Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1440860

AI CHẠM ĐẾN TA ?

“Ai chạm đến Ta?”

(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CMC)

 

“Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó.” (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)

Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.

Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.

Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.

Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.

Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?

Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?

Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”

 

 

 

 

 

45. Đừng sợ, chỉ hãy tin

(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Hai câu chuyện chữa hai “con gái” (thygatèr) (5,34.35) được lồng vào nhau: một người được xem như đã chết (5,2-24. 35-43), một người mang bệnh băng huyết (5,25-35). Người con gái nhỏ ở tại nhà và người cha là trưởng hội đường đến cầu cứu Chúa Giêsu; trong khi, người phụ nữ bị bệnh băng huyết đích thân tìm đến Người và được Người chữa lành tại chỗ. Trong cả hai người, quyền năng phục hồi sự sống của Người đã tỏ hiện; và chỉ có họ – và những người rất thân thiết – được chứng kiến hiệu quả lạ lùng của quyền năng nầy (x. 5,29.40), tuy dân chúng ở bên Người rất đông. Cấu trúc của hai đoạn nầy: Câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị bệnh băng huyết (5,25-34) được xen giữa câu chuyện Chúa Giêsu làm cho người con gái của ông Giairô chỗi dậy (5,21-24;35-43). Việc Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết là dấu hiệu đi trước tiên báo Chúa sẽ cho người con gái của Giairô sống lại.

Bệnh tình của người phụ nữ bị băng huyết là vô phương cứu chữa. Đã “mười hai năm” bà “khổ sở nhiều”, “chạy nhiều thầy thuốc”, nhưng kết qủa là bệnh càng “thêm trầm trọng”. Con người đã bất lực. Điều nầy làm nổi bật quyền năng của Chúa Giêsu khi Người chữa bà lành bệnh. Người có thể làm điều không thể thực hiện đối với con người. Tuy nhiên, để được chữa lành, bà cần có hy vọng và lòng tin vào Người. “Nghe nói về Người” là hy vọng thúc giục bà tìm đến Người (c. 27). Việc bà chạm đến áo Người biểu lộ lòng tin của bà vào Người; rất khác và rất phân biệt với việc dân chúng chen lấn và đụng chạm vào áo của Người, mà các tông đồ không thể nhận ra (x. 5,31). Chúa Giêsu đã nhận ra điều nầy và biết cả quyền năng chữa bà lành bệnh phát xuất ra từ Người. Người đã không đặt tay trên đầu bà để chữa bà lành bệnh (x. 5,23; 3:10, 6,56), nhưng chính lòng tin của bà đã kéo đến trên bà quyền năng chữa lành bệnh từ Chúa Giêsu. Lúc nầy đức tin đã cứu bà một cách dứt khoát không phải là khỏi tội, mà khỏi hậu quả của nó. Cũng bởi lòng tin nầy mà bà được gọi là “con gái”, nghĩa là được kể như là một thành phần trong gia đình Thiên Chúa; chữ nầy cũng được dùng để nối kết phần tiếp theo.

Tình trạng của người con gái của ông Giairô cũng không thể cứu vãn được. Trên đường Chúa Giêsu đến nhà ông thì nghe tin về cái chết của người con gái. Câu “không muốn làm phiền Người” tỏ lộ sự thất vọng và bất lực của những người đến báo tin (c. 35). Điều ấy càng được thấy rõ hơn trong sự náo động và than khóc của họ (cc. 38-39). Chính vì thế mà Chúa Giêsu nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, nhưng hãy tin” (c. 36). Điều nầy hàm ý là ông trưởng hội đường vì đã chứng kiến người phụ nữ bị băng huyết đã được chữa lành nhờ tin vào Chúa Giêsu, ông cũng phải tin vào Người để người con gái của ông được chữa lành. Và bởi thấy ông bị xao động, Chúa Giêsu đã ra lệnh ông “hãy tin”. Thêm một lần nữa, quyền năng của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong sự tuyệt vọng của con người. Người phục hồi lại sự sống cho đứa bé gái bằng cách cầm lấy tay và nâng dậy; như thể em vẫn còn sống. Người làm việc nầy cùng một cách thế như Người đã làm cho bà mẹ vợ của ông Phêrô (1,31), cho em bé trai bị quỷ ám (9,26-27). Việc phục hồi sự sống đầy quyền năng nầy có hiệu quả “tức thì”, không cần nhiều thời gian để được thực hiện (1,42; 2,12; 7,35). Đi lại được là dấu hiệu đã được chữa lành (x. 2,9). Kết luận cuối cùng của Marcô là những người chứng kiến phép lạ đều đầy kinh ngạc (c. 41; x. 1,27; 4,41).

Chúa Giêsu tiếp tục tỏ mình ra cho các môn đệ của Người bằng những việc quyền năng để họ có thể tin vào Người. Việc quyền năng lớn lao hơn cả là chính Người sống lại từ cõi chết; nhờ đó họ tin Người chính là Con Thiên Chúa.

 

 

 

 

 

46. Cái “sờ” của niềm tin

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

 

Một trong những hình ảnh rất ấn tượng mà chúng ta thường thấy trong các kỳ World Cup hay Euro là các cầu thủ và những cổ động viên của các đội vô địch tìm mọi cách để được sờ, được chạm vào chiếc cúp vô địch của mình, hầu mong được may mắn và vinh quang. Có nhiều người còn ôm hôn chiếc cúp thắm thiết như ôm hôn người tình vậy.

Tin Mừng hôm nay nói đến một người phụ nữ cũng mong muốn “được chạm”, “được sờ”; song không phải là chạm hay sờ vào chiếc cúp vô địch, mà là sờ vào gấu áo Chúa Giêsu. Đây là cái sờ, cái chạm của niềm tin, một niềm tin đơn sơ chất phác, nhưng cũng rất mãnh liệt. Không phải sờ để cầu may, nhưng sờ để được chữa lành bệnh. Bà tin chắc như thế. Và sự thật căn bệnh băng huyết của bà đã được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34).

Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để “dứt điểm” căn bệnh nghiệt ngã mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marcô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.

Hằng ngày, chúng ta chẳng những được chạm, được sờ vào Chúa qua Lời của Ngài và qua Thánh Thể của Ngài, mà còn ăn uống chính Mình Máu Ngài nữa. Tuy nhiên, chúng ta đang chạm hay đang ăn uống với lòng tin thực sự hay không?

Cách riêng với các anh chị em dự tòng, qua Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức mà các anh chị sẽ lãnh nhận, các anh chị sẽ được tháp nhập với Chúa Kitô và trở thành Đền thờ Chúa Thánh Thần. Và qua Bí tích Thánh Thể, các anh chị cũng sẽ được ăn được uống Mình Máu Thánh Đức Kitô. Các anh chị hãy ghi nhớ ngày trọng đại và thiêng thánh này. Giáo xứ và Giáo hội hân hoan chúc mừng và đón nhận các anh chị làm thành viên mới. Cầu chúc cho các anh chị lãnh nhận các bí tích khai tâm này với tất cả long tin và nhất là trở thành chứng nhân của niềm tin vào Thiên Chúa cho những người mà các anh chị gặp gỡ, cách riêng cho những người trong gia đình, gia tộc của mình. Amen.

 

 

 

 

 

47. Suy niệm của Charles E. Miller.

CHÚA GIÊSU DÀNH THỜI GIAN

VÀ SỰ QUAN TÂM CHO CHÚNG TA

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

 

Mỗi tác giả Phúc Âm đều nhấn mạnh những điểm khác biệt riêng trong Phúc Âm của mình. Thánh Marco mà Phúc Âm của ngài đang được đọc suốt trong năm nay, nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Giêsu. Tác giả Phúc Âm đã nhấn mạnh đến những chân lý tiết lộ rằng, Con Thiên Chúa thực sự là con của Mẹ Maria, và ngôi vị thần linh đến với chúng ta trong vẻ đơn sơ của bản tính con người. Thánh Marco sung sướng trình bày Chúa Giêsu như một con người, một người hiểu chúng ta, thông cảm với chúng ta.

Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay, lúc Ngài sửa soạn rao giảng Phúc Âm cho đám đông, Giairô, một viên trưởng hội đuờng đã yêu cầu Ngài đi với ông ta, đến nhà ông chữa bệnh cho đứa con gái đang bị ốm nặng. Đã để cho chúng ta tưởng tượng ra sự thất vọng của Chúa Giêsu khi bị gọi ra khỏi sứ vụ rao giảng của Người, nhưng thánh nhân trình bày Chúa Giêsu đã đáp trả với lòng thương xót khi nghe lời nài xin của viên trưởng hội đường. Tiếp đó, một người đàn bà trong đám đông đã đụng đến áo choàng của Ngài. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh là Ngài biết ai đang đụng đến Mình nhưng không hề khinh bỉ người đàn bà, Ngài nhìn thẳng vào người đàn bà một cách dịu dàng và nói: “Hỡi bà, đức tin của bà đã cứu chữa bà”.

Tiếp theo đó, Chúa Giêsu đã tiếp tục cuộc hành trình để đến chữa bệnh cho cô gái nhỏ, nhưng có người đến nói cô bé đã chết, không hề bối rối, Chúa Giêsu bước vào căn phòng nơi cô bé đang nằm, cầm tay cô bé và nói những lời sự sống: “Hỡi cô bé hãy chỗi dậy”. Cô bé liền chỗi dậy. Hãy tưởng tượng xem cảnh này, cha mẹ vừa khóc vừa cười cùng một lúc, họ ôm choàng lấy đứa con gái nhỏ và khiêu vũ chung quanh cùng với cô ta. Chúa Giêsu luôn luôn chú ý và ý thức đến những nhu cầu của con người, và trở nên rất thực tế. Ngài nói với cha mẹ của đứa bé: “Hãy cho đứa bé ăn cái gì”.

Trong đoạn Phúc Âm thời thơ ấu kể lại cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã dành thời gian cho dân chúng, những người có địa vị quan trọng giống như Giairô là người trường hội đuờng cũng như người đàn bà nghèo khổ vô danh trước mọi người và hầu như thánh Marcô cũng không biết tên. Ngài đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã quan tâm cách sâu xa đến nỗi đau của người cha và người mẹ có đứa con nhỏ. Nhưng Ngài cũng muốn chúng ta biết Chúa Giêsu không hề xao nhãng việc người đàn bà đang bị ốm, cơn ốm không phải là do số mệnh. Ngài cũng biết sự đau buồn vô vọng nơi người cha người mẹ, Ngài cũng nhận biết người đàn bà, và đã chia sẻ những nỗi khốn khổ của người đàn bà ấy nữa.

Thánh Marcô đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã yêu mến với trái tim của con người. Thánh nhân nhấn mạnh về nhân tính của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta nhận thấy chân lý quan trọng nữa, đó là Chúa Giêsu đã hành động xuyên qua nhân tính của Người trong sứ vụ công khai của Người và bây giờ Ngài hành động qua các thừa tác viên của Giáo Hội và đặc biệt là qua các ý nghĩa của các bí tích của Giáo Hội. Trong bí tích thanh tẩy, Chúa Giêsu đã cầm chúng ta bằng đôi tay của Ngài, gọi tên chúng ta và Phục Sinh chúng ta từ sự chết của tội lỗi và phục hồi cho chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha. Chúa Giêsu đã nói với Giáo Hội hãy cho chúng ta một điều gì đó để ăn. Một điều gì đó là bí tích cao vời, Mình và Máu thánh Chúa.

Chúng ta sẽ nhớ rằng, Chúa Giêsu qua thừa tác của Giáo Hội đã dành thời gian cho tất cả chúng ta, dù chúng ta có địa vị quan trọng trong xã hội như Giairô là trưởng hội đuờng, hay làm một người nghèo khó vô danh chẳng ai biết đến tên như người đàn bà bị loạn huyết. Tất cả chúng ta đều quan trọng đối với Chúa Giêsu và tất cả nhu cầu của chúng ta được Ngài quan tâm đến. Chúng ta có một Thiên Chúa, Đấng dành thời gian cho tất cả chúng ta.

 

 

 

 

 

48. Giữa lòng dân Chúa – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Đoạn sách thánh hôm nay cho ta thấy một lần nữa rằng các phép lạ của Đức Kitô là những dấu chỉ tình thương. Đức Kitô là tình thương của Thiên Chúa đi vào trong nỗi khốn cùng và đau khổ của nhân loại để mặc cho chúng niềm tin và hy vọng. Đức Giêsu không phải là một nhà thuyết giáo xa xôi về một lý tưởng cứu rỗi mà con người phải một mình ra sức thực hiện nhờ các ý thức hệ và cách mạng cơ cấu. Ngài chính là Thiên Chúa dấn thân vào đời sống nhân loại để cứu lấy nó. Đám đông dân chúng theo Đức Giêsu và chen lấn Ngài tứ phía. Ngài bị ngụp lặn trong đám đông. Nhưng về phía Ngài, đó không phải chỉ là một lúc, sau đó Ngài trở về lại với sự đơn độc của mình. Ngài luôn là Thiên Chúa hiện diện với quần chúng đông đảo nhân loại.

Một nữ bệnh nhân muốn lợi dụng cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua để được chữa lành bà nghĩ chỉ cần chạm đến y phục Đức Giêsu để được lành, và bà đã không làm. Bà biết là Đức Giêsu có thể chữa lành bà bằng một lời nói, nhưng muốn thế phải kêu xin. Và giống bệnh của bà làm bà mắc cỡ. Bà không dám trình bày trường hợp của bà. Nhưng bà nghĩ là Chúa có thể chấp nhận lơi cầu xin của bà một cách khác. Chạm vào y phục của Chúa là một loại ngôn ngữ và cầu xin mà Ngài có thể hiểu được. Bà liền chạm vào gấu áo Đức Giêsu và bà được lành.

Người ta cho rằng bà này đã vâng theo sự thúc đẩy của niềm tin ma thuật. Nói thế có lẽ hơi nông cạn. Về vấn đề này, xin mở một ngoặc đơn thuộc phạm vi tổng quát. Dĩ nhiên nhà chú giải có thể có một thứ lo lắng là chỉ chấp nhận điều không thể chối cãi được trong các phép lạ Phúc Âm. Nhưng vô phúc thay, sự lo lắng này đôi khi lại được tiếp nhận do những đầu óc hấp tấp, hơi ngây ngô, lại quá chắc chắn về mảnh vụn kiến thức của mình, mà nội dung chỉ là sự thoả mãn để chiếu lên những Phúc Âm những khẩu hiệu và hình mẫu sẵn có nơi các “khoa học nhân văn”. Nói lên điều này, để nhắc nhở độc giả Phúc Âm đừng để cho mình bị lay động bởi một số quảng cáo trong thời gian sau này là muốn giản lược con người cao cả cuả Đức Giêsu vào chiều kích con người chúng ta. Người ta đến với Phúc Âm bằng cách để mình lôi kéo lên cao nhờ việc chiêm ngắm Con Thiên Chúa, chứ không phải bằng cách uốn nắn các văn bản để làm cho chúng phù hợp với các dữ kiện chưa tiêu hoá đựợc của việc phân tích ngôn ngữ…

1) Đoạn văn cuả thánh Marcô: ‘Đức Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình’. Từ lâu các nhà thần học đã đề ra những lời giải thích cho phúc hợp với điều họ tưởng có thể đoán được về tâm lý của Đức Giêsu. Về phần chúng ta, chỉ nên nhớ rằng Đức Giêsu luôn phản ứng với một lương tâm thấm nhuần sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, đối với mọi biểu lộ niềm tin nơi ngài.

2) “Hỡi bà, đức tin bà đã chữa bà”. Niềm tin của bà này như thế nào? Chắc hẳn là không cùng một niềm tin như niềm tin của chúng ta. Nhưng cũng đã là một khởi đầu niềm tin, một niềm tin đang khai mào. Đàng khác, nếu chúng ta khiêm tốn, chẳng phải, chúng ta cũng nhìn nhận rằng niềm tin của chúng ta hôm nay cũng chỉ là một niềm tin khai mào sau? Nhưng ngay cả niềm tin này, nếu có thành thật, cũng có thể lôi keó được một lời nói cứu độ. Và đó là điều tốt rồi.

 

 

 

 

 

49. Hai phép lạ về sự sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

 

Nhờ tin, mọi sự đều có thể

Một đám người rất đông vây quanh Đức Giêsu, chờ đợi một lời nói hay một cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên, có một người, dáng vẻ vội vã, đẩy mọi người ra và tiến đến trước mặt Đức Giêsu. Ông có điều gì muốn thưa với Người. Ông tên là Gia-ia, trưởng hội đường.

Thoạt tiên, người đàn ông này biết rằng mình có thể tín nhiệm vào Đức Giêsu. Ông “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ” Người đến chữa con gái ông vừa mới tắt thở. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm: ông sẵn sàng tin cậy vào một người qua đường, ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến, mà cho đến lúc này, ông chỉ mới nghe đồn. Sự sống của đứa con gái ông vẫn hằng bao bọc, nuôi dưỡng, nay không còn nữa, và ông đến xin lại từ một người khác, một người xa lạ.

Đức Giêsu yên lặng đi theo ông trưởng hội đường. Đám đông vẫn tiếp tục vây lấy Người. Họ chen lấn, xô đẩy như muốn đè bẹp Người. Trong đám đông hỗn độn ấy, có một người phụ nữ khốn khổ rất mong được đến gần Đức Giêsu, chạm vào Người, dù chỉ là gấu áo thôi cũng được. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.”

Bà biết là mình ô uế, bởi vì theo não trạng người Do-thái lúc bấy giờ, một người phụ nữ trong tình trạng như bà bị coi là “không được chạm đến”. Không ai được chạm đến bà, và ngược lại bà cũng không được chạm đến ai. Bà là người ô uế và ai đến gần bà cũng bị ô uế.

Bà mong được đến gần, được chạm đến Đức Giêsu, để chấm dứt tình trạng ô uế của mình. Bà tin rằng Đức Giêsu là một con người nhưng không giống những người khác. Bà cảm thấy rằng từ con người này, bà có thể nhận được tất cả: nhận lại chính mình, được trả lại chính mình.

Bà biết rằng bà đang làm một việc liều lĩnh, bởi vì đó là một điều cấm kỵ. Nhưng chính sự đau khổ đã thúc đẩy bà, và bà đã đến với Đức Giêsu. Phần mình, Đức Giêsu không sợ những điều cấm kỵ, không coi thường những nỗi khổ sâu kín nhất, đáng xấu hổ nhất. Người là Đấng cứu độ đến trần gian để giải thoát mỗi người khỏi nỗi cô đơn và sự sợ hãi.

Ngay tức khắc “bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh”; và cũng ngay lúc ấy, Đức Giêsu “thấy có một năng lực từ nơi mình phát ra”. Một cảm nghiệm sâu xa nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị giữa người tin và Thiên Chúa của mình.

Đức Giêsu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Bấy giờ người phụ nữ có thể bày tỏ chính mình. Bà phủ phục dưới chân Đức Giêsu và bày tỏ hết sự thật: một thái độ phó thác, tin cậy, hy vọng. Thái độ này chứng tỏ rằng, khi người ta được đón nhận cách trọn vẹn, người ta khám phá ra mình dễ thương, mình xứng đáng được yêu thương và có khả năng yêu thương.

Cũng như hai tác giả Mátthêu và Luca, thánh Máccô nối kết phép lạ này với câu chuyện chữa lành con gái ông Gia-ia.

Khi Đức Giêsu đang trên đường đến nhà ông Gia-ia, có người đến nói với ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” Đối với người không tin, như thế là trễ rồi, không còn cứu vớt được nữa. Một khi không có lòng tin tưởng, cậy trông, thì lúc nào cũng trễ. Đức Giêsu nghe được những lời xầm xì, Người nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!”

Và sau đó, Đức Giêsu đã gọi cô bé dậy. Người nói: “Này bé, chỗi dậy đi!” Cô bé liền chỗi dậy, vì có ai đó đã gọi cô, chính tên cô.

Những chi tiết về vượt qua

Trong bản văn dài này, người ta có thể rút ra được những chi tiết diễn tả một bước vượt qua, từ sự chết sang sự sống.

* Từ bờ bên này sang bờ bên kia.

Đức Giêsu sang bờ bên kia, và ông Gia-ia chen qua đám đông để đến gặp Đức Giêsu. Sau đó cả hai cùng vượt qua biển người. Cả một đám đông như sóng dậy vây lấy cả hai, dường như muốn nuốt chửng.

* Từ ngôi mộ động đậy đến Nhà sự sống

Căn nhà của ông Gia-ia giống như một ngôi mộ. Một đám đông vây quanh cô bé mới chết. Họ khóc lóc, vật vã, kêu gào. Đức Giêsu đuổi mọi người ra khỏi nhà tựa như làm cho ngôi mộ ra trống không. Người gọi cô bé đang thiếp ngủ dậy, và trong căn nhà nơi sự sống thiếp ngủ, không cần phải có tiếng khóc than.

* Tuổi của sự sống

Con gái ông Gia-ia được mười hai tuổi: tuổi dậy thì, tuổi có thể bắt đầu đem lại sự sống. Trong khi đó, người phụ nữ mắc bệnh đã mười hai năm, và bà trở thành người vô sinh: bà bị coi như đã chết. Cả cô bé lẫn người phụ nữ mắc bệnh đều từ cõi chết bước vào sự sống, nhờ năng lực từ nơi Đức Giêsu phát ra. Chính Người là sự sống.

* Từ đặt tay đến lời

Ông Gia-ia xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông. Nhưng Đức Giêsu không làm đúng như ông yêu cầu. Người nói với cô bé: “Chỗi dậy đi”; trước đó Người cũng nói với người phụ nữ một lời tương tự. Nhờ lời Đức Giêsu, sự sống đã chỗii dậy, như một hạt giống, một mầm non.

* Phục sinh cho tương lai

Người đàn bà được chữa khỏi bệnh, cô bé được chỗi dậy từ cõi chết: cả hai vẫn chưa đạt được mục tiêu. Cuộc sống vẫn còn ở phía trước. Cô bé “sống lại”; còn người phụ nữ nghe Đức Giêsu nói: “Con hãy về.”

Phục sinh là một cuộc sinh ra, nhưng mới chỉ là điểm khởi hành. Đức Giêsu bảo những người đang đứng đó cho cô bé ăn. Của ăn và sự sống đi liền với nhau.

Đánh thức niềm hy vọng

Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự sống và về niềm hy vọng một cuộc sống không hư hoại. Sự sống là một thực tại, và có lẽ chúng ta càng cảm nhận cách rõ rệt hơn, khi mắc bệnh hay đối diện với cái chết. Bất chấp mọi sự xảy ra như thế nào, chúng ta có dám tin và hy vọng?

Lòng tin tưởng chân thành và đơn sơ của ông Gia-ia cũng như của người phụ nữ chính là gương mẫu cho chúng ta.

Người phụ nữ có vẻ như mê tín, chỉ mong sờ đến áo Đức Giêsu là được khỏi bệnh. Đức Giêsu không khinh thường bà, trái lại, Người tạo cơ hội gặp gỡ, giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh tật và ban cho bà bình an.

Lòng tin của ông Gia-ia mãnh liệt hơn. Ông vẫn tin vào Đức Giêsu, trong khi đám đông dân chúng nghĩ rằng không ai có thể chống lại cái chết. Đối với Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ. Nhờ lòng tin, giấc ngủ này sẽ mở ra một buổi sáng phục sinh.

Những từ ngữ được sử dụng làm cho người ta nhớ đến phép rửa, tức là tham dự vào cuộc phục sinh của Đức Kitô.

“Tỉnh giấc đi nào, hỡi người còn đang ngủ!

Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào!

Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi.” (Ep 5,14).

Trong mỗi chúng ta đều có một niềm hy vọng, nhưng nó đang ngủ như cô bé của bài Tin Mừng. Cần đánh thức nó dậy, và thúc đẩy nó tiến tới. Điều kỳ diệu chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng có thể mở ra một buổi sáng phục sinh, từ những đêm tối của riêng chúng ta, những đêm tối nhất.

***

“Đức Giêsu nói với ông Gia-ia:

“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!”

Nhưng tin là gì?

Là đưa cánh tay ra,

vượt ra khỏi những xôn xao và sợ hãi,

để nắm lấy Bàn Tay của Thiên Chúa.

Chúng ta biết rằng, Bàn Tay ấy vẫn luôn giơ ra.”

(theo A.M.Besnard)

 

 

 

 

 

50. Đức tin cứu sống.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:

Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:

– Hắn vẫn còn sống ư?

Người y tế trả lời:

– Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.

Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:

– Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác

Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.

Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.

Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.

Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.

Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.

Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.

Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.

Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.

Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.

Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.

 

 

 

 

 

51. Chúa Giêsu tiếp tục làm phép lạ

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

 

Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành phố Hi-rô-shi-ma thành tro bụi và giết chết 80.000 người cùng một lúc. Ngôi nhà của chúng tôi là một trong những ngôi nhà chưa bị sụp đổ, nhưng ở trong một điều kiện hết sức tồi tàn: không còn cửa ra vào, các cánh cửa đã bị cơn gió cực mạnh tạo ra do vụ nổ, cuốn đi hết. Chúng tôi chuyển sang ở bệnh viện, nơi tiếp đón, chăm sóc và giúp đỡ cho 200 nạn nhân.

Ngày hôm sau, mồng 7 tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang dâng thánh lễ ở nhà, trước khi bắt đầu công việc cứu giúp những người bị thương và chôn cất những người chết. Trong những giây phút càng bi thảm, người ta càng gần Thiên Chúa hơn, người ta càng thấy cần thiết phải giúp đỡ nhau, khung cảnh thực không thích hợp cho việc sốt sắng thánh lễ. Nhà nguyện thì một nửa đã bị phá hủy, chật ních những người bị thương nằm chen chúc nhau trên mặt đất. Họ đau khổ ghê gớm và quằn quại vì đau đớn. Tôi bắt đầu dâng lễ như tôi có thể, giữa đám người không có chút ý niệm về những gì diễn ra trên bàn thờ: họ là những người ngoại đạo chưa bao giờ tham dự thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác bàng hoàng khi quay lại phía họ để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.” Hồi đó, các linh mục làm lễ quay mặt lên bàn thờ. Không thể cử động được nữa, tôi đứng như người bất toại, hai tay dang ra, nhìn ngắm tấm thảm kịch này của nhân loại. Cảnh tượng thật hãi hùng! Vài phút sau, Đấng mà thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói: “Ở giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”, ngự xuống bàn thờ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự cô độc của những người không biết Chúa Giê-su Ki-tô như lúc ấy. Cứu Chúa của họ đang hiện diện ở đó. Đấng đã hiến mạng sống cho họ… nhưng họ lại không biết “Không biết Ngài ở giữa họ” (Ga 1,26). Lúc đó, chỉ có tôi biết Ngài. Tự nhiên tôi thốt lên lời nguyện cầu cho những kẻ tàn ác dã man đã ném bom nguyên tử: “Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”, và cho những người nằm xoài trước mặt tôi đang quằn quại vì đau đớn: “Lạy Chúa, xin ban cho họ niềm tin để họ thấy và xin ban sức mạnh để họ chịu đựng đau khổ”. Khi nâng tấm bánh lên trước mặt những thể xác đầy thương tích và rách nát này, tôi kêu lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa Con, xin thương xót đoàn chiên không có chủ chăn này!” (Mt 9,36; Mc 6,34). “Lạy Chúa, để họ tin vào Chúa, xin hãy nhớ họ cũng là những người cần phải nhận biết Chúa” (1 Tm 2,4).

Những dòng thác ân sủng chắc chắn đã tuôn chảy từ tấm bánh và bàn thờ. Sáu tháng sau, khi đã được chữa lành, tất cả đã từ giã nhà dòng chúng tôi (chỉ có hai người đã chết ở đó), nhiều người trong số họ đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Tất cả họ đều nhận ra đức ái Ki-tô giáo thì thông cảm, giúp đỡ, đem lại niềm an ủi vượt trên mọi nâng đỡ con người. (Phê-rô Arrupe, S.J, Thánh Thể trong đời tôi)

Tin Mừng Chúa nhật 13 thường niên hôm nay, thánh sử Máccô tường thuật người phụ nữ bị hoại huyết 12 năm, âm thầm chạm tay vào áo Đức Giêsu được chữa lành. Rồi con gái của ông Giaia, Trưởng hội đường đã chết, được Người cầm tay, truyền lệnh chỗi dậy, tức thì cô bé 12 tuổi sống lại. Cả hai phép lạ đều có chung mẫu số, đó là niềm tin vững chãi và mãnh liệt, niềm cậy trông hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa.

Chạm tay

Giữa đám đông chen lấn đến với Đức Giêsu, biết bao người chạm tay vào vạt áo Người, thế mà chỉ có một mình người đàn bà đã chịu 12 năm băng huyết, vô phương cứu chữa, được khỏi bệnh tức thì. Trong khi biết bao người khác cũng có thể bị bệnh này chứng kia về thể xác hay tinh thần, cũng chạm tay vào áo Người, đều không được chữa lành. Chỉ vì người đàn bà bệnh hoạn đó đã hoàn toàn đặt niềm trông cậy, niềm hy vọng tột cùng vào Chúa: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Một sự khẳng định chắc nịch và dứt khoát, không mảy may cân nhắc, so đo, do dự, cũng không một chút nghi ngờ, lưỡng lự, cầu may.

Chạm tay vào áo Đức Giêsu là thể hiện công khai tâm tình phó thác, cùng tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông và tình mến vào Chúa. Không hề e ngại thế gian săm soi, dè bỉu, chê cười, không sợ những thế lực thù địch với Chúa hăm dọa, hãm hại, gây khó dễ, cấm cản, không lo sợ các thầy tư tế, luật sĩ, kinh sư, Biệt Phái mất lòng, kết án. Trước thái độ mau mắn khiêm nhường và cung kính của người đàn bà được chữa lành, Đức Giêsu hân hoan chứng nhận tấm lòng thành khẩn và ân cần chúc phúc: “Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Chạm tay vào áo Đức Giêsu, mỗi khi người Kitô hữu sốt sắng, chăm chú đọc và nghe Lời Chúa, mỗi khi kính cẩn đón rước Thánh Thể, hay tôn kính chầu Mình Thánh Chúa, mỗi khi thành khẩn lãnh nhận các phép Bí tích, mỗi khi thành tâm nghe giảng dạy Tin Mừng… Người Ki tô hữu cũng có thể noi gương người đàn bà bị bệnh kia, chủ động chạm vào áo Chúa Giêsu, khi cầm lòng, cầm trí cầu nguyện, suy gẫm, kinh nguyện, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Lòng Thương Xót vô ngần của Thiên Chúa.

Tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Người đều được chữa lành khi cố gắng luôn gần gũi, tiếp cận bên Người. Có khi Người chữa lành thể xác, hay tâm hồn, hoặc nhiều khi cả hai. Điển hình, Chúa Giêsu vẫn còn đang phép lạ, đã cứu chữa cả thể xác lẫn linh hồn gần 200 nạn nhân bom nguyên tử kể trên, ban cho họ vinh hạnh trở nên con cái Thiên Chúa.

“Từng ngàn bệnh nhân trong nhà thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: “Chúng ta đang ở bên Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 232)

Cầm tay

Đức Giêsu vừa chữa lành và đang an ủi người đàn bà hoại huyết, thì người nhà ông Giaia, Trưởng hội đường, báo tin con gái ông đã chết, đừng làm phiền Người nữa. Đức Giêsu liền trấn an: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Người đến tận giường, cầm tay cô bé ra lệnh: “Talithakum,” nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Chỗi dậy đi.” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Thoạt đầu, ông Giaia chỉ cầu xin Đức Giêsu đến đặt tay lên, cứu chữa cháu bé đang hấp hối. Nay Người còn làm hơn thế nữa, ân cần, chủ động và thân thương cầm lấy tay để hồi sinh cháu.

Trong ba phép lạ cho sống lại, như Lazarô (Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Nain (Lc 7,12-15) và con gái ông Giaia, (Mc 5,41) thì chỉ có duy nhất lần này, Người cầm lấy tay cô bé cho hồi sinh, y như Người đã cầm tay nhạc mẫu ông Phêrô, chữa khỏi cơn sốt, (Mc 1,31) cầm tay dắt anh mù ra khỏi làng, rồi cho anh sáng mắt, (Mc 8,23) cầm tay đứa trẻ chữa khỏi quỷ ám. (Mc 9,27)

Chạnh lòng cầm tay người hoạn nạn, Đức Giêsu chứa chan yêu thương, tràn trề lòng thương xót, ân cần cứu thoát khỏi bệnh tật, khỏi ma quỷ, khỏi cái chết. Người vẫn cầm tay từng người dẫn dắt khỏi chốn nguy khốn, khỏi cám dỗ xác thịt, khỏi tội lỗi bùn nhơ, khỏi án phạt chết muôn đời, những ai tin vào Người, không phân biệt thân sơ, không giới hạn sang hèn, chẳng kỳ thị dân tộc.

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).

Đức Giêsu cầm lấy tay cứu giúp những ai trông cậy, tin tưởng vào Người khỏi cơn gian nguy, chết chóc. Người làm gương cho những ai theo Người, biết cầm tay tha nhân an ủi, cứu chữa, giúp đỡ và phục vụ. Người dạy Kitô hữu biết chủ động dấn thân phục vụ bằng hành động cụ thể, thân thiện và trịnh trọng cầm lấy tay những người khó khăn, gặp nạn, bị xã hội bỏ rơi, khinh khi, oán nghét để ân cần chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, tương thân, tương ái.

“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: Là Đấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em. (1Ga 3,16). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân?” “Hãy làm như Chúa Giêsu: Thí Mạng.” Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận,” thì thôi, nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình,” “dấn thân thương mại.” (Đường Hy Vọng, số 612)

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn chạm tay vào áo Người, để được an ủi và cứu chữa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết chạm tay phục vụ tha nhân, chứ không chỉ nói suông, hay a dua làm từ thiện theo phong trào.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ, luôn biết cần mẫn tìm đến Chúa, cũng như luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân trong suốt cuộc đời. Amen.

 

 

 

 

 

52. Kẻ ăn trộm phép lạ – AM Trần Bình An

 

Tại thành phố Pleiku, ngày 28/9/2004, một xác thai nhi đỏ hỏn đã tím tái, bọc sơ sài trong giấy báo, được đưa đến Lm Phêrô NVĐ, Quản xứ Thăng Thiên, để được chôn cất tại nghĩa trang Đồng Nhi. Khi Lm vừa mở gói giấy báo ra, dù mắt còn chưa kịp mở, thai nhi liền mừng rỡ giơ bàn tay bé xíu, nắm lấy ngón tay vị Chủ Chiên, tìm chút hơi ấm tình người,. Ngài thân thương đặt tên bé là Nguyễn Trung Thu, vì bé bị sát hại đúng vào ngày rằm Tháng Tám, mỉa mai thay Tết nhi đồng.

Câu chuyện đau xót này, gợi chúng ta liên tưởng đến bàn tay Chúa Giêsu, nắm lấy tay em bé cũng đã chết. Ngài truyền lệnh “Talithakum” có nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy chỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi.” (Mc 5,41-42)

Trước đó, một bà cụ bị rong huyết đã mười hai năm, bao phen khốn khổ vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác (Mc 5,25-26). Bà đã thừa cơ đông người chen lấn, đụng vào vạt áo Chúa Giêsu, liền được khỏi bịnh. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã khéo léo ví von, bà đã lén lút như Kẻ Ăn Trộm Phép Lạ.

1- Khiêm hạ

Thái độ của ông Giaia, Trưởng hội đường, khiêm cung, sụp lạy cầu xin Chúa Giêsu cứu giúp con ông sắp chết, cũng như thái độ bà cụ bệnh mãn tính ao ước được chữa lành, đã phủ phục trước mặt Người, đều chứng tỏ lòng khiêm tốn sâu xa. Nhân đức luôn được Chúa đề cao và tưởng thưởng.

2- Phó thác

Không những tha thiết chạy đến với Chúa, hai người đó còn hoàn toàn phó thác, tin cậy vào Chúa Giêsu. Mặc dù được biết đứa con gái đã chết, ông Giaia vẫn một lòng trông cậy vào Chúa đến cứu giúp, không hề ngã lòng. Mặc dù không dám đối diện với Chúa, vì mặc cảm ô uế, bà cụ vẫn một mực ao ước được gần gũi, được chạm vào vạt áo Chúa, để được chữa trị.

3- Đức tin

Chính vì đặt hết niềm tin vững mạnh vào Chúa, bà cụ và ông Giaia đều được Chúa cứu giúp. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh.” (Mc 5,34) Với ông Giaia, cũng với điều kiện duy nhất, Chúa phán: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (Mc 5,36)

4- Quyền năng Thiên Chúa

Trước bênh hoạn và cái chết, Chúa Giêsu đã tỏ ra quyền năng tuyệt đối trên những sự dữ. Ngài đã chống lại cái chết, cũng như tiên báo cho ngày Chúa chiến thắng sự chết, mà Phục Sinh vinh hiển. Ngài cũng giải phóng con người khỏi cái chết đời đời, nếu tin cậy vào Ơn Cứu Độ.

Lạy Chúa Giêsu nhân ái, xin mở lòng trí con, luôn biết gần gũi với Chúa mọi nơi, môi lúc, khi gặp tha nhân, khi nghe Lời Chúa, khi rước Thánh Thể, để đặt hết niềm tin cậy vào Ngài, hầu được Ơn Cứu Rỗi.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết khiêm hạ, tin cậy, tín thác vào quyền năng vô biên của Chúa, để con được sống trong cõi phúc đời đời. Amen.

 

 

 

 

 

53. Nguồn sống

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Bệnh tật và chết là hai thực tại của cuộc sống. Không ai sống mạnh khoẻ suốt đời, ít nhiều gì cũng có bệnh. Có sinh tất có tử, không ai có thể tránh khỏi. Bệnh thể lí dễ nhận ra bởi nó xuất hiện trên khuôn mặt, có thể dò, đo, hỏi, tìm biết nguyên nhân gây mầm bệnh. Bệnh về tâm linh khó nhận ra bởi bệnh tâm linh tiềm ẩn bên trong nên không dễ nhận bằng quan sát. Thinh lặng, cầu nguyện và lắng nghe tiếng lòng là chìa khoá mở tìm kiếm bệnh tâm linh. Cuộc sống nào cũng cần đời sống tâm linh. Không tin Chúa thì tin thần thánh. Chối bỏ thần thánh thì tin vào con người, tin chủ thuyết, trường phái hay chế độ, vì thế phát sinh ra nhiều trường phái linh đạo khác nhau. Phổ thông và có nhiều thành viên hơn cả là trường phái linh đạo đòi ít cố gắng, vừa nhàn lại dễ dãi. Đúng với tên gọi của nó, trường phái linh đạo dễ dãi giúp cuộc sống an bình trong hoàn cảnh dễ dãi. Gặp hoàn cảnh khó khăn trường phái linh đạo dễ dãi không giúp giải quyết vấn nạn cuộc sống. Đây chính là kinh nghiệm của người phụ nữ bệnh loạn huyết và cũng là kinh nghiệm của người cha thương con khi con ông đối diện với cái chết. Cả hai cùng ra đi, dời khỏi nơi nương náu an toàn trước đây đến gặp Đức Kitô. Cả hai xin được cứu giúp và Đức Kitô đã ban cho cả hai được toại nguyện, thoả lòng. Khiêm nhường và chân thành là con đường dẫn đến Đức Kitô.

Cả hai đều đặt tin tưởng vào bác sĩ và cải hai đều nhận biết chính họ cũng có giới hạn. Người phụ nữ theo bác sĩ lòng, hết tiền, hết tài sản, không hết bệnh, đã vậy bệnh còn nặng thêm. Người con gái ông trưởng hội đường cũng không may mắn hơn, bệnh không khỏi, bác sĩ lắc đầu chào thua. Phó mặc em bé cho cái chết tiến gần. Cuối cùng cả hai dấn thân, ra đi, không còn người trần gian nào giúp được nên họ đến gặp Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Cả hai đều biểu lộ lòng tin một cách đáng thán phục, đáng ca tụng. Mỗi người biểu lộ lòng tin của mình một cách khác nhau. Người phụ nữ tin là sờ vào gấu áo Đức Kitô sẽ khỏi bệnh. Ông trưởng hội đường không phải chỉ tin ‘còn nước, còn tát’ theo kiểu nói bình dân. Tin buồn đưa đến là con ông đã chết. Dẫu thế ông vẫn tin Đức Kitô là nguồn ban sự sống. Sự sống Ngài ban làm cho kẻ chết sống lại.

Người phụ nữ thầm cầu mong nếu không được chạm đến Ngài, chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài cũng sẽ khỏi bệnh và bà ta được toại nguyện. Sờ vào gấu áo Đức Kitô bà cảm nhận ơn chữa lành tại chỗ. Đức Kitô biết có người âm thầm sờ gấu áo bởi Ngài biết ân sủng lan toả ra nên Ngài hỏi các môn đệ ‘ai đã sờ gấu áo tôi’ c.30. Các ông ngạc nhiên thưa ‘Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘ai đã sờ vào tôi’ c. 31. Biết không thể giữ kín điều đã làm người phụ nữ sợ hãi đến trước mặt Đức Kitô quì gối nhận chính bà đã sờ gấu áo và xin ơn khỏi bệnh. Đức Kitô nói với bà bởi do lòng tin bà được nguồn sống. Bà cùng lúc nhận được ba ơn Chúa ban đó là ơn chữa lành, ơn bình an và ơn giải thoát c.34.

Ông trưởng hội đường còn đang nói chuyện với Đức Kitô thì gia nhân đến thưa: ‘Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa c.35. Đức Kitô an ủi ông: ‘Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi’ c.36. Vào đến nhà Đức Kitô nói với người đang khóc: ‘Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy c.39’ và người ta chế nhạo Người. Đức Kitô cầm tay kẻ chết và nguồn sống từ Ngài truyền sang em bé. Em đứng dậy đi lại bình thường. Ngày nay cũng có người chế nhạo khi Kitô hữu tin là Thiên Chúa tạo dựng đất trời, điều khiển mọi sinh hoạt trong trời đất và ban cho chúng sự sống. Chế nhạo lòng tin của Kitô hữu để tin vào khám phá tìm kiếm của khối óc con người, mệnh danh là khoa học. Thủ hỏi nếu Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ khoa học có gì để nghiên cứu không? Chắc chắn môn khoa học đã không ra đời.

Chữa bệnh cho người phụ nữ và cho con gái ông trưởng hội đường cho thấy Đức Kitô không loại trừ bất cứ ai, ân sủng Ngài ban cho bất cứ ai thành tâm. Ân sủng Chúa vượt biên giới, mầu da, sắc tộc và ngay cả chủ thuyết. Những ai thành tâm đến với Ngài đều không phải trở về tay không nhưng nhận được nhiều hơn điều mong ước.

 

 

 

 

 

54. Đời sống – Lm. Vũ Đình Tường

 

Mỗi sáng thức dậy chúng ta cảm nghiệm một ngày mới và rồi bắt đầu ngày mới với công việc cũ, một ngày bình thường như mọi ngày. Chúng ta ý thức ngày mới trong tuần, ngạc nhiên ngày đầu tháng đến mau và nghỉ làm để mừng ngày đầu năm mới. Đối với con người ngày đầu năm mang ý nghĩa đặc biệt nhưng với thiên nhiên có lẽ ngày đầu năm cũng chẳng khác chi bởi cứ theo chu kì, xoay vần của trời đất mà ngày này qua đi, ngày khác lại đến; mùa này qua mùa khác đến.

Thực ra mỗi ngày mới đều khởi đầu bằng cuộc sống mới bởi ngày cũ đã qua đi, không thể lập lại. Dù làm công việc cũ, việc thường ngày nhưng ngày mới vẫn có cái mới mẻ của nó. Mừng ngày mới mà quên mừng cuộc sống mới là một thiếu sót quan trọng bởi dù ta sống hay chết ngày mới vẫn đến. Ngày mới khởi đầu bằng cuộc sống mới nên cần đón mừng cuộc sống mới mỗi ngày. Không phải tất cả mọi người tối đến đi ngủ sáng mai đều thức dậy đón ngày mới cả đâu. Vì thế mỗi tối đi ngủ tương tự như ta đi vào cõi âm, bóng tối của sự chết và sáng hôm sau thức dậy ta bước ra từ bóng tối màn đêm tiến vào ánh sáng ban mai, huy hoàng. Bỏ lại ngôi mộ trống với chăn màn dùng qua đêm. Kitô hữu ý thức điều đó nên mỗi sáng thức giấc họ đều mừng ngày mới với cuộc sống mới. Việc đón mừng đời sống mới với lời kinh nguyện ban mai nghe rất đơn giản nhưng ý nghĩa của nó cao sâu, nhiệm màu. Cao siêu vì lời kinh đó nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho một đêm ngủ yên lành. Cao siêu vì chúng ta nhận biết mọi sự ta có là của Chúa ban, kể cả giấc ngủ đêm qua. Chúng ta không làm chủ đời mình và tài năng mà chỉ là người quản lí cuộc đời được Chúa tin tưởng, phó thác, trao ban cho chúng ta coi sóc, quản lí. Dâng ngày mới, đời mới cho Chúa giữ gìn, bảo vệ, hướng dẫn tư tưởng và bước đường ta đi đồng thời giúp ta tránh khỏi nguy hiểm, sa ngã cạm bẫy cuộc đời là tìm sự khôn ngoan, hướng dẫn, bảo vệ nơi Chúa của người Kitô hữu. Mỗi ngày chúng ta dâng Chúa tâm tình, tin yêu và cảm tạ mong ơn Chúa thánh hoá giúp chúng ta trở nên giống Chúa nhiều hơn. Chúng ta dâng ngày mới cho Chúa mỗi ngày, và long trọng hơn mỗi tuần một lần nơi thánh đường với anh chị em khác và hai lần tối long trọng hàng năm vào dịp Phục Sinh và mùa Giáng Sinh để cảm tạ Chúa ngày mới với cuộc đời mới Chúa ban và kết hợp với cuộc sống Phục Sinh và vinh quang của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.

Jairus trường lãnh binh Đền Thờ tin Đức Kitô có quyền trên sự sống và người phụ nữ mắc bệnh kinh niên tin Đức Kitô có quyền trên các bệnh nan y mà con nguời bó tay không thể chữa trị. Cả hai đã đúng và cả hai tin mãnh liệt vào quyền phép Đức Kitô và cả hai đều được đúng ơn họ xin. Họ tin Đức Kitô quyền phép làm được những sự việc cao cả nhưng vẫn không biết Đức Kitô còn biết rõ tâm tư thầm kín họ. Vì thế người phụ nữ thầm tín nếu bà ta đụng vào gấu áo Đức Kitô bệnh của bà sẽ khỏi. Một mình bà biết điều đó. Bà thì run sợ còn môn đệ thì ngạc nhiên khi Đức Kitô nói ai đã chạm đến gấu áo Ngài.

Là môn đệ Đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào Ngài cũng được hưởng những đặc ân như vị lãnh binh đền thờ và như người phụ nữ bệnh kinh niên. Dù đôi khi không cảm nghiệm, dù không bao giờ nhìn thấy nhưng với lòng tin chúng ta biết Đức Kitô luôn đồng hành cùng ta trong mọi bước đường của cuộc sống và Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng trên đường đời.

 

 

 

 

 

55. Thầy thuốc tối cao – Arthur Tone.

 

Bác sĩ George Lewell đã nhiều năm làm nhà truyền giáo y khoa cho phái Tin lành Southern Baptist ở Trung Quốc. Truyền giáo y khoa là một bác sĩ, tá viên hay một người nào đó được huấn luyện để đầu tư thời giờ, tài năng vào việc chữa trị đau đớn thể xác như một phương thế để đem linh hồn người ta về cho Đức Kitô.

Bác sĩ Lewell nói về một bà lớn tuổi, bà được đem vào bịnh viện Stout Memorial ở Quảng Đông, mà ông là bác sĩ giải phẫu trưởng. Một ai đó đã nói với bà bệnh nhân rằng Đức Giêsu là bác sĩ sẽ chữa lành bà, nên khi bà thấy bác sĩ trong bộ đồ trắng cúi xuống trên bà, bà nhìn lên bác sĩ và hỏi: “Ông là Giêsu?”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô kể rằng: “Một người đàn bà bị băng huyết, đã 12 năm. Nàng đã chạy chữa nhiều thầy thuốc, và tốn kém hết tiền bạc mà không giảm bớt, nhưng còn trầm trọng hơn. Mặc dù đám đông chen lấn nhau quanh Chúa Giêsu, nàng cũng ráng chen vào gần, với tay đụng tới gấu áo của Chúa, với hy vọng được chữa khỏi. Đức Giêsu biết có sức mạnh từ người phát xuất. Người quay về phía người đàn bà mắc bệnh và nói: “Hỡi con, đức tin của con đã làm cho con tất cả. Con về bình an và khỏi bệnh”.

Người đàn bà này tượng trưng cho chúng ta, những người đã một vài lần phải đi bác sĩ, hay ít nhất chúng ta cũng dẫn một người thân thương đi bác sĩ.

Như những người theo Chúa Kitô, bạn và tôi có lợi và sự nâng đỡ đặc biệt khi phải cầu cứu bác sĩ hay thầy thuốc. Khi bạn hay một người thân yêu, hoặc người bạn phải đến bác sĩ, bạn hãy tín nhiệm, cộng tác và tin cậy họ như một dụng cụ của Chúa. Một bác sĩ giỏi, tài ba, cũng chỉ có giới hạn. Vì lý do đó, khi bạn phải tìm một bác sĩ, bạn phải đến với Chúa trước. Hơn nữa, trên mọi khả năng, tài khéo của một bác sĩ giỏi nhất, Đức Kitô vẫn còn chữa lành một cách mầu nhiệm.

Khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ dâng lời cầu nguyện lên Đức Kitô, Đấng chữa lành để bạn chọn đúng một bác sĩ. Để nhờ ơn Chúa. bác sĩ định bệnh và cho bạn liều thuốc hiệu nghiệm. Ngay cả trước khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ cám ơn Chúa về sức khỏe hằng ngày của bạn. Thường thường, người ta chỉ thấy sức khỏe là quý giá sau khi đã mất nó.

Không như người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đến với các thầy thuốc trước, chỉ sau cùng, thất vọng, bà buộc phải tìm đến và đụng tới Đức Kitô. Bạn và tôi sẽ đến với Đức Kitô trước và trong khi được bác sĩ chữa trị.

Chúng ta tiếp xúc với Đức Kitô trong mỗi phép bí tích, nhất là trong Thánh Lễ và Rước Lễ. Chúng ta không như những người tin càn dở, họ chối bỏ mọi phương pháp trị liệu y khoa. Trái lại chúng ta dùng mọi phương pháp y học nhưng không quên chạy đến Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật là Đức Giêsu Kitô, Chúa mọi thiện hảo, nhất là Chúa mọi sức khỏe linh hồn và thể xác.

Ước gì chúng ta có được niềm tin của người phụ nữ trong bài Tin Mừng. Ước gì Đức Giêsu khen thưởng niềm tin của chúng ta bằng ơn trợ giúp nhân từ và quyền năng của Người.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

 

 

 

 

56. Lòng tin của con đã cứu con.

 

Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi biển. Bốn dấu chân in hằn trên cát. Nhưng lúc gặp chuyện khó khăn, chàng thanh niên nhìn xuống chỉ còn thấy có hai dấu chân thôi. Anh kinh ngạc kêu lên:

– Thưa Thầy, nãy giờ Thầy đi đâu mà để con bước một mình? Đức Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh:

– Con nhìn kỹ xem đó là dấu chân của ai nào?

Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới thấy đó là dấu chân của Chúa.

Anh la lên:

– Vậy thưa thầy, nãy giờ con ở đâu?

Đức Giêsu trả lời:

– Này con, những lúc gặp khó khăn, Thầy biết con không đủ sức chịu đựng, vì thế Thầy đã vác con trên vai đó.

Thực sự, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ tin cậy Người, nhất là khi thấy niềm tin của ta bị thử thách quá sức, Chúa liền tạo điều kiện để chúng ta vượt qua. Người vác ta trên vai, có nghĩa là triệt để nâng đỡ ta, ngoài sức tưởng tượng của ta.

Người phụ nữ bị hoại huyết trong Tin Mừng hôm nay được chữa lành hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Dĩ nhiên, muốn được chữa lành, người ta phải biểu lộ lòng tin. Mà bệnh nhân này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng, làm sao dám đến xin Chúa chữa bệnh cho mình. Chúa đã soi sáng cho bà, và bà hiểu chỉ cần biểu lộ lòng tin một cách nào đó, cũng hy vọng được ơn lạ. Nghĩ thế, bà đã len lỏi phía sau Chúa, lén chạm vào áo Chúa, và sự lạ đã xảy ra: bà được khỏi bệnh.

Người bệnh chạm vào Chúa là đã vi phạm luật cấm. Nhưng bà nghĩ rằng giữa đám đông chen lấn như thế ai mà biết được. Chính các môn đệ cũng ngạc nhiên khi nghe Chúa hỏi xem đã có ai đụng chạm vào Ngài. Còn Chúa, Ngài biết rõ mọi chuyện. Thay vì lặng thinh để khỏi bị tai tiếng vì đã chạm tới một phụ nữ ô uế, Chúa lại muốn đưa sự thật ra ánh sáng, để mọi người thấy lòng tin của bệnh nhân và thấy rằng Chúa hài lòng với một lòng tin như thế. Nhờ lòng tin, người bệnh chẳng những được chữa lành, lại còn được ơn cứu độ, đó là ơn cao quí hơn được lành bệnh thể lý, và đó là điều Chúa quan tâm hàng đầu. Nhân dịp này, Chúa đã dạy các môn đệ một bài học mà sau này Thánh Phaolô đã khai thác và viết thư khuyên dạy các Giáo đoàn: Nhờ đức tin mà có ơn cứu độ.

Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.

Lạy Chúa, xin giúp con biết tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, biết âm thầm cố gắng biểu lộ lòng tin trong cuộc sống, mặc dầu chỉ mình Chúa biết mà thôi.

 

 

 

 

 

57. Cộng tác viên không phải bù nhìn – Lm. Mark Link

 

Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà thấy có một chiếc ca-nô tiến đến.

Người tài công nói với bà:

– “Bà leo lên đây và cứu lấy mình.”

– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”

Người tài công lắc đầu bỏ đi. Ngày hôm sau, nước dâng lên đến lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu khác xuất hiện. Người lái tầu bảo,

– “Bà leo lên tầu đi để cứu lấy mình.”

– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”

Người lái tầu lắc đầu bỏ đi. Ngày sau nữa, nước đã dâng lên đến mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất hiện. Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà,

– “Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên và cứu lấy mình.”

– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.” Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.

Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà bị chết chìm. Khi lên đến thiên đường, bà nói với Thánh Phêrô, “Trước khi tôi vào đây, tôi phải làm đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi khỏi bị lụt, nhưng Người đã bỏ tôi.”

Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt khó hiểu và nói, “Tôi không biết Chúa có thể làm gì hơn cho bà. Người đã gửi đến cho bà hai con tầu và một chiếc trực thăng.”

Người đàn bà này chắc phải đọc bài Phúc Âm hôm nay kỹ càng hơn.

Trong bài có hai người cần sự giúp đỡ giống như bà. Và cả hai đều tín thác vào Chúa, cũng như bà. Nhưng có sự khác biệt lớn lao giữa sự tín thác của họ và của bà.

Hãy xem đó là gì.

– Người đầu tiên là một bà bị bệnh. Bà tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa lành cho bà. Nhưng bà cũng biết rằng bà có thể làm một điều gì khác hơn là chỉ tín thác nơi Đức Giêsu. Bà phải tiến thêm một bước nữa. Bà phải thi hành phần của bà. Bà không thể chỉ ngồi đó và chờ đợi Đức Giêsu đến với bà. Bà phải đứng lên, đi đến Đức Giêsu, và tự trình bầy với Người để được chữa lành.

– Điều này cũng đúng với câu chuyện thứ hai trong Phúc Âm hôm nay. Ông Giairút cũng tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa con gái đang đau nặng của ông. Nhưng ông cũng biết là phải làm điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Ông biết là phải tiến thêm một bước nữa. Ông phải thi hành phần của ông. Ông phải cộng tác với Đức Giêsu. Vì con gái của ông quá đau yếu nên không thể đến với Người, ông phải xin Đức Giêsu đến với đứa con của mình.

Và vì thế cả hai người trong bài Phúc Âm hôm nay đều thi hành điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Họ đã tiến thêm một bước. Họ đã thi hành phần của mình. Họ đã tận dụng các phương tiện bình thường mà Chúa ban để có được sự chữa lành họ cần.

Đây là điểm mà bà bị chết chìm đã sai lầm. Bà quên rằng Thiên Chúa thường hành động trong đời sống chúng ta qua các phương tiện thông thường. Bà quên rằng chúng ta phải thi hành phần của mình và cộng tác với Thiên Chúa qua việc sử dụng các phương tiện thông thường mà Người đã ban cho chúng ta.

Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi lì một chỗ và mong Chúa làm phép lạ cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải dùng mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp đỡ chúng ta.

Để tôi minh họa bằng một câu chuyện có thật.

Một thầy giáo Anh Văn lớp trung học có một học sinh trong lớp chẳng chịu học hành gì cả. Vào ngày thi cuối năm, người học sinh này đến nói với ông thầy là anh rất tin tưởng rằng anh sẽ được điểm cao. Anh nói, trong tuần qua, hằng đêm anh cầu xin Chúa giúp anh làm bài thi Anh Văn.

Thiên Chúa không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho việc học hành. Người không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho sự chuyên cần. Nhận được sự giúp đỡ của Chúa là một con đường hai chiều. Nó bao gồm sự cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta phải thi hành phần của mình, và Thiên Chúa sẽ thi hành phần của Người.

Thánh Y Nhã có diễn tả sự cộng tác với Thiên Chúa như sau: “Chúng ta phải làm việc như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào chúng ta, nhưng chúng ta phải cầu nguyện như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào Chúa.”

Nói cách khác, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa và tận dụng các phương tiện thông thường mà Người ban cho chúng ta trước khi xin Người can thiệp trong một phương cách bất thường. Có câu châm ngôn nói rằng: “Thiên Chúa giúp những ai tự giúp mình.”

Nhiều năm trước đây có một tiểu thuyết bán rất chạy tên là Jonathan Livingston Seagull. Trong đó có một câu thật hay được dùng làm chủ đề cho bài hát. Câu ấy như sau: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”

Đó là phương cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta khi cần giúp đỡ chúng ta. Người đã để chúng ta tự do. Người không ép buộc chúng ta phải nhận sự giúp đỡ của Người. Mọi sự đều sẵn sàng cho chúng ta và Thiên Chúa để chúng ta được tự do có muốn sử dụng điều đó hay không.

Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những tên bù nhìn. Người đối xử với chúng ta như những cộng sự viên. Nói cách khác, Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi tài nguyên cần cho đời sống thường ngày của chúng ta.

Chỉ khi các tài nguyên này bị hao hụt trong những hoàn cảnh khẩn cấp chúng ta thường sẽ nghĩ đến việc quay về với Chúa để được trợ giúp. Khi chúng ta quay về với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh này, chúng ta có thể biết chắc rằng Người sẽ giúp chúng ta, vì Người là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người.

Hãy chấm dứt phần suy niệm với câu trong cuốn Jonathan Livingston Seagull: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”

Lạy Chúa, trong tình phụ tử của Ngài dành cho chúng con, Ngài đã để chúng con được tự do. Xin giúp chúng con chứng tỏ tình yêu của con cái đối với Cha hiền bằng cách quay về với Chúa khi chúng con cần sự giúp đỡ đặc biệt của Ngài.

 

 

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ