Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 92

Tổng truy cập: 1445492

BÊN BỜ GIẾNG GIACOB

Bên bờ giếng Giacob

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:

Ý tưởng thứ nhất đó là nước

Mỗi khi đi làm thuỷ lợi giữa đồng không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới thấy quý những giọt nước hiếm hoi.

Dân Do Thái trong Cựu Ước cũng đã trải qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về miền đất Hứa, họ đã hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào. Đồng thời qua dòng nước vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa đã chứng tỏ Ngài là Đấng đem lại sự sống cho họ.

Với Chúa Giêsu thì khác, từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ nữ Samaria một thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do Thái và người Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do Thái thì người Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa tránh, thế mà qua đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận như một dòng nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn. Ngài đã xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên sửng sốt và từ sự sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.

Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi cuối cùng nàng đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu bằng cách xin nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là người được lãnh nhận nước ban sự sống.

Ý tưởng thứ hai đó là nơi thờ phượng Chúa.

Người Samaria có đền thờ của mình tại núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ của họ tại Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới chính là nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay người Do Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng vẫn không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa, người Do Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng. Còn người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết vào nơi thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích hợp cho công việc tế tự.

Người phụ nữ Samari hẳn muốn nhờ Chúa Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài là người của Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha. Chính sự thờ phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ cha con với Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình, hay chúng ta đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên ngoài?

 

7. Cơn Khát – An Phong

Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng"; và Ngài nói với người phụ nữ Samari "Chị cho tôi xin chút nước uống". Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Đừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng "mỏi mệt", cũng "khát" như tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được "hết khát và khỏi đến đây lấy nước". Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Đấng có thể giải quyết "cơn khát" sâu xa giằng xé con người: "Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây."

Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là "Maxa" và "Mêriba", nghĩa là vẫn là nơi "thử thách" và "gây chuyện". Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể "giải khát" bằng những thứ "nước tiền tài", "nước cơm bánh", "nước danh vọng", thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.

Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng duy nhất có thể ban "Nước" để "ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa", thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như "Dân Samari xin Người ở lại với họ"… "vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian."

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!

Con chịu đựng không nổi nữa!

Con đường con đi, chưa dài lắm

Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng;

Con đã sống bao biến cố tang thương.

Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày.

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!

Con chịu đựng không nổi nữa!

Nhưng hôm nay… Lạy Chúa!

Có phải con mơ không?

Con tin mình đã tìm thấy

Điều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con.

Con tình cờ đọc được

câu Thánh vịnh in nơi tấm hình:

"Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa

và chính Ngài sẽ nâng đỡ con luôn."

Và con tin rằng, qua lời kinh đó,

Chúa đang thực sự nói với con.

(Michel Quoist)

 

8. Ta khát! - Huệ Minh

Trang Tin Mừng Chúa nhật III Mùa Chay tới đây quả là tuyệt vời và để lại cho ta nhiều tâm tư suy nghĩ.

Chúa Giêsu, nhân câu chuyện bên bờ giếng nước Giacob và với cơn khát của thể xác đã gợi lên cơn khát của linh hồn, cơn khát Nước Hằng Sống chứ không phải là khát của cơ thể. Giản đơn, cơn khát của cơ thể dù được đáp ứng nhưng cũng chỉ tạm thời, chỉ cho cơ thể nhưng cơn khát Tâm Linh vẫn còn.

Con người có hay nói cách khác là sở hữu thể xác và tâm linh đời mình. Và rồi, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời, con người chỉ chạy theo, chỉ tìm và có thể là giành giật, chụp giựt để thỏa mãn cơn khát của cơ thể mình, của ham muốn xác thịt mà quên lãng đi điều cần tìm nhất đó chính là cơn khát của Tâm Linh, cơn khát Nước Hằng Sống.

Chính Chúa Giêsu, trong thân phận làm người, Chúa Giêsu vẫn khắc khoải và vẫn khát cho đến giờ phút cuối cùng trên cây thập giá về Chúa Cha, về Nước Hằng Sống của đời mình. Hẳn, Chúa Giêsu cũng bị giằng co là bước xuống cây thập tự để thỏa mãn cơn khát của con người nhưng cũng bị giằng co chấp nhận vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.

Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đã chiến thắng nhờ kết hợp với Thần Khí và Ngài đã phó thác đời mình trong tay Thần Khí.

5 đời chồng của người đàn bà bên bờ giếng Giacob cũng không làm thỏa mãn cơn khát đời đời của bà.

Quyền lực phủ vây con người vẫn không làm thỏa mãn được cơn khát đời đời của mỗi người.

Dẫu quyền lực như một đức giám mục của Giáo Phận cũng phải khép lòng bàn tay lại và lại phải mở lòng ra để xin Chúa là Cha cho mình thỏa mãn cơn khát của Thần Linh.

Còn nhớ tâm tình rất hay của linh mục đại diện linh mục đoàn tâm tư trước linh cữu Đức Cố Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống: “...Và trước linh cửu Ðức Cha hôm nay, đoàn con Phan Thiết xin nguyện hứa đón nhận Di Sản của Ðức Cha để lại, là "sống khó nghèo, hiền lành, khiêm nhượng, kết hiệp khổ đau với Chúa Giêsu, yêu mến Mẹ Maria, và chết đời mình đi vì hạnh phúc của mọi người".

Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con xin hết lòng cảm ơn Ðức Cha. Chúng con xin Ðức Cha tha lỗi. Và cuối cùng, xin Ðức Cha cầu bàu cho Giáo phận Phan thiết nơi tòa Chúa, để đoàn chiên của Cha mỗi ngày thêm tuổi lớn, thêm khôn ngoan, thêm xinh đẹp nhờ biết noi gương nhân đức sáng ngời của Ðức Cha”.

Sự qua đi của một bậc vị vọng trong Giáo Hội, sự khép lại của một quyền lực mà Thiên Chúa đặt để nhắc nhớ cho ta cơn khát thật sự của cuộc đời này.

Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng không tránh khỏi cơn khát của thể xác nhưng rồi cũng không tránh khỏi cơn khát của linh hồn. Nhưng, đứng trước cùng đích của cuộc đời, ta hãy lắng đọng và trả lời thật tâm với Chúa rằng ta khát và ta khác cái gì?

Ta khát Thiên Chúa hay ta khát quyền lực thế gian?

Ta khát Thiên Chúa hay ta khát tiền bạc thế gian?

Ta khát Thiên Chúa hay ta khác tình cảm chóng qua trần tục của cuộc đời?

Ta khát tìm vinh quang Thiên Chúa hay ta khát tìm vinh quang của đời ta?

Xin cho mỗi người chúng ta nhìn đến cùng đích của cuộc đời con người, nhìn đến sự ra đi của các đấng các bậc trong Hội Thánh hay ngoài Hội Thánh để nhìn ra căn tính thật sự của kiếp người để yêu thương nhau hơn, hiệp nhất với nhau hơn chứ không phải tranh giành quyền lực của nhau và với nhau.

Xin Chúa Giêsu là Đấng chịu đau khổ trong cuộc khổ đau cực đỉnh của phận người cho ta thấu hiểu quyền lực thực sự mà con người cần tìm, cơn khát cùng đích mà con người phải tìm.

 

9. Hãy đến giếng Giêsu để kín múc nước trường sinh

(Suy niệm của Huệ Minh)

Trang Tin Mừng gợi lại cho ta hình ảnh Chúa Giêsu đến xin nước một phụ nữ Samari. Người phụ nữ đi kín nước uống, nghĩa là chị đang thực hiện một sinh hoạt hằng ngày và rất tình cờ gặp người đàn ông Do Thái. Vậy có hay không có khả năng: Chúa ngồi tại bờ giếng Giacóp để đón chờ chị ta? Đây là một điều cấm kỵ đối với người Do Thái: «Người Do Thái không được giao thiệp với người Samari» (Ga 4,9).

Khi chị nghe Đức Giêsu nói: "Chị cho tôi xin chút nước uống!", về tâm lý, tất nhiên chị “bị bất ngờ”, vì “người Do Thái không được giao thiệp với người Samari”. Chị đâm ra bối rối xen lẫn cảm giác thích thú với suy nghĩ “mình đang được một người đàn ông Do Thái (vốn đầy kiêu hãnh) nhờ vả”. Vậy là chị đang ở thế thượng phong, chủ động, ban phát… Câu trả lời của chị đã bộc lộ những cảm xúc trên: "Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?"

Việc tiếp xúc và xin nước của Ngài khiến cho phụ nữ này ngạc nhiên: «Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?».

Người phụ nữ này một đức tính hòa nhã và tinh thần cởi mở, bởi nếu không, thì chị đã “xả” vào ông này một mớ những câu khó nghe rồi (khùng, dở hơi… chẳng hạn). Có lẽ chị nghĩ: ‘Ông này khát quá nên nói lộn!’ Và chị bèn đưa ra chất vấn nhằm xác minh:"Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?” và như để thanh minh với Đức Giêsu rằng: Tôi hiểu những điều ông vừa nói về cụm từ “nước hằng sống” nên tôi mới nói thêm câu “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy." Câu thoại của người phụ nữ lý thú ở chỗ cho ta nhận ra khả năng liên tưởng của chị rất dồi dào; Chị nghe nói về “nước hằng sống”, chị chợt liên tưởng và so sánh hơn kém giữa “Người đang nói với chị” và tổ phụ Giacóp. So sánh giữa nước giếng truyền thống và nước hằng sống.

Ta thấy ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên không kém: «Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ Samari» (Ga 4,27). Không phải chỉ một lần mà khá nhiều lần Đức Giêsu đã vượt ra khỏi những quy định của tập tục xã hội, của tôn giáo, khi mà những quy định này đi ngược lại lương tri hay tình yêu tha nhân. Chính trong bối cảnh đặc biệt này, Đức Giêsu đã mặc khải một chân lý quan trọng: Ngài chính là nguồn mạch nước hằng sống.

Lúc Ngài xin chị Samari nước uống là «vào khoảng mười hai giờ trưa», khi các môn đệ Ngài đi mua thức ăn. Chỉ có một mình Ngài với chị. Bình thường các phụ nữ ra giếng chung của làng để múc nước vào ban sáng hoặc ban chiều cho đỡ nắng, riêng chị lại múc vào ban trưa.

Đọc tiếp đoạn Tin Mừng ta sẽ biết lý do: chị không phải là một phụ nữ đàng hoàng về mặt luân lý; chị đã có 5 đời chồng và hiện đang sống với một người không phải là chồng mình (x. Ga 4,16-18). Chắc hẳn chị không muốn chường mặt ra vào lúc đông người, sợ phải nghe những lời dị nghị không hay về mình. Thế mà Đức Giêsu lại chọn chị để mặc khải những chân lý quan trọng: việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật, nước hằng sống, đồng thời tỏ cho chị biết Ngài chính là Đấng Cứu Thế…

Và chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả làng của chị, khiến cho «có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng» (Ga 4,39). Thật là lạ lùng cách làm việc của Ngài. Ngài không chọn người đàng hoàng, đạo đức để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ngài, mà lại chọn một phụ nữ bị mọi người khinh bỉ và coi là tội lỗi. Mà lại hữu hiệu! thế mới tài tình!

Nhân việc xin nước, Đức Giêsu giải thích cho chị hiểu thêm về điều Ngài đã nói về “nước hằng sống” với chủ điểm so sánh hơn kém rất rõ: "Ai uống nước (giếng) này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Có nghĩa là so sánh giữa “nước uống để giải khát và nước uống không để giải khát. Thứ nước tôi cho có đặc tính là sẽ làm cho “nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." Có nghĩa là nếu Đức Giêsu ban cho chị loại nước ấy thì “chính chị là người sở hữu nguồn nước hằng sống ấy”, vậy thì còn gì bằng! Thứ nước mà Ngài Giêsu cho chị còn có thể ban cho chị “sự sống đời đời”.

Nước là một yếu tố tối cần thiết cho sự sống, đến nỗi có thể nói: chỗ nào không có nước thì không thể phát sinh sự sống, và sự sống không thể tồn tại được. Ai cũng phải uống nước mới sống được. Trong cơ thể con người, nước chiếm tới 72% trọng lượng. Nhưng thứ nước vật chất này cứ phải uống hoài, vì «ai uống nước này, sẽ lại khát». Đức Giêsu đã dựa vào tính chất này của nước vật chất để giới thiệu một thứ nước khác: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời». Chị Samari tưởng rằng Ngài muốn nói đến một thứ nước vật chất khác, uống vào thì không còn khát nữa, nhưng không phải. Ngay cả thứ nước trong câu «ai uống nước này, sẽ lại khát» cũng là một thứ nước theo nghĩa bóng.

Con người ai cũng khao khát hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và lâu bền. Và người trần, ai cũng đi tìm những phương tiện giúp mình hạnh phúc. Người thì tìm hạnh phúc trong tiền bạc, kẻ tìm trong quyền lực, người khác tìm trong vui thú xác thịt, v.v…

Nhưng hạnh phúc tìm được nơi những thứ ấy rất chóng qua, và thường để lại hậu quả là đau khổ. Người nghèo cảm thấy khổ vì thiếu tiền, nên nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới hạnh phúc. Nhưng người có tiền lại khổ vì tiền như người ta vẫn nói: «Người giàu cũng khóc», «tiền không đem lại hạnh phúc». Người không con cái thì lấy đấy làm khổ và cho rằng phải có con mới hạnh phúc được; đến khi có con thì lại khổ vì con, do nó bất hiếu, hư đốn, bệnh tật, hoặc nó không theo ý mình.

Vì thế, chẳng mấy ai trên đời được hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà trần gian này cung cấp toàn là như vậy: hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng đấy! Nhiều điều của trần gian hôm trước đem lại hạnh phúc thì ngay hôm sau đã đem lại đau khổ!

Trần gian chỉ có thể cung cấp cho ta thứ hạnh phúc ấy: thứ hạnh phúc không thể thỏa mãn được lòng khao khát vô tận của con người, thứ hạnh phúc kiểu «uống rồi lại khát». Nhưng Đức Giêsu giới thiệu một thứ hạnh phúc mà Ngài có thể cung cấp là thứ hạnh phúc theo kiểu «uống vào sẽ không bao giờ khát nữa». Đó không phải là một cái gì vật chất có thể trao được, mà là một lối sống, một con đường sống, một tinh thần sống phải đem ra thực hành. Đó chính là sứ điệp Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng và sống trọn vẹn suốt đời Ngài.

Thật sự rất nhiều người thật sự sống theo sứ điệp này đã cảm thấy hạnh phúc thật sự, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được, cho dẫu họ có phải sống trong nghèo đói, túng thiếu, tù tội, tra tấn, hay bị gạt ra ngoài lề xã hội. Và người nào đã có được thứ hạnh phúc ấy, thì một cách tất yếu người ấy sẽ trở thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời».

Từ việc Đức Giêsu và người phụ nữ Samari có một mối quan tâm chung là nước giếng. Chúa đã mở rộng phạm trù nước giải khát thành “nước hằng sống”. Từ đây, Chúa lại dẫn chị đến khái niệm “sự sống đời đời”. Ôi lạy Chúa! Thầy Vĩ Đại của chúng con, chỉ cần ba câu nói của Chúa mà đã khai lối nhìn của một người bình thường đang lom khom nhìn mặt đất bỗng nhiên đi vào triết học, tâm trí nghĩ đến đời sống vĩnh cửu, mơ sự sống đời đời.

Ta đặt lại đời ta và ta nhìn lại ta đã theo Đức Giêsu bao năm rồi? Nhưng chúng ta đã thật sự hạnh phúc chưa? Nếu chưa, thiết tưởng chúng ta cần phải xét lại và thay đổi cách theo Ngài của chúng ta. Có thể ta chưa hiểu được đúng đường lối của Ngài, hay chưa có được tinh thần của Ngài, hay chưa thật sự sống đúng đường lối của Ngài. Biết bao người đã theo Ngài và đã cảm thấy thật sự hạnh phúc suốt cuộc đời trần gian đầy biến động này. Vậy tại sao ta chưa hạnh phúc?

 

10. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

Chỉ có Chúa mới lấp đầy được trái tim khao khát của con người.

(Trích ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)

Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-Thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Bài đọc I, sách Xuất Hành 17, 3-7)

Thế nhưng ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì trên thế gian có thể làm cho họ được no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt.

Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng hôm nay (Ga 4,4-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải chia tay để tìm hạnh phúc với người thứ sáu; mà cũng chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi múc nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu khẳng định với người phụ nữ Samari: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại". Ngài muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.

Triết gia người Đức, ông Schopennauer khám phá: "những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói."

Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: "Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao - thoả mãn, thoả mãn - khát khao... cứ tiếp diễn mãi không cùng"... lại càng ngày càng tăng "đô" hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.

* * *

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: "Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,13-14)

* * *

Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong tay Ngài".

Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giêsu nói: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,13-14)

* * *

Lạy Chúa Giêsu, chúng con sung sướng được đón nhận Chúa là Mạch Suối thiêng liêng làm tươi mát đời chúng con. Chúng con như những lùm cây trồng bên suối nước. Chúng con được xanh tốt là nhờ giáo huấn của Chúa đem lại sức sống thiêng liêng cho chúng con. Chúng con thật sự hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Chúng con cảm thấy bình an và hoan lạc vì Chúa đã lấp đầy trái tim khao khát của chúng con.

Nhưng chúng con biết rằng còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa. Xin thương đến với họ như xưa Chúa đã đến với người phụ nữ Samari.

Xin cho chúng con, như người phụ nữ Samari xưa, sau khi nhận được Mạch Suối Chúa ban, thì cũng giới thiệu cho cả thành ra gặp Chúa, để họ cũng được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời. Amen.

home Mục lục Lưu trữ