Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1446240

BÌNH MINH CỦA MỘT THỜI ĐẠI MỚI

BÌNH MINH CỦA MỘT THỜI ĐẠI MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Các kitô hữu đầu tiên đã cảm thấy rất hạnh phúc vì được gia nhập gia đình Giáo Hội. Mỗi ngày Chúa nhựt, họ họp nhau lại trong tâm tình kính mến Chúa và yêu thương nhau. Gương đoàn kết yêu thương của họ đã thu hút thêm rất nhiều người xin gia nhập Giáo Hội.

Hôm nay, chúng ta cũng họp nhau lại như cộng đoàn kitô hữu đầu tiên ấy. Nhưng có lẽ chúng ta không cảm thấy hạnh phúc bằng họ, vì chúng ta không mến Chúa bằng họ, không thương nhau bằng họ. Xin Ðức Giêsu, Ðấng đã tập họp chúng ta, ban thêm tình yêu trong lòng chúng ta.

Ðặc biệt tuần này là tuần lễ Giáo Hội cầu nguyện cho sự hợp nhất các kitô hữu. Chúng ta tha thiết nài xin Chúa cho những người cùng tin một Chúa Kitô biết đoàn kết yêu thương nhau hơn.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

  • Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì những chia rẽ, đố kị, ganh ghét trong cộng đoàn họ đạo chúng ta.
  • Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì cuộc sống của chúng ta chưa thực sự là ánh sáng trước mặt muôn dân.
  • Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì chưa quan tâm mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc 1: Is 8,23–9,3

Bối cảnh lịch sử: năm 721, đế quốc Assyria chiếm miền Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, về sau được gọi là miền Galilê, trong đoạn Tin Mừng này nó được gọi là “đất Dabulon và Néptali”). Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác đến lập cư ở xứ này, vì thế Galilê lại được gọi là vùng đất của lương dân, là vùng đất tối tăm.

Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày Ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó, và đám dân lầm than trong bóng tối ấy sẽ được ánh sáng chiếu rọi.

*2. Ðáp ca: Tv 26

Ý chính của Tv này là ánh sáng hy vọng loé lên từ cảnh khốn cùng: cho dù khốn khổ có nặng nề đến đâu, thử thách có khắc nghiệt thế nào, thì vẫn có một điều chắc chắn, đó là: Thiên Chúa vẫn là ánh sáng và ơn cứu độ. Ðó chính là niềm hy vọng của mọi tín hữu khiến họ luôn đứng vững: “Chúa là nguồn ánh sáng và Ðấng cứu độ tôi. Tôi sợ gì ai nữa”.

*3. Tin Mừng: Mt 4,12-23

Ðoạn Tin Mừng này đánh dấu kết thúc sứ mạng của Gioan Tẩy giả và bắt đầu sứ mạng của Ðức Giêsu. Ðức Giêsu bắt đầu sứ mạng tại Galilê, một miền đất vốn được coi là tối tăm, là đất của lương dân. Chính tại miền đất này, Ðức Giêsu tuyên bố “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Như thế, Ðức Giêsu thực hiện lời tiên tri của Isaia.

Ðức Giêsu cũng kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan) để cùng Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

*4. Bài Thánh Thư: 1 Cr 1,10-13.17

Sau khi mở đầu bức thư bằng những lời chào hỏi (đoạn được trích đọc Chúa nhựt trước), Phaolô đi ngay vào tệ nạn thứ nhất của tín hữu Côrintô là sự chia rẽ nhau.

  • Tín hữu Côrintô đã chia ra thành 4 nhóm, mỗi nhóm dựa vào một thừa sai và chống lại các nhóm kia: nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apollô, nhóm theo Phêrô (Kêpha) và nhóm theo Ðức Kitô.
  • Phaolô lập luận để cho thấy việc chia bè phái như thế là sai: tất cả đều thuộc về Ðức Kitô, mà Ðức Kitô không thể bị chia năm xẻ bảy như thế. Và Phaolô kêu gọi họ hãy hòa thuận, một lòng một ý với nhau.
  1. GỢI Ý GIẢNG

*1. Cuộc phiêu lưu vĩ đại từ một vùng đất bị khinh khi

Ðối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ. Ðối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Ðó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…

Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Ðức Messia, Cứu Chúa, Ánh Sáng muôn dân, tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ…

Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Ðức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Ðúng là một nước cờ ngược lại mọi logic.

Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Ðấng là “đường, sự thật và sự sống”.

Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ… Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người.

Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa… (F. Delectos, được trích bởi Fiches dominicales, trang 169-170).

*2. Con đường sáng

Cuộc đời chúng ta đầy dẫy bóng tối:

  • tối tăm về sự thật: cho dù có nhiều phương tiện truyền thông, Nhưng khó mà biết sự thật.
  • tối tăm về tương giao: ngay cả những người sống cạnh nhau cũng chưa hiểu nhau.
  • tối tăm do tội lỗi, do mù quáng, do cố chấp hẹp hòi…
  • tối tăm do hoàn cảnh bên ngoài nhiều bất công, gian dối, thù hận…

Trong khung cảnh tối tăm ấy, chúng ta hãy nhớ những lời của Ðức Giêsu: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 9,12); “Hãy tin vào ánh sáng và các ngươi sẽ trở thành con cái sự sáng” (Ga 12,36).

Nhưng tin vào ánh sáng là gì? Là tin vào mặc khải của Ðức Giêsu, cũng như 4 môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã nghe tiếng gọi của Ngài, đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài sẽ giải đáp cho tất cả những băn khoăn thắc mắc của chúng ta; Ngài sẽ cho ta biết ý nghĩa cuộc đời ta là gì; Ngài cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha trên trời hết lòng yêu thương chúng ta; Ngài sẽ dạy cho chúng ta biết sống yêu thương như thế nào; và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Cha trên trời.

*3. Sự hiệp nhất các kitô hữu

Chúa nhựt hôm nay nằm trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay cung cấp nhiều chất liệu cho chúng ta suy nghĩ về sự hiệp nhất này:

  • Bài đọc 1: Ðức Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những người lương và những người vô thần…
  • Bài đọc 2: Ðức Giêsu đã chịu chết vì mọi người và cho mọi người. Nếu các kitô hữu chia rẽ nhau thì chẳng khác gì Ðức Giêsu bị chia năm xẻ bảy sao!
  • Bài đáp ca: “Ðiều tôi tìm kiếm khấn xin, là luôn được ở trong nhà Chúa tôi”. Tại sao những anh em cùng tin Ðức Kitô lại không sống hòa thuận với nhau trong cùng một ngôi nhà của Chúa?
  • Bài Tin Mừng: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Tất cả mọi người, dù là công giáo hay tin lành, chính thống v.v. đều phải sám hối về những tội lỗi của mình để có thể được vào Nước Chúa.

*4. Chuyện minh họa

“Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng”

a/ Làm phép nhà

Một bà kia mời linh mục đến làm phép nhà mình. Bà hướng dẫn cha đi rảy nước thánh mọi nơi trong nhà: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, phòng ăn… Cha thấy chỗ nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Cho nên chỗ nào cha cũng rảy nước thánh, kể cả cầu thang. Ngay cả hai con mèo đang nằm ngủ trên một bậc thang cũng được cha rảy nước thánh, khiến nó giật mình thức dậy kêu meo meo và chạy vội đi nơi khác, và mọi người hiện diện phải phì cười.

Sau khi làm phép xong mọi nơi ở nhà trên thì đến hầm kho. Bà chủ nhà chần chừ không muốn dẫn cha xuống. Vị Linh mục hỏi:

– Sao thế? 

– Dưới đó dơ lắm.

– Càng dơ thì càng phải làm phép chứ.

– Nhưng nó lộn xộn lắm.

– Càng lộn xộn càng phải làm phép.

– Và nó tối tăm lắm.

– Cho nên phải mang ánh sáng đến cho nó.

Lời bàn: Con người chúng ta cũng giống như một gian nhà. Những nơi mình muốn che giấu nhất chính là những nơi tối tăm xấu xa nhất. Nhưng đó cũng là những nơi cần mang ánh sáng tới nhất.

b/ Mang ánh sáng đến chỗ tối tăm

Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.

Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Ðèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:

– Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?

– Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai. 

– Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?

– Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.

Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:

– Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT: Anh chị em thân mến

Ðức Giêsu là ánh sáng trần gian. Ai theo Người sẽ không phải đi trong bòng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Với quyết tâm sống như con cái sự sáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

  1. Ðức Kitô đã dùng các tông đồ làm nền móng xây dựng Hội Thánh / và đã làm cho Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết chu toàn sứ mạng Chúa trao cho / là nhiệt thành và khôn ngoan lãnh đạo dân Chúa.
  2. Từ hai ngàn năm nay / có biết bao kitô hữu đã nhiệt tình đáp lại lời mời gọi của Ðức Kitô / hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ / xả thân phục vụ những kẻ bần cùng đói rách / cũng như những người bất hạnh nhất trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn giữ được niềm phấn khởi lúc ban đầu.
  3. Chúa Giêsu kêu gọi / “Anh em phải sám hối vì Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / sám hối là việc phải làm thường xuyên suốt cả cuộc đời / nếu muốn được hiệp thông với Thiên Chúa / vì mang lấy thân phận con cháu Ađam / con người rất dễ phạm tội mà khó làm việc lành.
  4. Thánh Phaolô viết / “Anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói / và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em / nhưng hãy sống hòa thuận / một lòng một ý với nhau” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn cố gắng thực hiện trọn vẹn lời khuyên tha thiết của Thánh Phaolô tông đồ.

CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã gọi chúng con làm môn đệ Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin&

*VI. TRONG THÁNH LỄ

– Kinh Tiền Tụng: Nên dùng Kinh Tiền Tụng Chúa nhựt thường niên I, vì có nói tới Giáo Hội, Nước Trời ở trần gian.

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong tâm tình hiệp nhất với Ðức Giêsu và với tất cả những kitô hữu khác cùng một niềm tin vào Ngài.

*VII. GIẢI TÁN

Anh chị em đã được ánh sáng Ðức Giêsu soi sáng, anh chị em hãy cố gắng sống như con cái sự sáng, và cùng Ðức Giêsu xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian này.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN-A

VẦNG ĐÔNG ĐEM LẠI ƠN CỨU ĐỘ- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Trong thời chiến tranh, thỉnh thoảng có trường hợp hai đạo quân đối đầu với nhau trong đêm tối và họ đã phải giao chiến rất ác liệt trong bóng đêm dày đặc. Ban đầu, khi khoảng cách đôi bên còn khá xa thì họ giao tranh bằng tiểu liên và đại pháo. Sau đó, khi hai bên xáp lại gần nhau thì phải áp dụng chiến thuật cận chiến, dùng dao găm, lưỡi lê để sát hại nhau cách dã man tàn bạo. Số thương vong của đôi bên tăng cao khủng khiếp.

Thế rồi, cuộc giao tranh dịu dần vì cả đôi bên đều sức tàn lực kiệt, số quân sống sót chẳng còn bao nhiêu. Đến khi mặt trời ló dạng, hai bên mới nhận ra nhau là hai tiểu đoàn bạn, tuy khác binh chủng, khác màu cờ sắc áo, nhưng cả hai đều là những chiến sĩ của cùng một quốc gia, cùng chiến đấu để bảo vệ một quê hương, một tổ quốc chung!

 Bóng đêm bao phủ khiến hai đội quân trên đây không nhận ra nhau là bạn để rồi tàn sát nhau khốc liệt đúng là một thứ bóng tối tử thần, bóng tối gieo rắc chết chóc đau thương.

Giá như không có bóng tối nầy, thì hai đội quân đâu có tiêu diệt nhau. Giá như vầng đông xuất hiện sớm hơn thì thương vong của đôi bên đâu có đến nỗi nhiều đến thế !

 Vầng Đông được loan báo sẽ xuất hiện trên thế gian

Bóng tối tử thần đem lại chết chóc trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của một thứ bóng tối khác đáng khiếp sợ hơn, đó là sự vô minh của con người, là không nhận ra đồng loại là anh chị em con cùng một Cha với mình nên người ta đã xem kẻ khác là thù địch và giao chiến với nhau không ngừng trong suốt dòng lịch sử.

Để xoá bỏ sự vô minh và ngộ nhận đáng tiếc nầy, “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)

 Chúa Giê-su chính là Vầng Đông mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để xoá bỏ bóng tối tử thần đã thực sự xuất hiện như lời tiên báo của ngôn sứ I-sai-a, như trích đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy :  

“Chúa Giê-su rời bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói: “Hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4, 12-17)

Quả vậy, Chúa Giê-su chính là “Ánh Sáng huy hoàng” chiếu rọi cho “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” để họ không còn ngộ nhận người bên cạnh là kẻ thù cần phải tiêu diệt; để họ nhận ra mọi người chung quanh là những anh chị em rất thân yêu, con cùng một Cha trên trời. Được như vậy, thế giới nầy sẽ không còn cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn, không còn cảnh xung đột chiến tranh khói lửa ; trái lại, tình yêu thương thuận hoà sẽ rực sáng và bao trùm nhân loại.

 Lạy Chúa Giê-su,

Chúa phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12)

Xin cho ánh sáng của Chúa bừng sáng lên trong tâm  hồn chúng con và trên muôn dân muôn nước, để nhờ ánh sáng Chúa soi dẫn, bóng tối sự chết sẽ bị xua tan, mọi người sẽ nhận ra Thiên Chúa là Người Cha tuyệt vời và nhận ra bốn phương thiên hạ là anh em một nhà. Bấy giờ tội ác sẽ bị loại trừ và hoà bình công lý sẽ lên ngôi. Amen.

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN-A

LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU– ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.

Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.

Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?

2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?

3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?

home Mục lục Lưu trữ