou "từ trời" không có. mạo từ) cho thấy Ngài là Thần khí Thiên Chúa hay Thánh Thần.

Như Mt và Lc, Gioan nói rằng Thần khí xuống "trên Chúa Giêsu (epi; Mc dùng chữ "phía", eis). Điểm đặc biệt của Gioan là sự kiện Thần khí "lưu lại" trên Người. Chi tiết này được đề cập hai lần (cc. 32.33) và được coi như thuộc thành phần dấu chỉ phân biệt Đấng mà Thần khí ngự lên trên.

Các nhà chú giải hầu hết đều cho đó là một quy chiếu mặc nhiên về sấm ngôn Is 11,2: "Một chồi sẽ xuất từ gốc Giessê và từ rễ nó, lộc sẽ mọc lên: trên Người Thần khí Giavê sẽ đậu xuống...". Vẫn biết bản Hy lạp (LXX) của Isaia không sử dụng động từ menein lưu lại) nhưng dịch là anapausetai, Gioan vẫn chọn động từ menein vì đó là một tiếng thần học chuyên môn của ông. Như việc Thần khí đậu trên chồi nhà Đavít trong Is 11,2 việc Thần khí lưu lại trên Chúa Giêsu trong Ga 1,32-33 là một dấu chỉ, ban cho Gioan Tẩy Giả, nói lên mối tương quan thường xuyên, thân thiết và hoàn hảo giữa Thần khí Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Cùng với Y.Godet, ta có thể coi việc sử dụng chữ "epi" với accusatif sau động từ "lưu lại ", một động từ tự bản chất ở thể tĩnh, như là thành ngữ diễn tả tính cách sống động của mối tương quan ấy.

6) Thần khí đáp xuống “... như một chim câu (đến) từ trời” (1,32). Chi tiết này cũng gặp thấy trong Tin mừng Nhất Lãm. Nó được mở đầu bằng chữ hôi (hôsei, nơi một, nhấn mạnh sự so sánh). Lc nói rõ là Thần khí ngự xuống dưới hình dạng thể xác, (somatikô eidei).

Về ý nghĩa chim câu, có nhiều lập trường khác biệt. Theo J.Jeremias the Theology of the New Testament, London, SCM Press, 1971, t.I. tr. 52), lối so sánh Thần khí với chim câu hoàn toàn vắng bóng trong Do thái giáo cổ. Và ông bảo, điều đó giải thích tại sao người ta đã đi tìm những điểm song song - có lúc thật kỳ lạ - trong lịch sử các tôn giáo. Nhưng, vẫn theo Jeremias, tất cả mọi dự tính đó đều phát xuất từ một thiên kiến sai lầm cho rằng trong trình thuật Tin Mừng nguyên thủy, Thần khí thực sự được tượng trưng bằng một con chim câu. Theo ý ông, đầu tiên (Mc 1,10) chỉ có vấn đề so sánh, tương tự như lối so sánh mồ hôi của Chúa Kitô trong cơn hấp hối với "những giọt máu nặng hạt" (Lc 22,44). Ông bảo điều này không có nghĩa là mồ hôi của Chúa Kitô đã biến thành máu, nhưng có nghĩa là cơn phiền não của Người dữ dội đến nỗi mồ hôi từ thân Người toát ra nhiều như máu chảy. Cũng vậy, Jeremias còn viết, kiểu nói "như một chim câu" chẳng có ý bảo rằng Thần khí hiện ra dưới hình dáng một con chim câu, nhưng là Ngài đáp xuống trên Chúa Giêsu với tiếng rung nhẹ của con chim đó. Jeremias nghĩ rằng hình ảnh đã dần dần bị vật chất hóa khi người ta biên soạn các Tin Mừng; và quá trình vật chất hóa hình ảnh này xuất hiện trong bản văn Lc (22, 44), do ảnh hưởng của môi trường Hy Lạp.

Lập luận của Jeremias bảo rằng trong truyền thống Do thái hoàn toàn vắng bóng lối biểu tượng chim câu-Thần khí xem ra khó bác bỏ. Và đấy chính là cái giảm giá trị lối giải thích dựa trên St 1,2 cho rằng chim câu trong phép rửa của Chúa Giêsu tượng trưng Thánh Thần - vì trong bản văn này quả có hình ảnh ‘Thần khí bay là đà’ (trên nước) như một con chim, ít là theo một lối giải thích tàm tạm, nhưng không gì cho thấy con vật đó là một chim câu (chỉ có một bản văn của các giáo sĩ hiểu theo nghĩa ấy - x.strack-billebeck, I, 312) – hoặc dựa trên St 8,8 là bản văn thường được viện dẫn để bênh vực cho lập trường. Bản văn này quả có nói tới một con chim câu, nhưng chẳng có gì cho thấy chim câu ấy chỉ Thần khí. Tuy nhiên lối giải thích do Jeremias đề ra không nhất thiết bó buộc phải theo.

Thực vậy trong truyền thống Do thái có biểu tượng về chim câu. Nó không liên hệ tới Thần khí nhưng tới Israel, đặc biệt là Israel bị lưu đày đang khao khát hồi hương và cầu xin Thiên Chúa trợ giúp. Biểu tượng ấy thường gặp trong Cựu ước (Hs 7, 11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6, 8) và trở lại trong các ngụy thư hay văn chương giáo sĩ (Strack-bill. I, 123tt).

Trong Thánh vịnh 56,1, bản Massorètes viết: “theo cung điệu chim câu của các thần xa lạ” (BJ). Thế nhưng bản Hy lạp lại dịch là: “Theo cung điệu dân lưu đày của các thánh nhân Ngài” (huper tou la ou apo tôn agiôn memakrummenou) và bản Targum: "Ad laudandum pro ecclecia quan similatur columbae silentii, in tempore queo elongati suos a civitatibus sui…”

Trong sách Êdơra thứ tư (5,23-27), ta đọc đọc bài thơ nhỏ sau đây:

"Giữa muôn chim trong tạo vật Ngài đã gọi một chim câu,

Giữa muôn thú trong tạo thành Ngài đã yêu một cừu cái,

Giữa muôn dân thuộc mọi chủng tộc Ngài đã chọn một dân

riêng,

Giữa muôn nước trong vũ hoàn Ngài đã giữ lấy một gia sản".

Theo E.R. Goodenough (Jewish Symbols in the Grece-Roman Penod, t.8, New-haven, 1956, tr.42tt), trong truyền thống Do thái, Israel thường được tượng trưng bằng một con chim câu. Tác giả này tham chiếu sách Edơra thứ 4, Pseudo-Philon, Targum Esther v.v... Nhưng ông thêm: chim câu chỉ Israel mà đôi cánh là việc thực thi Lề luật, thế nên hình các con chim câu khắc trên tráp đựng Ngũ kinh có lẽ vừa biểu hiệu đặc tính đồ vật được cất giữ, vừa tượng trưng Israel trên tráp Lề luật". Xa hơn, ông còn viết: “Theo giả thuyết tự nhiên nhất, chúng tôi có khuynh hướng nghĩ rằng hình chim câu khắc trên mộ và trong các hội đường Do thái tượng trưng cho Israel, dân ưu ái của Thiên Chúa, hay cá nhân người Israel, hoặc tượng trưng cho ơn cứu rỗi vì tình yêu và sự bất tử mà Thiên Chúa ban cho người tín hữu, kẻ trung thành”.

7) Đi từ sự kiện đó, A.Feuiliet ngh rằng chim câu đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu tượng trưng và tiên trưng kết quả chính yếu của việc tuôn đổ Thần khí, tức là việc thiết lập Israel mới, thiết lập cộng đoàn hoàn hảo của thời ân sủng. Thành ra cái được biểu hiệu không trực tiếp là Thần khí, nhưng là hậu quả của việc Ngài hiện diện trong Chúa Giêsu, hậu quả cho dân Thiên Chúa. Như vào ngày Hiện xuống, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần khí, nhưng tượng trưng các ngôn ngữ mà 12 sứ đồ sắp bắt đầu nói ra dưới ơn linh ứng của Ngài, và, sâu xa hơn, tượng trưng việc Phúc âm hóa vũ trụ; thì cũng vậy, chim câu trong phép rửa có ý chỉ điều này là dân thiên sai phải xuất phát từ trong con người Chúa Giêsu Messia, vua và tôi tớ của Giavê.

Kiểu nói: "Chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần" (c. 33b) giúp chú giải thị kiến; nó giải thích cho Israel hiểu con người Chúa Giêsu, con người mà trên đó Thần khí đã đáp xuống và dừng lại.

Công thức “thanh tẩy trong Thánh Thần" của Gioan có nhiều tiếng song song trong Nhất Lãm và trong Công Vụ, nhưng vẫn rất khác biệt. Nơi Mt (3,11) và Lc (3,16), việc loan báo phép rửa trong Thánh Thần được nối kết với hình ảnh lửa, và cả hai đều liên hệ với lời loan báo việc giá lâm gần kề của “kẻ mạnh hơn”, tức là của Đức Messia, Đấng đến thực thi cuộc phán xét sau cùng. Trong viễn tượng ấy, Thần khí, được liên kết chặt chẽ với lửa, chỉ sức mạnh thần linh, hơi thở vũ bão sẽ hoàn thành cuộc xét xử đó (x.Ts 4,4tt; Hênoc 62,2). Trong nghĩa này, không phải Thánh Thần, mà Gioan Tẩy Giả loan báo là sẽ được Đấng Messia tuôn đổ, nhưng chính là hơi thở mạnh mẽ sẽ tiêu diệt ác nhân Is 11 đã đề cập tới (Is 11,4).

Tuy nhiên, công cuộc ấy cũng là công cuộc ân sủng. Nó nhằm mục đích thiết lập dân cánh chung, tinh tuyền và thánh thiện của Thiên Chúa. Chính khía cạnh này đã được giữ lại có lẽ bởi Mc (1,8) là người không đề cập tới lửa, và bởi Luca (Cv 15) là người dời câu nói ("thanh tẩy bằng Thánh Thần”) vào lễ Ngũ Tuần.

Tin Mừng thứ tư nằm trong cùng chiều hướng ấy. Nhưng điểm đặc biệt của nó vẫn luôn là việc làm nổi bật con người Chúa Giêsu, bằng hai cách:

1) Cắt ngang câu nói: "Phần tôi, tôi thanh tẩy bằng nước” đặt ở 1,26, nhưng phản đề chỉ được đưa ra ở 1,31.33, nơi không còn đối nghịch giữa hai phép rửa cho bằng hai nhân vật: Gioan-Giêsu;

2) Dùng hiện tại phân từ với định quán từ, để chỉ một chúc vụ kéo dài và đặc trưng hơn là một hành động chốc lát: chính Người là Đấng thanh tẩy (sát chữ: "là Tẩy giả") trong Thánh Thần" (1, 33b).

Thành ra có sự đối lập giữa hai nhân vật trong vai trò lịch sử hơn là đối lập giữa hai phép rửa: Gioan Tẩy Giả với vai trò chứng nhân và Chúa Giêsu với vai trò thanh tẩy trong Thánh Thần.

Trong viễn tượng Gioan, phép rửa trong Thánh Thần, phép rửa phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu, ám chỉ cái gì? Trước tiên nên để ý rằng không có mạo từ trước chữ "Thánh Thần". Điều đó nhắm mục đích quy hướng sự chú ý chẳng phải trên bản thân của Thánh Thần, nhưng là trên hành động, trên luồng sinh khí của Ngài. Nên có lẽ phải dịch: “trong quyền năng của Thánh Thần". Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy trong quyền năng của Thánh Thần vậy.

Đúng ra danh xưng ấy liên hệ đến điều gì? Khó mà xác định ngay được. Nhưng phần tiếp theo của Tin Mừng, với các hình ảnh và công thức khác nhau, sẽ dần dần cho thấy điều đó. Tuy nhiên ta có thể nói:

1) Trong viễn tượng Tin Mừng thứ tư, phép rửa bằng Thánh Thần không có ý nghĩa phán xét cánh chung như trong truyền thống Mt-Lc;

2) Nó cũng không nhắm tới phép rửa được đề cập ở 3,22 và 4,1 vì phép rửa này chẳng phải là phép rửa trong Thánh Thần. Vậy phải chăng nó chỉ phép rửa Kitô giáo? Có lẽ một cách gián tiếp, nhưng viễn tượng chắc hẳn rộng hơn. Phép rửa trong Thánh Thần nhắm tới và xác định toàn thể hoạt động, công trình của Chúa Giêsu. Sứ mệnh của Người, đối với nhân loại, chủ yếu sẽ là một phép rửa trong Thánh Thần".

Các nhà chú giải hầu như nhất trí quy chiếu thành ngữ "trong Thánh Thần" về các bản văn Cựu ước loan báo việc tuôn tràn Thần khí Thiên Chúa trên cộng đoàn: Is 32,15tt; 44,3tt; Ed 36, 25-29; Ge 3,1. Ta cũng có thể nhắc lới, như là bằng chứng của niềm chờ mong ấy, nhiều bản văn Qumrân như LQS IV, 19-23; và Chúc thư tổ phụ Lêvi 18, 6-9; Tv Salomon 17, 29-42. Trong các bản văn này, biểu lộ niềm tin tường vào chương trình của Thiên Chúa, tin tưởng rằng vào thời cánh chung, qua việc tuôn đổ Thần khí, Ngài sẽ tạo cho mình một dân tộc thánh, tuân phục Lề luật, một dân ‘biết’ Ngài. Qua việc Thần khí ngự xuống và đậu lại, Chúa Giêsu được chỉ định như là tác nhân của cuộc tuôn tràn thời cánh chung ấy. Chính Người là Đấng thực hiện công việc. Trước đó, nơi câu 32-33, lời ám chỉ mặc nhiên về Is 11,2 đã quy hướng theo nghĩa này.

Tính cách mới mẻ hoàn toàn, làm nên mặc khải chủ yếu của Tân Ước, hệ tại chỗ gán cho Chúa Giêsu một hành vi được coi như thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, trong Do thái giáo, không bao giờ việc tuôn tràn Thần khí được gán cho Đấng Messia: chỉ có Kitô giáo mới dám làm việc ấy. Đó cũng là chủ đề trong diễn từ của Phêrô ngày lễ Ngũ tuần: “Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy... Và bây giờ, Người đã lĩnh nơi Cha ơn đã hứa là Thánh Thần mà đổ xuống” (Cv 2, 32 tt).

8) Lời tuyên bố sau cùng của Gioan Tẩy Giả (c. 34) xác nhận và củng cố lối giải thích trên. Gioan Tẩy Giả tổng lược và tổng hợp chứng từ của ông trong công thức: “Vì đã thấy, nên tôi xin đoan chứng chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa".

Có một vấn đề phê bình văn bản được đặt ra cho câu này. Phần lớn các bản văn đọc là "Con Thiên Chúa" (“huios"). Một vài bản văn (như P 5, Sin., nhiều thủ sao của bản La-tinh cổ và Syri cổ, thánh Ambrôsiô) lại đọc: "Tuyển nhân của Thiên Chúa" ("eklektos"). Vài bản khác phối hợp cả hai cách: "Con được chọn" (electus Tilius).

Dầu cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa" ít được theo trong truyền thống thủ sao, nó cũng vẫn được một số lớn nhà chú giải giữ lại: Harnack, Loisy, Lagrange, Windisch, Cullmann, Van den Bussche, de la Potterie, Schnackenburg, Boismard, Brown, Barrett, Mollat... Theo Jeremias mục Pais (tou theo)", TWNT), cách đọc "Con Thiên Chúa" hình như đã thay thế cách đọc nguyên thủy “Tuyển nhân của Thiên Chúa" vào thế kỷ 4, để chống lại dưỡng tử thuyết trong Kitô học. Mặt khác, dựa trên nhiều khuynh hướng thần học, khó mà tưởng tượng rằng các sao lục viên Kitô giáo đã đổi tiếng “Con Thiên Chúa" thành "Tuyển nhân của Thiên Chúa", trong lúc một sự thay đổi theo chiều ngược lại xem ra khả dĩ hơn. Thành thử cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa" có thể nên giữ lại vì danh nghĩa là cách đọc khó hơn". Cách đọc “Con Thiên Chúa" có thể là do ảnh hưởng của các trình thuật Nhất lãm về phép rửa Chúa Giêsu.

Cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” xem ra quy chiếu về Is 42,1: nầy là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà hồn Ta sủng mộ. Ta đã đặt Thần khí Ta trên Người". Do đó Chúa Giêsu được chỉ định như là "Tôi tớ Giavê" mà nét phân biệt, như trong sấm ngôn Is 11,2 và trong trường hợp của ngôn sứ ở 61,1, là sự hiện diện của Thần khí Thiên Chúa "trên Người”, hiện diện để giúp thi hành sứ mệnh canh tân dân Thiên Chúa bằng cách dạy họ biết Lề luật Ngài. Việc ám chỉ Is 11,2, hàm chứa trong tiếng menein (lưu lại) của cc. 32.33, nhấn mạnh tính cách trường tồn và tràn đầy của việc Thần khí hiện diện trong Chúa Giêsu; còn việc ám chỉ Is 42,1 có lẽ nhắm mục đích nhấn mạnh trực tiếp hơn tính cách riêng biệt của sứ mệnh người là thanh tẩy "trong Thánh Thần" nghĩa là vãn hồi pháp luật, công bình và chân lý.

Nếu chấp nhận cách đọc "Tuyển nhân của Thiên Chúa", ta được một lối đóng khung rất đặc biệt cho cả phần 1, 29-34. Quả vậy, hình như công thức "Chiên Thiên Chúa" có thể được giải thích, ít ra một cách nào đó, khi đem quy chiếu về kiểu nói "Tôi tớ Thiên Chúa" của Is 42.9

Hãy giải thích đôi chút lời quả quyết vừa nêu. Nhiều tác giả tự hỏi phải hiểu chữ "Chiên Thiên Chúa" thế nào. Thông thường, người ta coi đó như một tiếng ám chỉ chiên Vượt Qua hoặc chiên hy tế của Đền thờ, hay "Tôi tớ Giavê" trong sấm ngôn Is 53,7, kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu trước thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta. Về chiên Vượt Qua hay chiên hy tế thường ngày, thật sự không có vấn đề liên hệ vì chẳng có chỗ nào gán việc đền tội cho chúng (Str-bill, II, 368).

Ngược lại, về phía bản văn Isaia, sự tương tự giữa nó với đoạn Gioan dựa trên hai nền tảng: trong cả hai bản văn hy vật được tượng trưng bằng một con chiên, mang lấy trên mình tội của thế gian (lập luận thường được dùng để bênh vực việc đồng hóa Chúa Giêsu với con chiên Vượt Qua). Dầu sao đó chỉ là tương tự trên ngoài mà thôi. Trong sấm ngôn Isaia, hình ảnh con chiên, con cừu không có mục đích nói lên tính cách hy vật, nhưng là nói lên sự dịu dàng tính chịu đựng, đức phục tùng của người Tôi tớ. Còn về việc đền bù thay thế tội lỗi, chắc chắn không dược thánh Gioan diễn tả ở đây. Động từ airoin (cất đi, cất lấy) của Gioan không tương đương với động từ pherein (mang lấy, gánh lấy trên mình) của Is 53,4. Và cũng nên ghi nhận là ý tưởng về một Đấng Messia đau khổ rất xa lạ với thiên sai chủ nghĩa đương thời. Chắc hẳn khó khăn này có thể vượt qua. Vì vị Tiền Hô có thể đã biết được trước mầu nhiệm cứu chuộc, hoặc nhờ suy niệm về sấm ngôn Isaia, hoặc nhờ một ân sủng đặc biệt, thích hợp với sứ mệnh. của ông. Nhưng quả là khó khi muốn làm cho một lời tuyên bố về sứ mệnh đền bù và cứu chuộc của Chúa Giêsu ăn khớp với các chứng từ khác của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả thường coi Đấng Messia như là vị thẩm phán chuyên việc quét sạch sân lúa của Người với một cái rê trong tay và phân biệt nghiêm nhặt người công chính với kẻ tội lỗi (Mt 3,12; Lc 24,17). Cho đến cuối đời, ông vẫn nóng lòng chờ đợi Người đảm nhận vai trò đó (Mt 11,2-3; Lc 7,18-19). Hơn nữa, nếu sự hy sinh cứu chuộc của Đấng Messia đã được công bố rõ ràng như thế ngay từ đầu, thì làm sao giải thích nỗi kinh ngạc của các sứ đồ khi nghe loan bác cuộc Tử nạn (Mc 9,32; Lc 24,21 v.v...)?

10) Khoa chú giải đã tự hỏi đâu là ý nghĩa riêng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trong các trình thuật Nhất Lãm. Thường người ta trả lời như sau: Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã để Thần khí chiếm đoạt. Thiên Chúa đã sử dụng Người, trang bị và ban cho Người- khả năng làm sứ giả của Ngài, làm kẻ xây dựng thời cứu độ. Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã học biết ơn gọi của Người vậy.

Còn trình thuật Gioan không đề cập tới phép rửa của Chúa Giêsu, đối với ông, việc gặp gỡ giữa Gioan Tẩy Giả với Chúa Giêsu trước hết là cơ hội của một cuộc thần hiện, nghĩa là của một cuộc mặc khải cho Gioan Tẩy Giả biết thiên sai tính thiêng liêng của Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này được vị Tẩy giả giải thích dưới ánh sáng của một lời thần linh (1,33); lời này, được thị kiến củng cố, đặt nền tảng cho chứng tá của ông về Chúa Giêsu và về công việc của Người. Trong viễn tượng của Tin mừng thứ tư, cảnh này có một tầm quan trọng căn bản, vì Gioan chỉ "đến" là để "làm chứng điều ấy" (1,7): "để Người được tỏ mình ra cho Israel" (1,31).

Israel ở đây chỉ Israel cánh chung, đích thực, nghĩa là các thành phần trong dân được xác nhận là đã sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Chính họ, qua chứng từ của Gioan Tẩy Giả, là đối tượng của mặc khải về Đấng được Thần khí "lưu lại" bên trên. Họ biết rằng từ nay Thần khí hiện diện, một cách thường xuyên và tràn đầy, trên Đấng Ngài đã “đáp xuống" và lưu lại: chính Người là Đấng rửa trong Thánh Thần. Với Người, thời đại mới đã được khai mạc.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Này là Chiên của Thiên Chúa": Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường "Con chiên Vượt Qua tiên trưng con Chiên mà Gioan Tẩy Giả làm chứng ở đây" phát xuất từ chính thánh sử, từ chính trình thuật Tử nạn (19, 36-37). Vì theo thời biểu của Gioan, Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ. Người ta lại còn phỏng đoán Gioan đã thay đổi thời biểu với chủ ý ngầm bảo độc giả rằng Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu Ước.

Từ ngày khám phá các thủ bản ở Biển Chết, vấn đề thời biểu trên lại được tranh luận hơn nữa. Nhưng hình như có thể bỏ qua. Thật vậy, lời giải thích mà chính thánh sử đưa ra về các hoàn cảnh của cái chết Chúa Giêsu tự nó đã dứt khoát. Đặc biệt ông thấy việc không bẻ gẫy xương (Ga 19,36b) và nhát lưỡi đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu Ước. Người ta bảo bản văn đầu đưa ta về lại một chi tiết đặc biệt trong pháp chế liên hệ đến chiên Vượt Qua trong Xh 12, 46 và Ds 9, 12. Nhưng ta cũng có thể thấy đó là một câu trích dẫn Thánh Vịnh 34, 2. Thật vậy, bản văn Gioan tương hợp với bản văn Thánh vịnh hơn nhiều. Lại nữa, ngoại trừ câu 19,37 (= Dcr 12, 10), 6 câu trích dẫn khác trong phần 2 của Gioan đều xuất phát từ sách Thánh Vịnh. Nhận xét này cho ta một dấu hiệu đáng lưu tâm. Ngoài ra, ý tưởng được trình bày trong Thánh Vịnh đặc biệt ăn khớp với bản văn ta đang nghiên cứu và với toàn thể thần học Gioan. Thật vậy, Thánh Vịnh quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Trong Ga 19, Chúa Cha không để cho thân xác Chúa Giêsu ra hư hoại do việc đánh gãy xương, vì nó cần phải nguyên vẹn để được phục sinh. Vào giờ chết, trong lúc Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn bị ruồng rẫy, thì Chúa Cha không bỏ rơi Người: Gioan thích diễn đạt tư tưởng ấy (8,29; 16,32). Cái ý tưởng sự chết dẫn đến chiến thắng đó cũng nằm trong câu trích dẫn Dcr 12,10. Bản văn Hy Bá nguyên thủy kém sáng sủa, nhưng câu trích dẫn trong Gioan không có gì mơ hồ. Các kẻ đâm Chúa Giêsu sẽ phải nhìn lên Người, như nhìn một vị chiến thắng, để đón nhận từ Người, từ cạnh sườn họ đã đâm thâu, ơn cứu độ nhờ nước và máu, biểu tượng của phép Thanh Tẩy và Thánh Thể.

Thành thử hai câu trích dẫn của Ga 19, 36-37, điều hợp với nhau, hình như không đưa ta đến sự song đối kiểu mẫu với con chiên Vượt Qua; trái lại chúng ám chỉ tới khuôn mặt người Tôi tớ đau khổ và được tôn vinh nhờ nỗi khổ đau của mình.

"Đấng khử trừ": Động từ Hy Lạp airoin có nghĩa là nâng lên và do đó có nghĩa là mang lấy, gánh lấy trên mình hoặc mang đi, cất đi, làm biến đi. Ga thường sử dụng động từ theo nghĩa sau cùng (x. 2, 16; 5, 8- 12; 10, 18; 1 Ga 3, 5).

"Tội thế gian": Kiểu nói số ít này nhắm toàn thể các tội lỗi của thế gian trong trương độ và hàm súc của chúng.

KẾT LUẬN

Cho đám đông tội lỗi mà ông đã dẫn đến chỗ ý thức các tội phạm của mình cùng ao ước một sự thanh tẩy đích thực mà phép rửa bằng nước của ông không thực hiện được, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu như kẻ được chỉ định để ban ơn cứu độ thiêng liêng đích thực bằng cách thực hiện các sấm ngôn về người Tôi tớ khổ đau: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội thế gian” hay nói cách khác: đây là người Tôi tớ thời danh của Thiên Chúa, Đấng sẽ chấp nhận từ bàn tay Thiên Chúa, cách ngoan ngoãn và vô tội như một con chiên, mọi thử thách cần thiết để cứu rỗi các tội nhân.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Gioan Tẩy Giả nói đến một người tên là Giêsu. Đấy chẳng có gì lạ lùng, mặc dù đức tin của ta vào Chúa Kitô thường hay bỏ quên mầu nhiệm nhập thể. Khi nghĩ tới Người, ta dễ hình dung ra một loại nhân vật thần thoại, không phải người cũng chẳng phải Thiên Chúa, hoàn toàn đứng riêng ra, thoát khỏi sự truyền nhiễm của tội ác, là do đấy được ưu đãi đến độ không còn gì chung với chúng ta nữa. Thế mà, khởi điểm của chứng tá ta nghe hôm nay chính là: con người Giêsu ấy đã được sinh ra từ một người nữ như bao kẻ khác, "đã được Thiên Chúa nắn đúc từ lòng mẹ” như Isaia xác định (49,5), vì sự che chở đặc biệt không bớt đi tí gì thực tại nhân loại của Người. Nhưng con người ấy có một định mệnh đặc biệt: Isaia sẽ gọi Người là "Tôi tớ". Gioan Tẩy Giả còn cho Người tước hiệu lạ kỳ hơn: "Chiên Thiên Chúa". Và ông làm điều ấy một cách cụ thể, rõ ràng: khi Chúa Giêsu đi qua, Gioan Tẩy Giả chỉ Người mà bảo: "Đây là Chiên Thiên Chúa".

2. Hai thành ngữ "Tôi tớ " và "Chiên Thiên Chúa", dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ vừa là Đấng vô tội vừa bị con người trừng phạt như một tội nhân. Khi gọi Người như vậy, Isaia và Gioan Tẩy Giả muốn công bố sự công chính, đức vâng phục lệnh Thiên Chúa và định mệnh hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của ông, Phêrô sẽ nói "máu của Người châu báu như máu con chiên vô tật vô tì" (1Pr 1,19). Chúa Giêsu là người công chính sẽ trả nợ cho nhân loại, sẽ bị vây bắt, hành hạ và giết chết bởi những kẻ Người đến cứu vớt. Khi gọi Người như Con Chiên và Tôi tớ của Thiên Chúa, hai vị ngôn sứ đều muốn bảo Người là kẻ thừa kế, là kẻ thực hiện mọi lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.

3. Đó là điều Gioan Tẩy Giả khám phá lúc bấy giờ khi giải thích cho ta hay làm sao ông đã "nhận biết" Chúa Giêsu. Dù là anh em họ, ông đã không biết Người trong chính thực thể của Người. Nhưng Chúa Thiên Chúa đã cho ông một dấu hiệu: "Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người...". Và Gioan đã tuyên bố: tôi đã thấy Thần khí, như một chim câu, từ trời đáp xuống và lưu lại trên Người. Rồi tiếp đó ông thản nhiên bảo: tôi đã thấy và xin đoan chứng: chính người là “Tuyển nhân của Thiên Chúa". Việc mô tả Chúa Giêsu dần dà trở nên rõ hơn dưới sự linh ứng của Thiên Chúa: "Chúa Giêsu là Tuyển nhân của Thiên Chúa". Về sau thánh Phaolô sẽ gọi Người là "Chúa chúng ta, Chúa của họ cũng như của chúng ta" (1Cr 1,2). Kể từ lời khẳng quyết này, các từ ngữ không thể đi xa hơn nữa và trí óc của ta chỉ còn có thể tìm những tiếng tương đồng, những thành ngữ cắt nghĩa được nhiều hay ít những gì vừa nói mà thôi.

4. Chúa Giêsu là một con người, một ngươi công chính bị hiểu lầm, bị khai trừ và sau cùng bị giết bỏ; và Đấng công chính ấy là Chúa của nhân loại. Đó là lời khẳng định chính yếu ban bố cho ta hôm nay, một lời khẳng định dị thường đến nỗi khó tưởng tượng rằng có một ai khác đã sáng tác ra, trừ phi được chính Thiên Chúa soi sáng.

5. Gioan Tẩy Giả lại giải thích điều ấy trong một ngôn ngữ khá lạ lùng. Ông nói đến Đấng tới sau ông. Đó là Chúa Giêsu, trẻ hơn ông một chút, nhưng chưa ai biết tên tuổi, trong lúc ông, Gioan, đã nổi tiếng như cồn khắp xứ Palestine và đã thành công rực rỡ. Đấng ấy vượt lên trước ông, vì Người ngày càng trở nên quan trọng trong lúc ông, với nhiệm vụ giới thiệu Người, sắp dần dần lui vào bóng tối. Phải như vậy "vì Người đã có trước tôi". Thành ra không phải nhờ nhân đức, quyền năng chữa bệnh hay tài hùng biện của Người, nhưng là nhân bản tính của Người vậy. Mặc dầu sinh sau Gioan, Chúa Giêsu đã hiện hữu trước ông. Gioan biết điều đó nhờ một ơn soi sáng đặc biệt và ông đã nói ra cho mọi người.

6. Gioan Tẩy Giả dùng hai thành ngữ khác nhau để nói về sứ mệnh của Chúa Giêsu: "Người khử trừ tội thế gian" và "Người thanh tẩy trong Thánh Thần". Người khử trừ, Người cất đi tội lỗi như thể đó là một gánh nặng, một chướng ngại. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ này gởi lên hình ảnh Chúa Kitô đến thực hiện một cuộc giải phóng và cho thấy con người như thể bị giới hạn trong tư tưởng hay trong hành động bởi những trở ngại nặng nề cản ngăn họ đi đến cùng đích số mệnh. Vì thế Chúa Kitô đến cất đi các xiềng xích đang trói buộc trái tim con người trong ích kỷ, tham vọng, chai đá, nhục dục, ghen tương, oán hờn, thụ động. rồi "Người thanh tẩy trong Thánh Thần". Chúng ta biết rằng hạn từ "thanh tẩy" có nghĩa là: dìm sâu.

Chúa Kitô sắp tái tạo con người bằng cách dìm nó trong Thần khí Thiên Chúa, bằng cách làm cho nó thấm nhuần Thánh Thần của Ngài. Nhờ vậy, con người sẽ được biến đổi một cách sâu xa; ta có thể bảo rằng sở dĩ nó được cứu, là vì nó đã bị hủy tiêu và thay thế bằng một kẻ khác dầu sao vẫn tốt hơn chính nó.

7. "Phần tôi, tôi đã không biết Người". Câu này giúp ta nhìn sâu vào định mệnh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền hô đã làm việc, đã rao giảng một thời gian lâu dài, trong ý thức đơn sơ là vâng theo một sứ mạng, thế mà chẳng biết Đấng mình loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của ơn gọi đích thực? Ai có sứ mệnh dọn đường cho Chúa Kitô đến trong một tâm hồn, trong một môi trường, trong thế giới, đừng tưởng rằng mình sẽ biết chắc Chúa Kitô đứng đấy. Không! Phải nhẫn nại làm việc trong đức tin và để mặc Chúa chọn thời cơ thuận tiện để biểu lộ dấu chỉ của việc Thần khí đáp xuống. Nếu lòng trung thành nhẫn nại của Gioan Tẩy Giả sau cùng đã được ân thưởng bằng thị kiến ở sông Giođan, thì lòng trung tín của ta cũng sẽ được ân thưởng bằng một sự hiểu biết ngày càng sống thực hơn về Chúa, và sau cùng bằng thị kiến diện đối diện với Đấng mà chúng ta vẫn hằng mong gặp.

 

62. Tất cả để vinh danh Chúa hơn

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Có một câu chuyện kể về bản di chúc của một người sắp quá cố, trong đó có đoạn viết: “Khi tôi chết, xin đừng ghi tên tuổi, chức nghiệp của tôi qua tấm bia nơi phần mộ, nhưng hãy ghi rằng: ‘Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời. Những gì thuộc về tôi nay không còn nữa. Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi’”. Thật tuyệt vời khi không nghĩ gì cho mình, mà chỉ còn nghĩ đến người khác, ngay cả lúc chết!

Hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả sau khi đã trả lời cho các Tư tế và thầy Lêvi về thân thế, vai trò của mình, ông đã lợi dụng cơ hội này để giới thiệu cho họ biết về Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi.

Thật vậy, Gioan Tẩy Giả đã không ham hố quyền lợi, uy tín, công danh, vì thế, khi ông thấy Đức Giêsu tiến về phía mình thì đã hô lên và chỉ cho mọi người biết về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).

Khi nói như thế, Gioan đã thực sự khiêm nhường khi nhận mình chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nay Đấng ấy đến, ông không ngần ngại reo lên để mọi người biết và tin theo Ngài! Đồng thời ông cũng trao lại cho Đức Giêsu tất cả mọi sự từ uy tín, đến sứ vụ...

Chính sự khiêm tốn đó, Gioan đã để lại cho muôn thế hệ tấm gương sáng ngời về sự khiêm tốn.

Noi gương thánh Gioan, mỗi người chúng ta hãy sống chân thành, khiêm tốn, không quá coi trọng những lời khen ngợi, không nên tự mãn lúc thành công khi được người đời ca tụng, lại càng loại trừ thói kiêu ngạo, tính bề trên kẻ cả ra khỏi đời sống đạo của mình.

Mặt khác, hãy biết trả lại cho anh chị em chúng ta những nét đẹp mà họ đang có, tránh sự hiềm khích mà trù dập uy tín, danh dự của họ.

Nhưng có lẽ, điều quan trọng nhất chính là quy chiếu về Thiên Chúa mọi sự thành công của chúng ta và không ngừng tri ân, cảm tạ Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, sự khiêm nhường, đơn sơ của Chúa mời gọi chúng con thay đổi nếp sống cũ là nếp sống kiêu ngạo, khoe khoang, để thay vào đó là một nếp sống Tin Mừng mà chính thánh Gioan là người đã sống và loan báo.

Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại cho chúng con hạnh phúc khi mỗi người luôn tìm vinh danh Chúa trong mọi sự. Amen.

 

63. Sống và làm chứng để loan báo Đức Giêsu

(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Trong một dịp ghé thăm điểm truyền giáo của các cha dòng Chúa Cứu Thế tại Chư Sê - Gia Lai, tôi được gặp một linh mục đáng kính cả về tuổi đời lẫn tuổi truyền giáo tại khu vực này. Trong buổi chia sẻ, ngài nói: "Tôi nhớ những năm đầu tiên đến điểm truyền giáo này, tôi gặp phải không ít khó khăn ở đây. Có những khó khăn rất tế nhị. Nhưng có lẽ khó khăn hơn cả là lòng dân ở đây sẵn có tục lệ và tín ngưỡng lâu đời, nên họ khó chấp nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên, dần dần, một phần vì tò mò, một phần vì cảm nghiệm được lối sống của các vị thừa sai, nên có một người anh em dân tộc đến hỏi về đạo". Họ hỏi: "Tại sao ông lại sống như thế?" Vị linh mục trả lời: "Tao sống như vậy là vì Chúa của tao dậy tao sống thế!" Họ hỏi tiếp: "Vậy Chúa của mày là ai? Có thương bọn tao không?" Ngài trả lời: "Có chứ!" Anh bạn đó tiếp: "Vậy Chúa của mày là ai?" Không chần trừ, vị thừa sai trên Miền Thượng này đã đưa cho họ hình ảnh cây Thánh Giá có tượng Chúa chịu đóng đinh và nói: "Chúa của tao đây. Vì yêu thương, Ngài luôn bênh vực những người nghèo, chống lại những kẻ áp bức, bóc lột, nên bị chết như thế này đấy". Anh bạn người dân tộc đó gật gù và nói: "Nếu Chúa của mày tốt như thế và yêu thương bọn tao thì tao sẽ về và nói cho bản của tao, nó đến và mày giới thiệu về Chúa của mày cho chúng nó nghe nhé". Vị linh mục đó nói "Sẵn sàng", và một ngày gần đó, ngài đã rửa tội cho hàng ngàn người. Tính đến thời điểm này, mỗi vị thừa sai trên Miền Thượng từ những giai đoạn đầu đến nay đã rửa tội được khoảng trên dưới 40.000 người.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một vị ngôn sứ mà có lẽ không ai mà không biết đến, ông đã giới thiệu cho dân chúng về Đấng luôn yêu thương họ, Đấng ấy đã được tiên báo từ lâu, Ngài là: "Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1,29). Vị ngôn sứ đó là chính Gioan.

1. Chiên Thiên Chúa là ai?

Chiên Thiên Chúa mà Gioan hôm nay loan báo chính là vị Tôi Tớ, hiền lành, khiêm nhường và chịu đau khổ mà trong Cựu Ước, tiên tri Isaia đã tiên báo. Ngài được ví như: "Con chiên bị đem đi giết mà không một lời oán trách thở than".

Còn tiên tri Giêrêmia thì dùng chính hình ảnh của mình để tiên trưng về một Đấng Mêsia, là Cứu Chúa của nhân loại khi nói: "Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều ác chống lại tôi".

Hình ảnh con chiên gợi lên sự hiền lành, dễ dạy, thậm chí có vẻ quá yếu đuối và dễ bị đàn áp.

Những lời loan báo và hình ảnh đó hôm nay được Gioan vén mở cho dân thấy khi nói: "Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian"(Ga 1,29). Ngài quả là Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê.

Gioan mạnh dạn và giới thiệu cho dân chúng về sứ vụ của Đấng Mêsia như vậy là vì ông đã được mặc khải cho biết: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần". Ngài đến để cứu chuộc con người và là Đấng xóa tội trần gian.

Tuy nhiên, để hiểu được Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa bỏ tội trần gian, thì trước tiên phải hiểu được hình ảnh con chiên trong Cựu Ước.

Con chiên trong Cựu Ước được biết đến như là một lễ vật để đền tội thay cho dân. Trong sách Xuất Hành, con chiên được nói đến nhiều hơn cả. Theo truyền thống Tư tế, thì hằng ngày, người ta sát tế hai con chiên, một con buổi sáng và một con ban chiều. Khi sát tế như thế, họ dâng nó lên Giavê để cầu xin ơn tha tội cho mình và đồng loại (x. Xh 29,38-42). Hình ảnh con chiên mang tội của dân được diễn tả khi kẻ có tội tiến đến bên cạnh con chiên chuẩn bị để làm của lễ, úp hai tay mình lại và đặt lên đầu chúng. Sau đó, vị Tư tế đại diện cho người có tội sẽ sát tế con chiên đó hoặc thả chúng vào rừng. Trong truyền thống của người Do Thái thì đây là hình thức xóa tội cho mình và anh em: "Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng , con kia vào buổi chiều"(Xh 29,38-39).

Khi giới thiệu Đức Giêsu là "Chiên Thiên Chúa", một mặt Gioan muốn nói đến sứ vụ của Đức Giêsu là Đấng đền tội cho dân, mặt khác, ngài muốn nói đến vai trò cứu chuộc của Đức Giêsu nữa. Dưới tước hiệu "Chiên của Thiên Chúa", Đức Giêsu chính là Đấng vô tội và thánh thiện, dưới tước hiệu "Đấng xóa tội trần gian", Ngài chính là Đấng đã được Cựu ước loan báo như là Vị Tôi Tớ đau khổ, trung thành và chết thay và đền tội cho dân.

Nếu Đức Giêsu không phải là Chiên vô tội thì không thể cứu chuộc được nhân loại. Ngài là Đấng thánh thiện, tinh tuyền, khiêm tốn và tự hủy cho nên Ngài đã trở thành Vị Tôi Tớ của Giavê mà tiên tri Isaia đã loan báo, là Đấng xóa bỏ tội trần gian.

Chính nhờ Đấng Trung Gian đã giao hòa thế gian với Thiên Chúa bằng chính cái chết của mình nên Ngài đã trở thành Ađam mới, đã hoàn tất sứ mạng của mình bằng con đường hy sinh, gánh lấy tội lỗi của cả nhân loại để rồi đem lên trên cây thập giá và cùng với của lễ là chính bản thân để đền tội và tẩy xóa cho nhân loại.

2. Sứ điệp Lời Chúa

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Gioan được hiện lên như là một nhân chứng vĩ đại của Đức Giêsu, bởi vì ông đã thấy và ông xin làm chứng: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian".

Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng được đón nhận sứ mạng ngôn sứ này ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Vì thế, chúng ta cũng phải giới thiệu Chúa cho người khác.

Thật vậy, mỗi người mỗi hoàn cảnh, chẳng ai giống ai, nhưng chúng ta đều chung một sứ mạng là làm chứng cho Chúa. Lời chứng ấy cũng có thể bằng gương sáng, là men là muối trong đời sống thường ngày.

Thật vậy, nếu là ông chủ, hãy cư xử với nhân viên cách công bằng; nếu là công nhân, hãy làm việc vì bổn phận và tránh sự bất cẩn để thiệt hại cho người khác; nếu là bác sĩ, hãy sống đúng với lương tâm một vị: "Lương y như từ mẫu". Đừng vì tiền, vì chiếc ghế chức quyền mà đi ngược lại với bản chất để đang tâm giết chết những thai nhi vô tội; nếu là thầy cô giáo, hãy dạy cho con em sự thật thà, thay vì nói dối, dạy cho con em: "Tiên học lễ - hậu học văn"; nếu là quan trường thì hãy yêu thương dân, không đàn áp, bóc lột và tham nhũng để dân phải đói khổ và ân hận...

Tuy nhiên, hãy học cách giới thiệu của Gioan, ông đã luôn sống sự khiêm nhường thẳm sâu để cho Đức Kitô được nổi bật lên. Chúng ta cũng vậy, muốn chu toàn sứ vụ tốt đẹp, chúng ta cũng không còn cách nào khác bằng cách khiêm tốn, hiền hậu để khuôn mặt của Đức Giêsu được lộ hiện lên trên khuôn mặt, qua những công việc của chính chúng ta. Amen.

 

64. Làm chứng cho Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)

Trong các phiên tòa luôn có những nhân chứng, người ta cần nhân chứng để làm chứng nhân cho các cuộc điều tra xét xử. Thế nhưng, độ đáng tin của những người làm chứng ở mức độ nào mới là điều cần quan tâm. Có nhiều chứng giả dối, có những người làm chứng vì lợi ích của mình hoặc phe nhóm mình. Có những người không dám làm chứng dù biết đó là sự thật. Chứng của Gioan hoàn toàn khác với con người. Ông là người chính trực, uy tín, không luồn cúi, không xu nịnh. Thế nên dân Do Thái kính phục ông, họ tin ông và ông đã minh chứng cho họ: Đức Giê-su mới là Đấng Thiên sai muôn dân hằng mong đợi.

Đây chiên Thiên Chúa…

Hình ảnh con chiên bị sát tế mà Isaia đã nói đến trong cựu ước: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Tiên tri Giê-rê-mi-a cũng nói về Đấng cứu thế như sau: “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: "Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa!” (Gr 11,19). Máu chiên bò đổ ra để chuộc tội thay cho con người. Người ta bắt chiên sát tế rồi rảy máu lên mình để rửa sạch tội lỗi. Con chiên chết thay cho con người. Con vật vô tội đã gánh tội cho toàn dân. Hình bóng của con chiên mà dọc dài trong cựu ước đã được các tác giả kinh thánh ghi nhận thì đây, trong giáo ước mới là Tân ước, Thánh Gioan đã chỉ cho dân Do Thái, con chiên bị sát tế chính là Đức Giê-su Ki-tô: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).Ngài là chiên vô tội đã bị hiến tế vì anh em, Ngài là Đấng mà Gioan Tẩy giả đã chỉ cho thấy khi xuất hiện, và dù có được làm phép rửa cho Chúa Giê-su thì Gioan cũng đã khẳng định: Ngài đến sau tôi, nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi. Chiên Thiên Chúa, một cụm từ nối kết giữa hai quan niệm của: Cựu ước và Tân ước, những gì trong Giao ước củ chưa thành toàn thì nay Giao ước mới đã kiện toàn trong Ngôi Hai Thiên Chúa: Đấng Messia mà muôn dân đợi mong.

Đấng xóa tội trần gian…

Con người bất tuân, tội lỗi xâm vào và đã làm cho con người vấp ngã. Trước mỗi tòa án, những tội nhân đều có luật sư bầu chữa. Con người lấy ai đây để làm trạng sư trước tòa phán xét của Đấng ngàn trùng chí Thánh. Máu chiên bò là không thể, một ai đó trong dân đứng lên để biện hộ, cũng không xong. Chỉ có Đấng từ trời, và Đấng ấy không ai xa lạ mà chính là từ cung lòng của Cha là Đức Giê-su Ki-tô. Ngài đền thay tội lỗi cho muôn dân. Đấng mà Cai-pha đã nói tiên tri: “ Thà một người phải chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 18, 14). Hình ảnh con chiên hiền lành đã được cô đọng lại trong cái chết của Chúa Giê-su, Ngài vô tội mà đã gánh tội lỗi nhân gian.

Cùng với Gioan, mỗi người cũng được mời gọi tham dự vào ba chức vụ: tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giê-su trong ơn gọi của của mình. Như là một điều kiện ắt phải có khi giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh, thánh Gioan Tẩy giả làm chứng và giới thiệu Chúa cho hết thảy mọi người. Người Ki-tô hữu cũng can đảm làm chứng và chỉ Chúa Giê-su đang đi đến với nhân loại trong từng ngõ ngách của đời mình.

 

home Mục lục Lưu trữ