Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 77
Tổng truy cập: 1445417
ÁNH SÁNG TỪ TRÁI TIM
Ánh sáng từ trái tim - Lm Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.
1. Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:
- Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
- Chưa đúng hẳn!
Một người khác:
- Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
- Chưa đúng hẳn!
- Vậy cụ dạy thế nào ạ?
- Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ... mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.
2. Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.
Nhật hoàng:
- Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe.
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.
- Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn!
- Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!
- Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?
- Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!
3. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.
18. Ánh sáng chiếu soi
Các nhà thơ thường thi vị hóa cặp mắt "như cửa sổ tâm hồn", chính nhờ cặp mắt mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng để biểu lộ tình yêu, biểu lộ với các tương quan, ánh sáng tự nhiên để dẫn ta đến với các cảnh vật xung quanh. Còn ánh sáng tâm hồn để nối kết những mảnh đời, những con tim lạc điệu đến gần nhau hơn. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là ánh sáng đức tin cho con người "thấy" được Thiên Chúa và đến gần với Ngài hơn.
Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn. Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi , hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày.... Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết "mở mắt" ra để đón nhận ánh sáng.
Bà già mù tôi viếng thăm, tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay. Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.
Hành trình đức tin của anh mù không phải là một con đường dễ dàng, anh phải đi từ những nghịch cảnh đơn giản đến những tình huống phức tạp. Chính thái độ chấp nhận và hành trình dấn thân theo lời Chúa dạy mà mắt anh lập tức đã được mở ra, anh đã "Thấy" Chúa Giêsu không phải bằng cặp mắt xác thịt, mà còn cảm nhận thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin. Người hành khất mù loà bẩm sinh, kẻ bị coi là tội lỗi bị xã hội từ chối, một hình phạt mà người Do Thái cho là nặng nề, nhục nhã nhất đã trở nên "dấu chỉ" sống động của những người được Đức Giêsu soi sáng và tái sinh.
Trong cuộc sống đạo, chúng ta không bị mù về con mắt thể xác, cũng không bị mù về con mắt tinh thần. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta vẫn chưa biết mở con mắt ra để sống trong ánh sáng đức tin. Rất nhiều lần ta sống như một kẻ mù loà. Mù vì không bao giờ thấy được những hồng ân Chúa ban để tạ ơn Người. Ta mù vì không thấy được những kỳ công quyền năng Chúa làm để mà ca tụng ngợi khen, mù loà vì đã không thấy được biết bao nhiêu điều thiện hảo mà những anh em đồng loại khác đã làm cho chúng ta để mà tạ ơn... Có những lúc chúng ta không bị mù loà nhưng lại cố ý đóng kín mắt để không nhìn thấy, cố ý bịt tai như bị tê liệt để không còn nghe thấy những điều khốn cực, nghèo khổ mà đáng ra tôi phải có bổn phận giúp đỡ, tê liệt trước những thiếu thốn của anh em xung quanh trong khi hiện tại tôi đang dư thừa.
Ngược lại với bà già mù mà tôi viếng thăm, là những người sáng mắt xung quanh. Cũng giống như những đầu mục Do Thái và những người Pharisêu hôm nay, tự kiêu tự mãn là minh "sáng mắt" chối bỏ những "dấu chỉ". Hậu quả là phải chịu đắm mình trong đêm tồi triền miên. Trong khi những người mù nhờ Đức Giêsu đã trở nên sáng mắt, thì những người tự cho mình là sáng mắt lại trở nên mù loà. Như Đức Giêsu đã cảnh cáo "Tôi đến thế gian này để xét xử cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù" (Ga 9, 39). Những người Phariseu tự cho mình là người sáng mắt lại trở nên mù loà. Chính sự cứng đầu kiêu căng đó đã tố cáo rằng không phải mắt họ bị mù loà. Nhưng là tâm hồn họ bị mù loà, lòng trí họ bị bóng đêm phủ lấp, đến nỗi họ không thể nhìn thấy được các dấu chỉ của Thiên Chúa. Và khi Ánh Sáng đến họ không chịu chấp nhận mà lại lao mình vào trong bóng tối u mê.
Lạy Chúa , xin Chúa biến đổi tâm hồn con trong Mùa Chay này, xin chữa lành bệnh mù tinh thần của chúng con, xin Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng con được nhìn thấy. Xin Chúa làm cho chúng con thành những người biết nhận ra Chúa trong mọi sự và cảm nhận được rằng: Chúa là Ánh Sáng, là Sự Sống và là sự cứu rỗi. Amen.
19. Lạy Chúa, xin cho con được thấy!
(Suy niệm của Lm. Phaolô Trương Hoàng Phong)
Ngày xưa, mỗi khi ra khỏi nhà vào ban đêm, người Nhật Bản thường có thói quen tay cầm theo một chiếc lồng đèn. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không cầm chiếc lồng đèn trên tay nên anh chủ nhà mới lấy chiếc lồng đèn của mình để đưa cho anh mù.
Nhưng anh mù từ chối và nói:
- Đối với một người mù như tôi thì ngày cũng như đêm, bóng tối cũng như ánh sáng. Cho nên chiếc lồng đèn này chẳng có ý nghĩa gì hết. Cầm nó theo cũng vô ích!
Người bạn mới giải thích:
- Tôi biết anh không cần chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm nó trên tay thì người khác sẽ không thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!
Anh mù nghe anh bạn lý luận có lý nên đành nhận lấy chiếc lồng đèn và ra về. Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào, đụng vào. Anh ta tức tối và la to lên:
- Bộ mày đui hả? Không thấy tao cầm chiếc lồng đèn trên tay sao?
Người kia trả lời như sau:
- Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn đèn bên trong nó đã tắt rồi. Cho nên tôi không thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!
Câu chuyện trên giúp cho chúng ta hiểu được: đi trong bóng đêm ai cũng cần có ánh sáng. Trong đêm tối, tưởng chừng như không cần thiết nhưng người mù cũng cần cầm đèn sáng trên tay. Anh cầm đèn không phải để cho mình nhưng để người khác thấy anh mà tránh hoặc có thể họ sẽ giúp đỡ anh. Trong đêm tối, người sáng mắt cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp anh thấy đường đi, thấy người khác và biết được những chướng ngại vật trên đường. Ánh sáng giúp anh đi đúng đường, đúng hướng, không bị lầm đường lạc lối. Ai cũng cần có ánh sáng tự nhiên để nhận biết mình và thấy tha nhân.
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay, Thánh Gioan cũng kể cho chúng ta nghe câu chuyện về anh mù. Anh này bị mù từ nhỏ, bị mù bẩm sinh. Vì mù nên anh không biết khuôn mặt của mình, không biết cha mẹ mình là ai và những người thân của mình như thế nào. Anh cũng không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và thiên nhiên. Cuộc sống của anh toàn là một màu đen. Ngày cũng như đêm. Đêm cũng như ngày. Ai cũng như nhau. Anh phải sống trong một tâm trạng buồn thảm và thất vọng hoàn toàn. Nhiều người cho rằng vì có tội nên anh mới bị trừng phạt như thế. Nhưng thật may, Chúa Giêsu đã thấy anh và chữa anh sáng mắt. Chúa không chỉ chữa cho anh được sáng đôi mắt thể xác, giúp anh thấy mình, thấy tha nhân, thấy cảnh vật xung quanh; nhưng quan trọng hơn, Ngài còn chữa lành đôi mắt đức tin của anh nữa. Chúa đã hỏi anh: “Anh có tin vào con người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38). Chúa cho anh được thấy Ngài, được gặp Ngài, được tin Ngài và thờ phượng Ngài.
Chúng ta là những người rất diễm phúc. Diễm phúc vì được Chúa ban cho đôi mắt lành lặn, một đôi mắt sáng. Ta hãy cám ơn Chúa về ân huệ đó. Tuy nhiên, đôi mắt thể xác của chúng ta sáng nhưng có thể đôi mắt tinh thần, đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin của ta bị mù loà; như Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Đúng là có những người nhìn thấy, có những người sáng mắt nhưng tâm hồn của họ lại mù loà. Ta thường thấy có 3 loại mù loà tinh thần như sau:
1. Mù loà về bản thân
Mù vì không biết rõ mình; không biết những tài năng, những khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho. Mù vì không thấy rõ những giới hạn, những khuyết điểm, những lỗi lầm, những sai trái của bản thân. Ta thường sáng chuyện của người nhưng lại mù tối, mù mờ chuyện của mình. Có khi ta cũng giống như những anh mù xem voi. Ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ của vấn đề mà vội vàng kết luận cho đó là đúng, là sự thật, là chân lý. Ta thường có những phán đoán sai lầm, chủ quan. Tệ hơn nữa là lương tâm của ta bị mù tối; không phân biệt được điều tốt và điều xấu; mất ý thức đối với tội.
2. Mù loà về tha nhân
Ta không muốn thấy những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để mà học hỏi, khen ngợi; nhưng ngược lại, ta chỉ thích thấy những điểm tiêu cực, điểm xấu, khuyết điểm để chỉ trích, chê bai, coi thường và có khi hạ bệ người khác. Ta cũng thấy nhưng thấy một cách phiến diện, tiêu cực; ta cũng có thể bị mù về lòng nhân: thấy người khác đau khổ mà không chạnh lòng thương, biết người ta nghèo mà không ra tay giúp đỡ, ta làm ngơ vì không dám dấn thân nhập cuộc.
3. Mù loà về Thiên Chúa
Ta không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không thấy Thiên Chúa hiện diện trong Giáo Hội, nơi tha nhân, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Ta không thấy Thiên Chúa đang đồng hành với mình; không cảm nghiệm được những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm; và không tin có Thiên Chúa đang hiện hữu trong thế giới này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, xin Chúa hãy mở đôi mắt tinh thần của con để con thấy được những bất toàn, những giới hạn, những khuyết điểm của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn của con để con thấy được những điều hay, những điều tốt nơi anh chị em con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt đức tin của con để con thấy Chúa, nhận ra Chúa và cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho con. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Amen.
20. Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc
Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con."
Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết thúc: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con."
Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.
***
Người đàn ông trong câu chuyện trên đây tuy bị mù về đôi mắt thể xác, nhưng lại ngời sáng về đôi mắt đức tin. Đôi mắt đức tin của ông bừng sáng khi ông bằng lòng hy sinh đôi mắt tinh anh của thể xác để đổi lấy đôi mắt trong vắt của linh hồn.
Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng thánh Gioan 9:1-41 quả là một tấm gương sáng chói cho mỗi người tín hữu: Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt Đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh sáng của trần gian.
Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được đức tin ngời sáng. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của Đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisêu sáng mắt mà như mù lòa. Con đường đi tới Đức tin của anh là con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Hành trình Đức tin của anh cứ bị khựng lại bởi những hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo.
Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Đức tin ngời sáng, như đôi mắt của anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabát, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực cho Đức Giêsu và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: "Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 9,31-33).
Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do thái giáo, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được? Hoá ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hoá ra mù.
Họ mù quáng vì luôn cố chấp trong ý nghĩ lỗi thời, họ cho mình quyền nắm giữ đạo đức truyền thống, nên những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc, phải loại trừ. Họ mù quáng vì họ tự cao tự đại, luôn cho mình là người tinh thông luật đạo, lại thánh thiện đức độ hơn người, nên họ không bao giờ nhận mình sai sót lỗi lầm. Họ mù quáng vì lòng họ chai đá, không cảm thông được nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của người được sáng mắt. Và nhất là họ mù vì họ đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt, chính là Đức Giêsu Kitô: "Đấng là ánh sáng thế gian".
Nguy hiểm biết bao khi luôn cho mình đã nhìn rõ. Trong bao cái chai lì của đời sống làm sao chúng ta nhìn thấy hết mọi vấn đề. Cái nhìn vừa mênh mông vừa thiếu sót làm sao! Cái nhìn sai nào cũng gây bất công và đau khổ cho người khác. Tiêu chuẩn để khỏi phải hối hận vì gây đau khổ cho người khác là hãy nhìn bằng đôi mắt xót thương.
Mù loà thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù loà tâm hồn còn là một tai hoạ khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù loà khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Chính Người đã tuyên bố: "Sự thật sẽ giải thoát chúng con" (Ga 8,32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Ánh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Người.
***
Lạy Chúa, chỉ những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình. Xin đừng để chúng con ở lì trong bóng tối tội lỗi của mình, nhưng xin dẫn dắt chúng con bước đi trong ánh sáng của Chúa. Amen.
21. Ánh sáng đức tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Cuối thế kỷ 18 là thời kỳ được các triết gia gọi là Thời Kỳ Ánh Sáng, vì vào giai đoạn này nền triết học được hồi sinh và đem đến nhiều tư tưởng mới cho nhân loại, đồng thời đây cũng là thời kỳ khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển mạnh, nhiều người cho rằng với sự phát triển của cả lý trí và khoa học như thế, thế giới và con người được khai sáng khỏi những u mê lạc hậu, và nhất là những người cực đoan còn cho rằng đây là thời kỳ con người thoát ra khỏi sự ràng buộc của các tư tưởng tôn giáo, được giải thoát, được bay bổng trong bầu trời của ánh sáng tự do. Tuy nhiên những ước mơ và dự đoán đó không như con người dự tính, chính khoa học và cả triết học các thời kỳ sau đó đã để lại những khoảng trống tăm tối cho con người, và thay vì con người được khai sáng tự do, thì nó lại trói buộc con người vào những hình thức nô lệ mới của khoa học và công nghệ, nó mãi mãi cho thấy sự giới hạn và bất lực của con người.
Trong khi đó Lời Chúa của Chúa nhật thứ IV mùa chay lại giới thiệu cho chúng ta về Đức Giêsu là ánh sáng, Ngài đem ánh sáng đến thế gian để giải thoát con người khỏi sự mù tối của u mê lầm lạc, Ngài đem ánh sáng của Tin Mừng đến để giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối thế gian và vật chất, giúp con người sống đúng với địa vị phẩm giá mà Chúa trao ban.
Qua câu chuyện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh, Thánh Gioan cho thấy Chúa đã khai sáng không chỉ cho người mù, mà còn cho mọi người chung quanh anh nữa. Người Do Thái thời Đức Giêsu bị bao trùm bởi rất nhiều những quan niệm sai lạc, kể cả các tông đồ cũng thế, các ông vẫn nghĩ rằng người thanh niên kia bị mù là do tội của anh ta hoặc tội của cha mẹ anh ta, nên họ mới hỏi Chúa Giêsu: “Anh bị mù do tội của anh hay tội của cha mẹ anh?” Nhưng Chúa Giêsu đã thay đổi suy nghĩ cổ hủ của các tông đồ, khi Ngài khẳng định với các ông: “Anh bị mù không phải vì tội của anh, cũng không bởi cha mẹ anh, nhưng là để mọi người được thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh”. Cùng một sự kiện, nhưng Chúa muốn các tông đồ nhìn theo chiều hướng tích cực và trong cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải cái nhìn mang tính kết án.
Đối với người mù, Chúa Giêsu đã chạm đến mắt anh, tức là động chạm đến cả con người của anh, không chỉ chạm bằng tay, mà còn là sự đụng chạm gặp gỡ của trái tim, của tình yêu của một vị Thiên Chúa làm Người, dành cho một con người bất hạnh, bị xã hội loại bỏ, bị gán cho muôn vàn thứ tội. Ngài không chỉ mở mắt thể xác cho anh, mà Ngài còn mở mắt linh hồn để anh nhìn thấy Đức Giêsu là một vị ngôn Sứ, trong khi những người Biệt Phái bị bao trùm bởi bóng tối của sự tự cao tự phụ, cho mình cái quyền kết án người khác, họ bị thành kiến che mờ mắt, khiến họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người vi phạm ngày Sabat. Sau khi được sáng mắt, thì người trước đây bị mù được khai sáng đã trở thành người hết sức bênh vực cho Đức Giêsu, anh khẳng định: “Ngài là một vị Ngôn Sứ”.
Với đám đông người Do Thái cũng thế, họ bị trói buộc trong những tập tục của mình, khiến họ khó lòng đón nhận được ánh sáng mới từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, họ đến để gây áp lực với cha mẹ của anh mù: “Đây có phải là con ông bà không? Có phải nó bị mù từ khi mới sinh không? Tại sao bây giờ nó lại thấy?” Vì sợ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng, nên cha mẹ anh mù đã để cho bóng đêm của sự sợ hãi giam giữ khiến họ không dám tuyên xưng Đức Giêsu là một Ngôn Sứ, mà họ đã nói tránh rằng: “Con tôi nó lớn rồi, các ông cứ hỏi nó.”
Còn đối với người mù đã được chữa lành, anh đã hoàn toàn thoát ra khỏi bóng đêm của sự sợ hãi cho dù người Do Thái đã nhiều lần chất vấn anh, lần này họ muốn anh nhân danh Thiên Chúa để vu cáo cho Đức Giêsu là người tội lỗi. Nhưng câu chuyện cho thấy anh đã bước một bước dài trong đời sống đức tin, anh không chỉ tin Đức Giêsu là một Ngôn sứ, mà giờ đây anh còn can đảm làm chứng và bênh vực Ngài, anh lặp lại việc Chúa Giêsu đã chữa anh và anh tuyên bố: “Trước đây tôi bị mù nhưng nay ông ấy đã chữa cho tôi được sáng.” Anh còn trở thành người giải thích về quyền năng của Thiên Chúa cho những người chung quanh:” Ai kính sợ Thiên Chúa, luôn làm theo ý Người thì Người nhậm lời kẻ ấy… nếu không phải bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ấy sẻ chẳng làm được gì.”
Trước một đức tin non nớt lại gặp thử thách bởi những thành kiến, quan niệm và tập tục của những người chung quanh, nên khi gặp lại anh, Chúa Giêsu đã dẫn anh lên một bước cao hơn, củng cố đức tin cho anh, khi Ngài mời gọi anh tuyên xưng đức tin: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh thưa: “Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu xác nhận với anh: “Chính Đấng ấy đang nói với anh đây”. Và anh đã tuyên xưng: “Thưa Ngài tôi tin và sấp mình xuống trước mặt Ngài”. Đó là thái độ thể hiện sự vâng phục của đức tin nơi anh mù, anh sấp mình để thờ lạy Ngài.
Như thế, ánh sáng của đức tin khác với ánh sáng của khoa học, của triết học và khác hẳn với ánh sáng của tự nhiên, để nhìn thấy được ánh sáng này đòi phải có một con mắt của linh hồn thật trong sáng, vì cái nhìn của con mắt loài người bên ngoài có thể lầm lẫn, có thể đánh lừa và dẫn đến sai lạc, còn ánh sáng của Tin Mừng của Đức Giêsu thì chiếu dọi vào trong tâm hồn, những ai mở cửa tâm hồn, thì đón nhận được ánh sáng này, và những ai khiêm nhường thì sẽ được ánh sáng này dẫn lối và đưa đến hạnh phúc. Sách Samuel cũng cho thấy sự khác biệt giữa cái nhìn của Thiên Chúa và cái nhìn của con người trong việc Samuel được sai đi xức dầu chọn Đavít làm vua Israel. Con người chỉ nhìn và đánh giá sự việc theo cái nhìn và tiêu chuẩn bên ngoài, còn Thiên Chúa lại nhìn thấu tâm hồn và Ngài đánh giá tuyển chọn một con người là tùy ở thái độ tâm hồn của người đó sẵn sáng đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Thưa quý OBACE, thánh Phaolô đã quả quyết rằng: “Nhờ ơn của Bí tích Thánh tẩy chúng ta đã trở nên con cái của ánh sáng, con cái của Tin Mừng và vì thế, chúng ta phải ăn ở, phải sống cho xứng đáng là con cái của ánh sáng, tức là phải sống công chính, ngay thẳng lương thiện, và không bao giờ được tán đồng, làm ngơ hay cộng tác với sự dữ và bóng tối”.
Mặc dù đã là con cái sự sáng, nhưng chúng ta vẫn bị ma quỷ lôi kéo chúng ta vào bóng tối hoặc vì để mình sống trong tình trạng tội lỗi gian dối, nên chúng ta sợ ánh sáng, sợ những gì là minh bạch. Còn rất nhiều những bóng tối đang bao trùm trong các gia đình, đó là bóng tối của bất hạnh, cãi vã, đổ vỡ, của sự bạo hành, bóng tối của gian dối, của việc làm ăn lươn lẹo, bất công. Giống như những người Do Thái, nhiều người đã sống trong sự cố chấp, bảo thủ trong sự sai lầm của mình, không dám đón nhận ánh sáng sự thật của Đức Kitô và Tin Mừng và vì thế, họ dùng nhiều lý do để gạt bỏ Đức Giêsu ra khỏi tâm hồn, ra khỏi công việc và đời sống của gia đình. Chúa Giêsu là Đấng đem đến cho chúng ta ánh sáng cứu độ, chỉ cho chúng ta con đường giải thoát, mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu và sự săn sóc của Chúa, song nhiều người đã nhất định từ chối Ngài, và muốn tự mình bước đi trong bóng tối của thế gian, của ma quỷ và của dục vọng.
Trong xã hội ngày nay còn nhiều những bóng tối và sự mù lòa khác, sự mù lòa của những kẻ nhân danh khoa học để từ chối không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, xã hội ngày nay bị che phủ bởi bóng tối của sự gian dối, của bất công, khiến cho nhiều người bị lầm lạc và lẫn lộn không thể phân biệt đúng hay sai; sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng kéo theo nó bóng tối của sự ích kỷ, dửng dưng khiến cho nhiều người quên mất sự hiện diện của người bên cạnh. Bên cạnh đó còn bao nhiêu những triết lý, học thuyết sai lạc đang dẫn con người đi vào ngõ cụt, đang hủy hoại tâm hồn của nhiều thế hệ, biến nhiều tâm hồn trở nên khô cằn sỏi đá không còn nhạy bén trước lời mời gọi của Tin Mừng nữa.
Những loại bóng tối mù lòa này đang ảnh hưởng và bao trùm trên nhiều người trẻ, khiến cho nhiều bạn trẻ lạc đường mất hướng, sống một cuộc sống không có mục đích, không lý tưởng, hoặc biến nhiều người trẻ khác lao vào những hình bóng, ảo ảnh của danh vọng, địa vị, tiền bạc, và đoạn cuối của con đường này là sự bế tắc và trống rỗng. Chỉ có Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài mới là ánh sáng thật soi rọi cho chúng ta, giới răn và lề luật của Ngài sẽ chữa chúng ta khỏi sự mù lòa của thể xác và tâm hồn, tình yêu của Ngài sẽ dẫn lối chúng ta bước đi trong ánh sáng của tự do, của sự thật, của công lý.
Xin Chúa giúp chúng ta noi gương Mẹ Maria mạnh dạn mở tung mọi cánh cửa của tâm hồn để cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu dọi vào mọi góc khuất của cuộc đời, biến chúng ta nên con cái của ánh sáng, giúp chúng ta loại trừ bóng tối của chết chóc, giúp mỗi người sống và hành động như là con cái của ánh sáng. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam