Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 85
Tổng truy cập: 1444928
BÌNH AN CHO ANH EM
Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Kytô hữu tiên khởi. Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt, ngày mà Đấng Phục sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vui Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ Bẻ bánh và sau cùng là sai họ ra đi rao giảng Tin mừng cho nhân loại.
TỪ BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH….
Từ sau biến cố xảy đến cho Thầy, các môn đệ chưa hết bàng hoàng đớn đau, các ông lại phải đối diện với sự bách hại khác từ phía những người Dothái. Các ông sợ người Dothái hay đúng hơn sợ các ông thủ lãnh Dothái. Các môn đệ sợ là phải. Lý do là vì ngay đến Thầy mà họ còn không buông tha, còn đối xử tàn ác đến như vậy huống gì trò. Chính vì thế, cách tốt nhất để bảo vệ mình là “bế quan toả cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để tránh sự săn lùng và dòm ngó của người Dothái. Đang sống trong tâm trạng bất an và não nề như thế, Đấng Phục Sinh xuất hiện và điều Ngài mang đến cho các ông thời điểm này chính là hoa trái của sự Bình an (Shalom). Bình an cho anh em. Đây không chỉ là lời chào hỏi xã giao thông thường mà đó còn là một sự xác quyết mạnh mẽ về sự hiện diện đích thực của Đấng Phục Sinh. Bình an đích thực chỉ đến từ Đấng Phục sinh và chính Ngài và từ nơi Ngài mới có thể đem bình an đến cho những ai đang sống trong tâm trạng bất an nặng nề.
Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh không chỉ thuần tuý mang ánh sáng và bình an để phá tan bóng tối mây mù đang rình rập các môn đệ, xua tan nỗi thống khổ ưu phiền của các ông mà còn là việc trao ban Thần Khí và sai các ông tiếp tục sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Như thế, chúng ta thấy rõ rằng, sứ mạng đi vào thế giới của các môn đệ xuất phát từ sau biến cố Phục Sinh. Đặc biệt hơn, đối với thánh sử Gioan thì đây lại là một sứ mạng nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu vốn phát xuất từ Chúa Cha. Để được như thế, chính Đấng Phục Sinh trao ban hay đúng hơn là thổi Thần Khí vào các môn đệ như gợi nhớ ngày Giavê Thiên Chúa thổi sinh khí để làm nên con người trong buổi đầu công trình tạo dựng (x. St 2,7) hay làm cho con người hồi sinh (x. Ed 37,5.9). Các môn đệ nhận lãnh Thần Khí của Đấng Phục Sinh, tiếp tục sứ mạng của Thầy nhằm rao giảng cho muôn dân Tin mừng Phục sinh, xoá bỏ tội lỗi và ban ơn tha thứ.
ĐẾN LỜI TUYÊN XƯNG CỦA TÔMA
Thật thú vị là lần hiện ra của Chúa Phục Sinh cách đây tám ngày không có sự hiện diện của Tôma Điđymô. Tôma đi đâu? Tin mừng không đề cập, nhưng cứ theo sự thường, chúng ta có thể thấy Tôma có lẽ cũng đang ở trong tâm trạng hoảng loạn, mất phương hướng, thậm chí chán nản sau cái chết của Thầy. Tệ hơn, có thể Tôma không đủ can đảm để gánh vác trách nhiệm, để chia sẻ với anh em đồng môn trong tình cảnh “xẻ đàn tan nghé”, mà hơn lúc nào hết rất cần đến sự “chung lưng đấu cật” để vượt qua khó khăn. Việc Tôma không ở cùng các môn đệ phải chăng là sự thoái thác một phần hay hoàn toàn trách nhiệm? Và phải chăng đó còn là sự thể hiện tính nhút nhác, sợ liên lụy với các đồng môn của mình mà ông biết rằng các thủ lãnh Dothái sẽ không tha như đã xử với Thầy? Tôma ra đi, xa rời nơi nguy hiểm, xa rời nơi ẩn náu của anh em để tìm cho mình một sự bình an, một sự an toàn chắc chắn cho riêng mình. Ông có biết đâu đó cũng chính là lần mà ông đã mất đi diễm phúc được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, mất đi lời chúc Bình an của Người, mất tất cả.
Khi được các môn đệ thuật lại việc các ông thấy Chúa, Tôma lại cho rằng đó là việc không tưởng, rỗi hơi, khéo tưởng tượng, óc mụ mẫm của đàn bà con gái, chứ làm gì có chuyện đó. Tôma dõng dạc tuyên bố trước mặt anh em: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Trước lời tuyên bố hùng hồn của Tôma, các môn đệ khác đành tiu nghỉu im lặng. Mà không tiu nghỉu im lặng sao được khi lý luận mà Tôma đưa ra không chê vào đâu được. Đối với các ông, việc thấy Chúa sống lại là một niềm vui qúa sức mong đợi, như quên đi tất cả, còn tâm trí đâu để ý đến chân với tay, lỗ đinh với cạnh sườn để giờ đây đành phải “bí” trước đòi hỏi của Tôma. Tôma quả đúng là ông tổ của khoa học thực nghiệm: không bao giờ đi đến kết luận nếu trước đó chưa có kiểm nghiệm cách chắc chắn.
Một lần nữa Chúa Phục sinh hiện đến với các môn đệ và chính Người mới có thể hoá giải thế bí cho các môn đệ đồng thời để giải đáp những yêu sách của “ông tổ khoa học thực nghiệm” là Tôma đưa ra. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Được đứng trước Thầy và được nghe những lời chúc bình an thốt ra từ môi miệng Thầy, Tôma làm gì còn tâm trí mà thử với chả nghiệm. Phản ứng tức thời của ông là lời tuyên xưng vốn được xem là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng để chuộc lấy lỗi lầm vì đã không tin việc Người sống lại. “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng được vang lên trong các kinh Tin kính của các cộng đoàn Kytô tiên khởi, được nối tiếp qua các thời đại và sẽ còn vang vọng đến muôn đời.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Từ sau lần ấy, đức tin của Tôma cũng như của các thế hệ mai sau sẽ không còn dựa trên những thực nghiệm, những kinh nghiệm cụ thể về Đấng Phục Sinh hiện ra nữa mà chính là dựa trên lời chứng do các Tông đồ rao giảng – những người đã chứng nghiệm rõ ràng, được thấy, được tận hưởng niềm vui ngọt ngào của Đấng Phục sinh.
Là những người thừa kế di sản của Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Đấng Phục sinh từ các tông đồ rao giảng, chúng ta thật diễm phúc. Nếu chỉ dừng lại ở việc mắt thấy, việc chiêm ngưỡng hình ảnh Đấng Phục sinh, các Tông đồ là người hạnh phúc hơn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức tin là một ân ban nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên việc chúng ta xác tín niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng xứng đng xếp chúng ta vào hàng ngũ các tông đồ của Chúa. Chính vì thế, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân lớn lao này, đồng thời cũng xin Chúa trợ giúp chúng ta để mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không ngừng tiếp bước sứ vụ mà các Tông đồ đã truyền lại để ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho muôn người.
Kính Lòng Thương Xót Chúa
Có ai dám cả gan bơi ngược lại dòng nước chảy mạnh xuống dốc, cuốn theo những vật trên mặt nước, hay chỉ có những người liều lĩnh mới làm như vậy? Những trào lưu tư tưởng phóng khoáng, những lối sống buông thả, sa đoạ trong xã hội hiện đại với nhiều phương tiện truyền thông cận đại và nhanh chóng, giống như những dòng nước chảy mạnh. Bên cạnh dòng nước chảy mạnh, còn có những dòng nước nhỏ, chảy chậm hai bên bờ. Để khỏi bị lôi cuốn vào dòng nước chảy mạnh, người ta phải dùng một trong hai giải pháp. Một là dùng thuyền nhỏ, đi mon men sát bờ, đôi khi cần bám vào những gốc rể cây. Hai là đóng bè lớn cho vững chắc, rồi chung sức lèo lái: người thì dùng chèo hoặc gậy để chống cho thuyền khỏi trôi xuôi dòng nước, người khác dùng sào dài để đẩy cho thuyền đi ngược dòng từng nấc và cứ thế từng nấc một. Sống trong xã hội hiện nay, người ta chỉ cần nhấn con chuột là tin tức và hình ảnh có thể hiện ra trên màn ảnh máy điện toán ngay tại phòng ngủ, người ta ít có cơ hội chọn giải pháp đi mon men hai bên bờ. Vì thế người ta cần đóng bè để giúp nhau giữ vững đức tin.
Người ta cũng đóng bè với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối điều gì. Hai là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng… chẳng hạn dự đám cưới để chung vui, dự đám tang để chia buồn.. Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để đóng bè. Vì sợ người Do Thái tầm nã như Phúc âm hôm nay kể lại mà các tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong. Trong cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình, các ông tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Bỗng nhiên Chúa Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.
Riêng có ông Tôma lại tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc cho ông là chính Chúa Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông. Lúc này ông kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28).
Cộng đồng Kitô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng theo đuổi một mục đích. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần ở lai trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết và thờ phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của họ sẽ được củng cố. Nếu đức tin của người ta vững mạnh, họ có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai, theo sách Công vụ Tông đồ, nhờ có đức tin tập thể của người nọ nâng đỡ người kia, mà họ có thể để mọi sự làm của chung (Cv 2:44). Còn thánh Gioan thì cho rằng nhờ đức tin mà người tín hữu thắng được thế gian (1Ga 5:4).
Đức tin của người công giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa từ trên, mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào cha mẹ, họ hàng, bạn hữu và những người cùng chung một niềm tin, để giúp nhau duy trì và phát triển đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, để hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu không thì như Thánh Giacôbê quả quyết: Đức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đạo tại tâm là tự lừa dối mình. Tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người chống đối đạo mà họ tin theo.
Để áp dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đưc tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu… để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.
Nhà thờ giáo xứ là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo. Và ta lãnh nhận Bí tích Hôn phối cũng ở trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Không tìm đến sức hỗ trợ thiêng liêng, là tự cô lập hoá đức tin của mình.
Hôm nay cũng là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Năm 1931, Chúa Giêsu hiện ra và yêu cầu nữ tu Faustina Kowalska cổ võ lòng thương xót Chúa. Chúa bảo thánh nữ cho vẽ bức ảnh mô tả lòng thương xót Chúa như thánh nữ đã thấy trong thị kiến với lời ghi chú: Lậy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa. Thứ Sáu Tuần thánh 1937, Chúa yêu cầu thánh nữ cổ võ làm Tuần Cửu nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần thánh bằng cách dùng tràng hạt đọc chuỗi thương xót: Vì cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới như khi lần hạt mà đọc kinh Kính mừng, để mừng Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa.
PHÚC THAY NHỮNG KẺ THÂN THIẾT TRỞ NÊN THÂN THIẾT HƠN
Bài Phúc Âm hôm nay đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn giản ghi lấy một số yếu tố để hiểu rõ nội dung hơn.
1) Ngày hôm đó, ngày đầu trong tuần, là ngày Chúa sống lại, là Chúa nhật của chúng ta ngày nay. Các môn đệ hội họp, có lẽ là do Phêrô (người đã nhìn thấy ngôi mộ trống) triệu tập. Các cửa đóng chặn kỹ, biết đâu được phản ứng của nhà chức trách Do thái ra sao. Chúa đột nhiên ở giữa các ông, cho các ông tức khắc trông thấy Người đang sống trong trạng thái phục sinh, Người không trở lại trạng thái trước đây nữa. Câu nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em!”. Đó là câu chào người ta thường dùng, nhưng ta có thể nghĩ rằng nghe thấy câu đó các môn đệ bớt được phần nào băn khoăn, vì cung cách cư xử của họ đối với Thầy hai hôm trước khiến họ không an tâm. Đàng khác, câu chúc bình an của Chúa luôn luôn là một ân huệ. Chúa ban cho các ông bình an của Người, bao gồm tha thứ, nhân từ và yêu mến, mà thành quả là niềm vui. Chúa nói thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em … Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”
2) “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu sai các môn đệ. Chúng ta lưu ý về hai tính chất của sự sai phái này. Chúa sai các ông thi hành một sứ mạng giống sứ mạng của Người, cho các ông một quyền như Người. Đích phải đạt là cứu độ thế giới bằng cách loan báo Đấng là sự thật và có quyền tha tội. Quyền là do Thiên Chúa, do Cha. Cũng như Chúa Giêsu được Cha uỷ nhiệm làm Đấng cứu chuộc nhân loại, các môn đệ được Chúa Giêsu đặt làm sứ giả, làm tông đồ của ơn cứu độ. Cũng như quyền hành sứ mạng của Chúa Giêsu là do Cha, quyền hành sứ mạng của các môn đệ là do Chúa Giêsu. Đối với Phúc âm, tự ý trao cho bất cứ ai đã chịu phép thánh tẩy sứ mạng rao giảng Phúc âm cứu độ – là một sự lầm lẫn rất nặng nề. Các môn đệ là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn, kêu gọi và trao quyền. Sự rao giảng chân truyền bắt buộc phải theo đúng ý muốn của Chúa. Điều này không giảm nhẹ nghĩa vụ mỗi tín hữu phải làm việc tông đồ theo phương pháp rất hiệu quả, rất hào hiệp, đồng thời rất được linh ứng và rất thực tiễn. Nhưng không phải bất cứ tín hữu nào cũng có sứ mạng đặc biệt được quyền rao giảng.
3) “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”. Truyền thống Kitô giáo luôn luôn thừa nhận trong câu này sự thiết lập bí tích Giải tội. Kitô hữu là kẻ từ khoảnh khắc gặp Chúa Giêsu Kitô, phát hiện bản thân mình tội lỗi, nghĩa là thấy mình khốn khổ và có tội. Người tín hữu biết rằng niềm tin của mình trong Chúa Giêsu Kitô làm cho mình hiệp thông với một vận dụng cứu độ, tha tội và tái sinh. Khi Chúa thiết lập một bí tích, nghĩa là khi lập ra một dấu chỉ rõ ràng về ơn tha thứ và tái sinh, Chúa muốn cho kẻ có tội dễ dàng gặp ơn cứu độ. Ở đây cũng vậy, không phải bất cứ ai cũng có trách nhiệm ban phép bí tích. Nói với các môn đệ (và những vị thừa kế các ông sau này), Chúa phán: “Anh em tha tội (dẫu cho người ta giải thích lời Chúa Giêsu theo một nghĩa rộng hơn, cũng không phải tất cả mọi người trong Giáo Hội đều có quyền giải tội). Các ông sẽ làm việc ấy với quyền hành sứ mạng. Tuy Giáo Hội quy định rõ thể thức về bí tích Giải tội, nhưng phải xác nhận bí tích này xuất phát từ chính lời Chúa Giêsu. Phúc thay những bạn hữu của Chúa Giêsu trở nên thân thiết với Chúa hơn vì đã được tha thứ và tái sinh.
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, kể lại câu chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy bình an vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa và tuyên bố là được ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời, “Rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không?” ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau: “Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và chán chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông ta hả? Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để nghe được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ, cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi sợi dây oán thù.
Hãy tha thứ cho chính mình. Biết nhìn nhận con người tội lỗi của mình và tha thứ cho chính mình là điểm khởi đầu cho sự hoán cải. Vì không thể tha thứ được cho chính mình, nên Giuđa mới tuyệt vọng treo cổ tự vẫn!
Sách Giáo lý Công giáo số 827 đã dùng lời của Công đồng Vatican II để khẳng định rằng: “Giáo Hội gồm những tội nhân trong lòng mình. Cho nên Giáo Hội vừa thánh thiện vừa được kêu gọi hãy tự thanh tẩy, và phải luôn nỗ lực sám hối và đổi mới. Tất cả thành viên của Giáo Hội, cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là tội nhân”. (Lumen Gentium, đoạn 8).
Sau 94 lần xưng tội của Giáo Hội, ngày 12.3.2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng xưng tội tổng quát cho mọi lỗi lầm của Giáo Hội từ 2000 năm qua. Ngài đã liệt kê ra 6 loại tội: tội thiếu khoan dung gây ra các cuộc thánh chiến, tòa án dị giáo, tội chia rẽ, ra vạ tuyệt thông và những cuộc chiến tranh tôn giáo, tội kỳ thị dân Do Thái, im lặng trước sự bắt bớ của Đức Quốc xã, tội không tôn trọng quyền các dân tộc, các văn hóa, các tôn giáo khác, tội không tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và tính đơn nhất của nhân loại, tội chống lại những quyền căn bản của con người.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Thương Xót Chúa – the Feast of Divine Mercy. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Maria Faustina được phong thánh. Năm 1930, Chúa Giêsu đã chọn Nữ tu Maria Faustina, người Ba Lan để làm cho thế giới chấp nhận Lòng Thương Xót vô bờ của Ngài. Nữ tu đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giêsu và diễn tả ra để vẽ lên bức hình của Ngài với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, Con phó thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giêsu đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Ngài phát tỏa ra hai luống sáng, màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc khổ nạn khi Trái Tim Ngài bị đòng đâm thâu qua trên thập giá. Anh sáng xanh lợt biểu tượng cho nước lau sạch và thanh tẩy linh hồn. Anh sáng đỏ biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn. Chúa Giêsu đã đặt Nữ tu Faustina là thư ký và tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Chị đã được chỉ đạo phải viết lại những lời hướng dẫn cho mọi người cùng học hỏi để tin tưởng và phó thác nơi Lòng Thương Xót Chúa.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nữ tu Faustina biết rằng Lòng Thương Xót của Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất, ngay cả đối với người tuyệt vọng. Ngài mong muốn mọi người đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn được ơn tha thứ mọi tội lỗi và hình phạt trong ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Giêsu đã tuôn đổ cả đại dương ân sủng trên những linh hồn đến với Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi tội lỗi đều được Thiên Chúa tha thứ, bởi “tình thương mạnh hơn tội lỗi”.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Lê Nho Phú)
Hôm nay (27/04/2014), Chúa Nhật II Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội vui mừng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra để ban bình an cho các môn đệ. Tạ ơn vì “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc,1, 50). Trong chính hôm nay, Giáo Hội có thêm hai người con đã được dồi dào ơn Chúa để trở nên hai vị thánh: thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Lễ phong thánh hai vị Giáo Hoàng này diễn ra tại quảng trường thánh Phêrô vào lúc 10g00 sáng giờ Roma (tức 15g00 Việt Nam)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trong khung cảnh Chúa Nhật cuối tuần Bát Nhật Phục Sinh, còn được gọi là “Chúa Nhật về Lòng Thương Xót Chúa”. Chúng ta không thể không quan tâm đến sự hiện diện vừa có tính siêu việt, vừa rất thân tình và giàu lòng nhân hậu của Đấng Phục Sinh.
- Khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa thể hiện nơi Đấng Phục Sinh.
Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật về bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ, thánh sử Gioan đã viết “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Do vậy, “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20,19), khi các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín các cửa vì sợ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra và ban bình an cho các ông. Vì yêu thương nên chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã lập tức hiện đến và giúp các môn đệ vượt qua nỗi sợ hãi. Vì quan tâm rất nhiều nên Người tìm cách giúp họ bình an sau những biến cố đau thương vừa xảy ra. Những lo sợ không còn nữa, thay vào đó là niềm vui không ai có thể lấy mất được. Thầy Giêsu chịu chết và chịu táng xác giờ đây hiện ra với một quyền năng lạ lùng. Người không còn bị giới hạn bởi không gian, ngôi nhà đóng kín cửa không còn cản trở được tình thương của Người dành cho các môn đệ.
Riêng tông đồ Tôma, vì không có mặt khi Chúa Phục Sinh hiện đến nên ông đòi hỏi với những xác minh cụ thể: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,27). Trước một đòi hỏi có tính cứng lòng tin như vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn yêu thương ông và đã đáp ứng để ông Tôma được lòng sám hối:“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga, 20,27). Ông Tôma đã được biến đổi và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Chính tình yêu, chính lòng thương xót của Đấng Phục Sinh đã hoán cải Tôma và cho giúp ông được phục sinh tâm hồn!
- Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương:
Đáp ca hôm nay được lặp đi, lặp lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117,1). Trong suốt dòng lịch sử, dân Israel luôn nghiệm thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng thương xót. Trong suốt dòng lịch sử, tội lỗi loài người cứ chồng chất, nhưng Thiên Chúa vẫn cứ yêu thương, sẵn sàng tha thứ khi con người hối cải. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin và Con của Người thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới này là sự hiện diện của chính Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót.
Ngày hôm nay làm sao chúng ta không thể không nhớ đến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Trong “Thông điệp và việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa” có viết: “Ngày 30.04.2000, trong bài giảng lễ phong thánh cho chị Faustina, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trong toàn thể Giáo Hội. Ngài nói: “Thật là quan trọng việc chúng ta đón nhận trọn vẹn sứ điệp đến với chúng ta từ Lời Chúa của ngày Chúa Nhật II Phục Sinh, ngày mà từ nay khắp Hội Thánh sẽ gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót Chúa”.
Chính ngày hôm nay, tại quảng trường thánh Phêrô, ĐGH Gioan Phaolô II được phong hiển thánh. Thật là một biến cố trọng đại và là một tin vui. Đây là vị thánh Giáo Hoàng đã tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa. Người muốn giới thiệu và mời gọi mọi người hãy chạy đến với lòng thương xót Chúa. Thế giới ngày nay cần đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một thế giới có nhiều hận thù và chiến tranh, một thế giới có nhiều bất công và khổ đau. Con người ngày nay cần chạy đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một đời người vui ít nhưng buồn nhiều, một đời người gặp nhiều oan trái hơn là công bình, một đời người đầy yếu đuối và tội lỗi, một đời người nhiều bệnh tật thì thử hỏi biết chạy đến với ai nếu không chạy đến Lòng Thương Xót Chúa?
Hạnh phúc cho những ai gặp gỡ được Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình. Tốt đẹp biết bao cho những ai tín thác vào tình yêu của Cha trên trời và cầu khẩn “Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Lạy Đấng Chí Thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Xin thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Jesus I trust in You: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Khi siêng năng và sốt sắng dâng lời cầu nguyện như vậy, chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho ta, cho người thân, cho nhân loại nhiều ơn lành hồn xác!
Đấng Phục Sinh không chỉ hiện ra vào “ngày thứ nhất” hay“tám ngày sau” cho các môn đệ và cho Tôma. Người tiếp tục yêu thương và hiện đến cách vô hình trong cộng đoàn các tín hữu để giúp họ sống hợp nhất với nhau và thực hành 05 chuyên: “một chuyên cần giáo lý, hai vững chí hiệp thông, ba bền lòng phụng vụ, bốn vui thú nguyện cầu, năm cùng nhau làm chứng”. Người vẫn luôn hiện đến một cách vô hình giữa cộng đoàn cầu nguyện “ ở đâu có hai hay ba người hợp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20).
Nhờ lời cầu bàu trợ giúp của hai vị thánh Giáo Hoàng: Gioan XXIII và Gioan Phaolo II cho chúng ta biết chạy đến với lòng thương xót Chúa. Nhờ đó, mỗi người, mỗi gia đình và thế giới này được gặp Chúa Giêsu Phục sinh, được biến đổi và được phục sinh với Chúa. Amen.
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn bằng cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa”. Chủ đoàn xiếc nói, “Nghe anh nói thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn ra sao đã”. Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, “Thật là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta lắc đầu nói, “Cám ơn, nhưng tôi không muốn”. Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ 250 tới 500 và 1000 Đô La một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi nên nói, “Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!” Anh ta trả lời, “Tôi đau lắm… Tôi không bao giờ dám nữa đâu!” Anh thanh niên này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài”. Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi đã nhìn thấy Chúa”, ông trả lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy” (Ga 20:25). Tám ngày sau đó, Đức Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn thấy Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20:28-29).
Tin luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện để đi theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi sự đều có thể cho những kẻ tin”, chính Chúa Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trở nên con người và nhận ra toàn diện bản chất con người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn không làm một sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”. Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô điều kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!”
Cách đây 10 năm, ngày 30. 04. 2000, Đức cố GH Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chân phước Faustina, người được xem là vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Và không đầy một tháng sau, ngày 20. 05. 2000, ĐGH đã chính thức thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trên Giáo Hội Công giáo toàn cầu vào Chúa Nhật II sau lễ PS. Kể từ đó đến nay, Chúa Nhật II PS như hôm nay còn có tên gọi khác là Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của TC.
Vậy sứ điệp về Lòng Thương Xót của Chúa nói với chúng ta điều gì? Theo nhật ký của thánh nữ Faustina để lại thì Chúa Giêsu đã hiện ra với chị và nói với chị là Ngài muốn: “mọi người hãy tín thác vào Lòng Thương Xót khôn dò của Chúa. Đó là cơ hội quý báu và tối hậu để nhân loại được cứu rỗi.”
Tín thác vào Chúa là cơ hội quý báu và tối hậu để được ơn cứu độ. Hay nói cách khác, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là cho ta một cơ hội để hoán cải đời sống và để được cứu độ.
Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra và cho tất cả các môn đệ một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Đối diện với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu tuần vừa qua, tất cả các môn đệ đều vấp ngã. Họ chạy trốn, đóng cửa rất kỹ vì mang trong mình một nỗi sợ hãi, hoang mang tột cùng. Không chỉ sợ người Do thái bắt được mình và mình phải chết; mà còn sợ hãi, hoang mang vì mang trong mình một mặc cảm tội lỗi ghê gớm vì chính mình đã bỏ Thầy, chối Chúa.
Trong tình cảnh bi đát đó, Chúa Giêsu đã hiện ra. Ngài không chỉ chữa lành vết thương tâm hồn các môn đệ khi trao gởi: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19-20) và trao ban chính Thánh Thần của Ngài; mà Ngài còn mở cho các ông một cơ hội để làm lại cuộc đời khi trao cho các ông sứ vụ đi rao giảng Tm: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Và còn hơn các môn đệ khác, tôi nghĩ, có lẽ hôm nay Tôma là người cảm nghiệm sâu xa nhất Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không những đã cho ông thấy Chúa như các môn đệ khác, mà Chúa còn tự nguyện đáp ứng yêu cầu của ông là thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Đứng trước nghĩa cử của Chúa, ông chỉ còn biết rưng rưng nước mắt mà thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.”
Chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vừa tham dự vào Tam Nhật Thánh tuần vừa qua xong, chúng ta có nhận ra rằng chính Chúa Giêsu đã thương ta vì ta long đong, lầm than, khốn khổ, và ngay cả khi ta tội lỗi, vô ơn … thì Ngài vẫn chịu chết vì ta để cho ta sống không?
Thiên Chúa của ngày hôm qua, cũng là Thiên Chúa của ngày hôm nay. Ngài vẫn tiếp tục trắc ẩn trước cảnh khốn khó, nhọc nhằn của con cái mình. Ngài vẫn tiếp tục mở cho ta cơ hội để đến với Lòng Thương Xót của Ngài, cụ thể là qua các bí tích. Tôi thấy có hai Bí tích thể hiện Lòng Thương Xót của Chúa rõ nét nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể.
Ai trong chúng ta, với một lương tâm ngay thẳng, khi phạm tội thì đều cảm thấy bất an, bất ổn trong tâm hồn. Và khi đã xưng tội xong thì thấy lòng mình thanh thản, bình an, như trút được một gánh nặng. Quả thật, đến với Bí Tích Hòa Giải chúng ta được Thiên Chúa xót thương, tha thứ mọi tội lỗi và Ngài cũng nói với ta như nói với các môn đệ hôm nay: “Bình an cho các con.” Ngài cho ta một cơ hội để được đổi mới cuộc đời, được sống trong ơn nghĩa của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn đứng lên để trở về với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mỗi khi ta vấp ngã bởi muôn ngàn yếu đuối trong cuộc đời.
Còn với Bí Tích Thánh Thể, Thiên Chúa đã trao ban chính Ngài để ở lại với ta, để chia sẻ, đồng hành, nâng đỡ và mở cho ta một cơ hội để được cộng tác với Ngài khi sai ta đi như sai các tông đồ hôm nay: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Amen.
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Giáo hội trình bày cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu sống lại trích từ Phúc âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho chặng đường đức tin của các Tông đồ. Đồng thời cho thấy sứ mạng sống đức tin, sứ mạng sống mầu nhiệm phục sinh nối dài trong đời thường của chúng ta.
Thật khó diễn tả cách hiện diện của Chúa Giêsu thế nào sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Chỉ biết Ngài xuất hiện cách lạ thường nhưng vẫn giữ nguyên nét gần gũi thân tình với các môn đệ. Do đó, ta không thể trách các Tông đồ. Các ông mới sống thân tình với Thầy ba năm nhưng sao lại thay đổi quá nhanh chóng như vậy? Đứng trước cái chết của Thầy mình, môn đồ làm sao mà thoát khỏi lo âu, ngạc nhiên và còn đầy sợ hãi. Các cửa nhà đều đóng kín. Họ đã kinh hoàng sợ hãi vì người Do thái vừa giết chết Thầy Giêsu. Chắc hẳn, rồi cũng sẽ đến các môn đệ của Thầy Giêsu thôi, các ông thừa hiểu rằng rồi đây sẽ đến lượt mình. Cửa nhà đóng kín và lòng người càng đóng kín hơn. Rõ ràng là một số môn đệ thất vọng đã trở về quê, một số khác nửa tin nửa ngờ khi biết xác Thầy không còn trong mộ nữa. Vì thế, đứng vào hoàn cảnh các Tông Đồ lúc bấy giờ chúng ta sẽ thông cảm hơn, đáng thương các ông hơn là đáng trách.
Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối riêng của Ngài. Trong lúc sự kiện phục sinh còn quá mới mẻ, quá lạ thường này, các Tông đồ vẫn chưa được biến đổi hẳn thì Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra cho các ông, Ngài ban bình an và củng cố để các ông tin và đang sống niềm tin ấy. Riêng Tông Đồ Tôma thì dứt khoát hơn, ông cần một xác tín. Có lẽ, lúc này ông cần một sự ủng hộ Thầy Giêsu, ông cần một mạc khải, ông cần sự cảm thông và cần được sáng tỏ vấn đề. Sự khao khát này được thể hiện rất rõ trong câu nói đầy niềm trông cậy: “Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy thì tôi không tin”. Hay nói một cách khác: “tôi cần gặp lại Thầy Giêsu yêu dấu”. Dường như chúng ta đang đứng trước một sứ điệp của Tôma: “Nếu anh em đã gặp được Thầy thì tôi cũng cần gặp Người vì tôi cũng là môn đệ của Người”. Tôma tin điều ấy xảy ra.
Sự khao khát của Tôma là chính đáng. Tôma yêu mến Thầy Giêsu nên đã theo Thầy. Bây giờ Tôma muốn gặp Thầy. Chúa Giêsu thấu suốt những bí ẩn trong lòng người. Chúa Giêsu biết rõ con người Tôma. Chúa thấu hiểu tâm trạng hiện thời của Tôma, Chúa biết rõ tâm tình của Tôma trong những lúc này đây. Chúa không chỉ thấu hiểu tấm lòng mà Chúa còn là Đấng làm thoả lòng cho Tôma. Chính Ngài đến và nói: “Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây”. Sự kiện hiện diện của Thầy Giêsu lúc này là một minh chứng về tình thương và ân huệ của Thiên Chúa quan phòng. Chúa Giêsu thương mến các Tông Đồ trong đó có Tôma.
Trong cách thức mới, trong quyền phép Đấng Phục Sinh, Người hiện diện ở ngay bên nhưng các ông không biết được. Thế nên khi Thầy Giêsu hiện ra trong sự phục sinh, Tôma đã ý thức thân phận của mình chỉ là học trò của Thầy Giêsu nhưng được Thầy quan phòng yêu thương lớn lao, sự khao khát chính đáng của ông được Thầy chấp nhận, ông sung sướng thốt lên tâm tình tin tưởng và đầy lòng yêu mến: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi!”. Tôma thấy rõ hiệu quả của tình yêu và sự cậy trông của mình vào Thầy Giêsu. Đó quả là một đức tin chân chính.
Thầy Giêsu thì luôn quan phòng và yêu thương. Ngài không chỉ hiện ra để củng cố, an ủi và ban bình an cho các môn đệ mình mà Ngài còn muốn đi xa hơn nữa, Ngài muốn các Tông Đồ đem đức tin, tình yêu và bình an của Ngài đem cho muôn dân: “Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con”, Ngài muốn các ông đi khắp nơi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm cho muôn dân cũng biết Thiên Chúa là tình yêu và quan phòng, cũng đón nhận ơn cứu độ là tin, yêu và giữ những điều Ngài muốn.
Tuy nhiên, chấp nhận bước theo Chúa để sống đức tin là đều không mấy dễ dàng. Các Tông đồ lo sợ nên ở lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải đi qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành. Dù các ông đang sống trong hoàn cảnh đó, Chúa quan phòng vẫn hiện diện bên các ông và đã dự liệu hiện ra nhiều lần. Mặc cho đau khổ, sự dữ, gian khó xảy ra, chúng ta luôn trung thành theo Chúa và thể hiện đức tin và tình yêu của mình. Các Tông Đồ, các môn đệ, các thánh tử đạo Việt nam,… đã là những nhân chứng về điều đó. Do đó, nhìn lại bản thân mỗi người, là Kitô hữu nghĩa là những người tin có Chúa Kitô, người có Chúa Kitô nên chúng ta phải sống niềm tin đó, ta phải thể hiện niềm tin “có Chúa Kitô Phục sinh” trong đời sống mình. Đó là sống chứng nhân. Hơn nữa, người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha đầy yêu thươngnhân từ. Niềm tin ấy được thể hiện bằng một đời sống tin tưởng, hân hoan và phó thác vào Chúa Kitô; yêu thương, tha thứ và quảng đại với mọi người. Đồng thời, Chúa Kitô phục sinh cho chúng ta một xác tín rằng có cuộc sống sau khi chết. Nhờ Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin có một cuộc sống vĩnh cửu, bất diệt. Ý thức điều đó nên chúng ta sống như chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ngay từ bây giờ, sống như đã chết. Sống như chết là sống hy sinh, sống từ bỏ mình, làm nhiều việc lành phúc đức, làm nhiều cử chỉ yêu thương bác ái. Cuộc sống này mỗi ngày với những điều kỳ diệu của nó là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của mình. Tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta thể hiện niềm tin của mình. Mặt khác, nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho. Do đó, ta cần trung thành và trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp để chúng ta đi trọn đường đời và hoàn thành xuất sắc sứ mạng chứng nhân của người môn đệ bước theo Thầy Giêsu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúa Kitô chính là hình ảnh về tình thương, lòng nhân lành và hay thương xót đối với loài người. Người luôn hiện diện bên chúng ta. Ngài ở trong cõi lòng mình, trong các Bí tích, nơi Nhà tạm, trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài vào những nơi đó để trò chuyện trong sự thân tình, đàm đạo trong sự thân mật, sống tâm tình tin tưởng đầy lòng yêu mến Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho cả cuộc sống của chúng con trở thành dấu chứng của tình yêu Chúa đối với mọi người. Đó là vui sống niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng, sống tình yêu thương bác ái đối với tha nhân. Xin cho bình an của Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời của chúng con để cho tất cả những ai gặp gỡ chúng con đều có thể nhận ra được tình yêu và sự hiện diện của Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam