Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1440732

“BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG”

“BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG”

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Dân làng Nagiarét ngạc nhiên mà không tin

Trong thời gian rao giảng Tin Mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng Tin Mừng nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này mà thôi, bởi lẽ đối với các ngài, thái độ rẻ rúng của dân làng Nagiarét đối với Đức Giêsu trong lần viếng thăm ấy, đã mang ý nghĩa tiêu biểu cho thái độ chối từ của dân Do Thái mà Người đã phải hứng chịu.

Phần đầu của buổi viếng thăm này rất giống với những gì Maccô kể ra ở 1,21: thiên hạ đều sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu. Nhưng phần kết thúc của hai bài tường thuật lại khác nhau hoàn toàn. Ở đây, nơi quê quán của Người, những người nghe cảm phục, rồi lại mau chóng thay lòng đổi dạ, không tin Chúa, tiên vàn họ đều là những người cùng làng xóm với Người. M.E. Boismard tự hỏi: Làm sao giải thích sự thay đổi tình hình như vậy? Ông gợi ý: “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến như sau: Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng lại nếm tin này khi kể lại ý kiện sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêsia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêsia” (Dial. 110,1).

Đó đúng là luận điệu của những người làng Nagiarét; mà cũng là luận điệu của cư dân Giêrusalem được Tin Mừng Gioan tường thuật: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả”, nghĩa là không ai biết rõ nguồn gốc của Người (Ga 7,27). Đối với những dân làng Nagiarét cũng vậy, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì người ta biết rõ Người, biết cả tông chi họ hàng của Người nữa” (Jésus, un homme de Nagiareth, Cerf, 1996, trang 84).

– Cụ thể là họ biết rõ nghề nghiệp của Người: “Ông ta không phải là bác thợ mộc sao?” (thời ấy nghề thợ mộc không chỉ chuyên lo về mộc, mà cũng còn lo cả việc xây cất nhà cửa nữa).

– Họ biết rõ bà thân mẫu của Người: “Ông ta không phải là con bà Maria sao?”

– Họ biết bà con họ hàng của Người: “Ông ta không phải là anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con cùng xóm với chúng ta sao?”.

Thế nên, làm sao mà họ nhận biết được Người là vị ngôn sứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến để nói nhân danh Chúa? Họ ‘hoàn toàn vấp ngã’ (sát nghĩa là bị xì-căng-đan) vì Người”. Đức Giêsu người đồng hương của họ, mà trước đây họ lấy làm vui sướng đón tiếp, thì giờ đây lại trở nên một chướng ngại vật khiến họ vấp ngã.

2. Đức Giêsu “ngạc nhiên” vì họ cứng lòng tin và đành bó tay.

– Con người mà, các môn đệ đã từng thấy truyền lệnh cho sóng yên bể lặng (Tin Mừng Chúa Nhật 12), xua đuổi quỷ dữ (phép lạ chữa người bị quỷ ám ở Ghêrasa 5,1-20), cho người đàn bà mang bệnh bất trị được khỏi và đem cô gái con ông Giairô ra khỏi giấc ngủ ngàn thu, thì nay bỗng trở thành kẻ bất lực, vô phương, ‘ngạc nhiên’ vì những người đồng hương của mình cứng lòng tin. Maccô chẳng e ngại khi phải viết lời này: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó? Không phải là vấn đề thiếu yếu tố tâm lý cần thiết cho sự lành bệnh, mà chính là tại thiếu lòng tin, vì có tin thì “phép lạ” mới có được ý nghĩa đích thực. Nên Đức Giêsu đành phải mượn ý câu ngạn ngữ “Bụt nhà không thiêng” mà kết luận rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.

– Nhưng không gì có thể ngăn chặn được tính năng động của Lời. Thái độ chối từ của người làng Nagiarét, cũng như sự ngạc nhiên thúc thủ của Đức Giêsu, đều đã loan báo tấn bi kịch về cuộc khổ nạn và sự thất bại tỏ tường của Thập giá; mà còn mở ra việc Đức Giêsu khai trương đi rao giảng cho ‘các làng chung quanh’ loan báo trước chiến thắng phục sinh và công việc truyền giáo cho các dân ngoại.

– Đây là đoạn bản lề phân chia Tin Mừng Maccô thành hai phần rõ rệt.

+ Một giai đoạn đang hoàn thành. Trong suốt giai đoạn này vấn đề nhân tính của Đức Giêsu không ngừng được vang lên như một điệp khúc: “Vậy người này là ai?”.

– Về phía các môn đệ, vấn đề luôn mở ra: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Các môn đệ đã khởi sự đi vào gia đình đích thực của Đức Giêsu, gia đình của những người thực hành ý muốn của Thiên Chúa (3,31-35). Rồi đây sau cơn hốt hoảng của Ngày Thứ Sáu Thánh, các ông sẽ có thể tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, chết, sống lại là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma nơi Maccô 1 5,39).

Về phía dân làng Nagiarét, vấn đề được khép lại: “ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao? Câu hỏi đó đã là điềm báo trước con đường bi thảm của hiện tượng này: thái độ chối từ Chúa.

+ Một giai đoạn mới đang mở ra. Giai đoạn đó sẽ đưa ta đi từ việc tham gia công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai (Tin Mừng Chúa nhật tới) để rồi cùng tuyên xưng lòng tin với Phêrô (8,26).

BÀI ĐỌC THÊM.

1) “Đức Giêsu đối mặt với thái độ không tin”

(Cahiers-Evangile, số 1/2 trang 53).

Câu chuyện Đức Giêsu đến Nagiarét (6,1-6) xoay quanh vấn đề không tin và tạo nên bức tranh tương phản với chuyện xảy ra trước đây.

“Đức Giêsu lấy làm lạ vì họ không tin” (6,6). Một sự kiện thật là tương phản với loạt phép lạ xảy ra trước đây, và chứng tỏ rằng để nhận ra được Đức Giêsu có quyền làm cho kẻ chết sống lại, người ta phải có một lòng tin đến thế nào.

Tới Nagiarét, nơi quê quán của Người lúc này Đức Giêsu phải đối mặt với thái độ không tin của con người. “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Việc Người không thể làm được phép lạ ở đây có liên quan tới thái độ không tin của những người trong cuộc chứ không phải do yếu tố tâm lý nơi người bệnh vốn cũng là điều kiện cho người ấy được khỏi. Không có bối cảnh của lòng tin, phép lạ chẳng còn ý nghĩa gì, và sẽ không thể nói đến phép lạ.

Đức Giêsu đã phải sửng sốt vì thái độ không tin này. Ta hãy xem Người đã tỏ thái độ thế nào với các môn đệ khi gặp bão táp: “Sao nhát thế”. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (4,40). Người ta không có lòng tin là điều Chúa không hiểu nổi, thì ngược lại, khi thấy một lòng tin mạnh như thế, ngoài Israel, Người tỏ ra rất ngạc nhiên như Matthêu và Luca ghi nhận (Mt 8,10, Lc 7,9) Còn trong trường hợp này, Đức Giêsu đang ở quê nhà, giữa đám bà con họ hàng. Người đã nói với họ rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi” (6,4). Chỉ có mình Máccô, nhấn mạnh và xác định rõ là “giữa đám bà con thân thuộc”. Tại Nagiarét, người ta lại thấy có sự phân biệt trong liên hệ “ai là mẹ tôi” đã diễn tả trước đây (3,20-35). Ở đây sự thu hẹp (về liên hệ) còn rõ nét hơn. Bởi lẽ có lần Chúa đã xác định gia đình mới của Người là những ai nghe Lời Chúa, những kẻ mà trong một buổi gặp gỡ trước đây được mô tả là ngồi chung quanh Chúa. Lúc này Đức Giêsu và các môn đệ Người lại giữ khoảng cách với những người đứng ở ngoài, những người không thuận với Người.

Trước đây có lời chép rằng: “Ai nghe Lời Chúa, người ấy là bà con thân thuộc với Tôi” (3,35). Còn ở đây, Người muốn tỏ cho thấy rằng ai tin, người ấy là bà con thân thuộc của Người. Nghe lời Chúa và tin vào Người là hai mặt luôn kết hợp hài hòa và bổ túc lẫn nhau.

2) “Ta biết người ấy quá mà”

(Đức Cha L.Daloz trong “Qui don est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 37-38).

“Nếu lòng tin tạo khả năng đón nhận ơn cứu độ Chúa mang đến, thì sự thiếu lòng tin dựng lên hàng rào ngăn cản. Ở Nagiarét, Đức Giêsu không thể làm được một phép lạ nào, dù là đang ở tại quê nhà, giữa đám bà con thân thuộc của mình. Ở giữa đám bà con, mà Người phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Đức Giêsu lấy làm lạ. Còn họ khi được nghe lời Người giảng dạy ở hội đường thì “rất đỗi ngạc nhiên”. Đôi bên ngạc nhiên nhau, một thứ không hiểu nhau. Ở đây sự gần gũi với Đức Giêsu lại nên như bức màn che giấu mầu nhiệm về bản thân Người. Người đang có mặt ở đây, rõ ràng là người đồng hương của ta. Người ta biết Người rành rọt: biết nghề nghiệp của Người, biết bà mẹ và các anh chị em của Người. Họ biết tất cả, mà cái cốt yếu thì lại không biết. Bác thợ mộc Giêsu, người Nagiarét đã phải kín đáo lắm, bình dị lắm, phải y hệt như mọi người, “chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt. Bởi đâu ông ta được như thế”. Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?”. Như vậy, Đức Giêsu đã tỏ ra hoàn toàn là người, hoàn toàn là một người Nagiarét, nên ở quê hương mình, người ta không thể công nhận được rằng ngoài những điều mà tới nay ai nấy vốn đã có thể biết, Người còn có gì hơn nữa. Từ bé đến nay, việc ta quen lui tới với Chúa, với nhiều cách thế để được nghe nói về Người phải chăng đôi khi cũng là bức màn che giấu đi cái cốt yếu? Người môn đệ đích thực của Chúa lúc nào cũng phải mới để có khả năng đón nhận. Người ấy biết rằng Đức Giêsu không chỉ như mình hiểu biết. Người ta không thể đóng khung hạn định được Người. Người luôn vượt khỏi tầm tay của ta và vượt xa điều ta hiểu biết về Người. Ta có hiểu biết Người ở đời này, thì cũng như biết qua tấm gương mù mờ thôi. Khi nói về Đức Giêsu, phải chăng ta hay đưa ra những thông tin về Người, những thông tin có thể tạo ảo tưởng là ta biết đủ rồi mà không mời gọi ta tiến thêm lên, hay là ta cố gắng đi sâu vào sự gặp gỡ với chính bản thân và huyền nhiệm của Người?”

3) “Chỉ có tin với tin”

(G.Bessière, trong “Dieu si proche. Năm B”, DDB, trang 120-121).

Thật cũng lạ: Đức Giêsu lấy làm lạ vì những đồng hương của Người lại thiếu lòng tin. Vậy mà những người đồng hương của Người thảy đều là kẻ tin Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứng rắn, thảy đều đã từng hội họp với nhau ở hội đường. Họ đều là những kẻ có lòng tin từ đầu đến chân, như tục ngữ nói. Lòng trí họ không một dấu vết do dự hay ngờ vực nào. Họ tôn thờ Chúa là Đấng tạo dựng vạn vật và điều khiển dòng lịch sử. Thời đó, đâu đã có những người vô thần hay những kẻ không tin như ngày nay!.

Họ có lòng tin không? Tất nhiên có. Nhưng lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi người ta ở đây, không phải chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa, theo kiểu cha truyền con nối, mà chính là tin vào Người bác thợ mộc của làng. Liệu một bác thợ mộc mà người ta biết rõ cha mẹ và tất cả bà con của ông, lại có thể đòi hỏi người ta phải tin vào mình như tin vào Thiên Chúa chăng? Nè, còn hơn thế nữa kìa, lòng tin mà con người ấy muốn, không phải là một mớ những điều phải tin, nhưng là sự đảo lộn cuộc sống: “Ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Người còn nói: phải đi theo Người, phải cho đi và hiến thân, phải yêu mến cả kẻ thù, phải vác thập giá mình… Nào, chúng ta hãy lật ngửa các con bài (quyết định). Chúng ta đây là những kẻ tin; chúng ta đây “có” (than ôi!) lòng tin, mà có thật là ta đang vạch đường đời ta đi trong niềm tin như Đức Giêsu đã đề ra không? Xin đừng trả lời quá gấp”.

 

 

 

 

 

66. Chú giải của William Barclay.

KHÔNG ĐƯỢC TÔN TRỌNG NƠI QUÊ HƯƠNG

 

Khi trở về Nagiarét Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào một trường hợp chịu thử thách nghiêm trọng. Ngài đang trở về thành phố quê hương, chưa có ai chỉ trích Ngài nghiêm khắc cho bằng những người từng quen biết Ngài từ thời thơ ấu. Ngài không hề có ý trở về quê quán cách riêng tư, chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một Rabbi. Các Rabbi vẫn đi đây đi đó trong xứ với nhóm môn đệ của họ. Với tư cách Rabbi, Ngài đã trở về cùng với các môn đệ.

Ngài vào hội đường và dạy dỗ. Người ta không hào hứng tiếp nhận lời giáo huấn của Ngài, trái lại còn tỏ vẻ thù địch. “Họ vấp ngã vì Người”. Họ tức giận vì một người xuất thân từ một bối cảnh xã hội như Chúa Giêsu, lại nói năng và hành động như vậy. Sự quá quen thân thường làm phát sinh thù ghét sai lầm. Họ không chịu nghe những gì Ngài nói, vì hai lý do:

1/ Họ bảo nhau “Ông này không phải bác thợ sao?”.

Từ dùng chỉ thợ mộc là tekton. Tekton có nghĩa là một thợ làm đồ gỗ, nhưng không chỉ đơn giản là một thợ làm đồ gỗ mà thôi, nó còn có nghĩa là một nghệ nhân, một người làm nghề thủ công tinh xảo. Homer đề cập đến tekton như người đóng tàu, cất nhà, xây đền đài. Đời xưa và cả ngày nay nữa, tại nhiều nơi, trong một thị trấn nhỏ hay làng mạc, người ta có thể tìm ra một người thợ thủ công có thể làm bất cứ việc gì, từ việc đóng chuồng gà đến việc cất nhà, người ấy có thể xây tường dặm vá mái nhà, sửa khung cửa. Đó là thợ thủ công với ít dụng cụ hoặc chỉ tay không, với một số tối thiểu công cụ thô sơ nhất, có thể làm được bất cứ việc gì. Chúa Giêsu là người như thế, sở dĩ người làng Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một người thợ. Ngài là một người bình thường, một thường dân, một con người chất phác.

Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân là Will Crooks. Ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo, ký ức đầu tiên ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa ăn sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là năm hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã và trở thành chủ tịch đầu tiên của phong trào Lao động thị xã Luân Đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch tại Poplar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông “Người ta bầu Will Crooks làm chủ tịch á, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Will Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.

Dân chúng ở Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một công nhân tầm thường, với chúng ta thì đó là vinh quang của Ngài, vì nó có nghĩa khi Con Thiên Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi một miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời tầm thường với tất cả những công việc tầm thường. Những may rủi về gia thế, giàu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng đối với nhan cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự cám dỗ đánh gía một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.

2/ Họ nói “Không phải đây là con bà Maria hay sao?

Không phải chúng ta đều biết rõ anh em ông ta sao?” Sự kiện họ gọi Chúa Giêsu là con bà Maria cho chúng ta biết có lẽ Giuse đã qua đời. Từ đó, chúng ta hiểu được một trong nhiều điều bí ẩn của đời sống Chúa Giêsu. Ngài chết lúc chỉ được ba mươi ba tuổi, nhưng Ngài không lìa bỏ Nagiarét trước năm ba mươi tuổi (Lc 3,23). Tại sao Ngài lại trì hoãn lâu đến thế? Tại sao Ngài vẫn nán lại Nagiarét trong khi cả thế gian đang chờ đợi cứu rỗi? Có phải vì Giuse đã chết sớm và Chúa Giêsu phải đảm nhiệm việc nuôi dưỡng mẹ? Ngài vốn trung tín ngay trong những việc nhỏ nhặt, cho nên cuối cùng Thiên Chúa giao cho Ngài làm rất nhiều việc.

Nhưng dân chúng Nagiarét lại khinh dể Ngài vì họ biết rõ gia đình Ngài. Thomas Campell là một nhà thơ lớn. Cha ông lại chẳng biết gì về thi ca. Khi Thomas xuất bản tập thơ đầu tay, với tên tác giả là Thomas, ông gửi một tập tặng cha mình. Ông cụ cầm tập thơ lên xem. Thật ra ông chỉ nhìn vào bìa sách chứ chẳng đọc gì trong nội dung. Ông cụ kinh ngạc tự nhủ “có ai nghĩ được nó có thể làm một cuốn sách như vậy nhỉ”. Nhiều khi sự thân thuộc đáng lẽ phải tạo ra một sự tôn trọng mỗi ngày càng gia tăng, nó lại tạo ra sự coi thường, xem nhẹ hơn. Lắm khi chỉ vì chúng ta sống quá gần gũi với một người nào đó nên không thấy được chỗ cao thượng, vì đại của người ấy.

Kết quả của mọi việc vừa kể là Chúa Giêsu không thể làm nhiều phép lạ tại Nagiarét. Môi trường không thích hợp, có nhiều điều chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh thích hợp.

1/ Ngày nay vẫn thế, nếu một người không chịu để chữa bệnh thì không thể lành bệnh được.

Margot Asquith kể lại cái chết của Neville Chamberlain. Mọi người đều biết chính sách của Neville đã khiến ông ta rất đau lòng. Margot đến gặp và nói với bác sĩ của ông ta là Lord Horder “Ông chẳng có khả năng của một bác sĩ, Chamberlain chỉ lớn hơn Churchill vài tuổi và phải nói là ông ta khỏe mạnh lắm, ông có quý mến ông ấy không?”. Lord Horder đáp “Tôi rất quý mến ông ta, tôi thích tất cả những con người khó thương ấy, tôi đã gặp nhiều người như thế rồi. Ông ta bị chứng rụt rè. Ông ta không muốn sống, khi một người nào đã nói thế, chẳng có bác sĩ nào có thể cứu nổi người ấy”. Chúng ta có thể gọi đó là đức tin, là ý chí muốn tồn tại, nhưng nếu không có nó chẳng một ai có thể sống được.

2/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, không còn có thể giảng dạy gì được, các nhà thờ của chúng ta khác hẳn nếu tín hữu nhớ rằng chính họ phải giảng hơn phân nửa bài giảng.

Trong một bầu không khí chờ đợi, khao khát thì chỉ cần một ít cố gắng, ngọn lửa cũng có thể cháy bùng lên. Nhưng trong bầu không khí lạnh lùng chỉ để chê bai, chỉ trích hoặc với thái độ hờ hững, dửng dưng, thì những lời nói dù được đầy tràn Thánh Thần, vẫn cứ từ trời rơi xuống đất và bị chết cứng.

3/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, thì không thể có sự hòa giải.

Nếu người ta chỉ họp lại để từ chối thù ghét nhau, thì họ vẫn cứ thù ghét nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để cảm thông nhau thì họ vẫn hiểu lầm nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để không thấy gì khác hơn là quan điểm riêng của chính mình, họ sẽ chẳng còn thấy ai khác nữa. Nhưng nếu mọi người đến với nhau bằng tình yêu của Chúa Giêsu để tìm cách thương yêu nhau, thì dù những kẻ vốn cách xa nhau hơn hết, vẫn có thể hiệp nhất trong Chúa.

Chúng ta vốn được giao phó trọng trách, hoặc tiếp tay, hoặc ngăn trở công việc của Chúa. Chúng ta có thể mở rộng cửa cho Ngài, hoặc đóng nó lại truớc mặt Ngài.

 

 

 

 

 

67. Dân Nadarét cứng lòng tin

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

 

1. LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao?” (Mc 6,3).

2. CÂU CHUYỆN: Tình thương chinh phục lòng người

Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong Linh Mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ mệnh linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như chính ngài đã thuật lại sự kiện ấy như sau: “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư? Thật là khó tin!”.

Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một Linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các Linh mục thừa sai da trắng đến chăm sóc và chia sẻ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ Thánh lễ theo đường hướng Công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau: “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng La tinh. Chắc ông ta không rành tiếng La tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là Linh mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả để phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.

3. SUY NIỆM:

– Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giêsu bị dân làng Na-da-rét không tin Người là Đấng Thiên Sai, dù thán phục tài giảng đạo và quyền năng chữa bệnh của Người. Là do họ vấp phạm là vì gia thế hèn kém của Người. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) luôn thù ghét Ki-tô giáo và nhiều lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giêsu Đấng sáng lập của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bẻ, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế!”

– Đức Giêsu phán: “Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi!”. Ngày nay chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi bị người đời chống đối do chúng ta không chấp nhận phá thai, ly dị, hay khi ta chống lại những bất công mà các phụ nữ và trẻ em đang phải chịu đựng. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi có những Ki-tô hữu phản đối chúng ta vì chúng ta khác họ về chủng tộc, tiếng nói, quốc gia hay về tình trạng kinh tế. Cuối cùng, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên nếu đôi khi ta bị những người thân ruột thịt chống lại ta, vì chúng ta đã tin Đức Giêsu, như Người đã báo trước: “Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai và con trai chống lại cha, Mẹ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ; Mẹ chồng chống lại nàng dâu và nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12,53). Trong mọi trường hợp, chúng ta cần vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Người sẽ không để chúng ta phải chịu đựng quá sức chúng ta.

4. THẢO LUẬN: Trong cuộc sống, các tín hữu cần có cách ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời nói khiếm nhã khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh của Người?

5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chấp nhận thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường sống và rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công, và chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương.

 

 

 

 

 

68. Vấp ngã vì Chúa, tại sao?

(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)

 

Khi đánh giá và nhận định về một ai đó, dường như có một quan niệm “bất thành văn” đã, đang và sẽ còn tồn tại trong tâm trí con người. Đó là nhìn họ ở dáng vẻ bên ngoài hay lưu ý đến bảng khai lý lịch, thân thế và sự nghiệp hơn là nhìn ra bản chất bên trong của họ. Quan niệm “thâm căn cố đế” này, bằng nhiều cách, đi sâu vào trong từng quốc gia, từng phong tục tập quán của mỗi dân tộc và không buông tha bất cứ người nào. Nạn nhân tiêu biểu hứng chịu “búa rìu dư luận” này không ai khác chính là Chúa Giêsu – người đến từ Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Sau thời gian miệt mài rao giảng ở Caphácnaum và quanh biển hồ Galilê, Chúa Giêsu trở về Nazarét- quê hương dấu yêu. Những tưởng sự hiện diện cũng như những lời rao giảng trong Hội đường Dothái của Người sẽ được người thân cũng như dân làng Nazarét đón nhận hay ít nữa cũng có điều gì đó tự hào về người con của dân làng. Nhưng không. Mặc dù lời giảng dạy của Chúa Giêsu khiến không ít người ngạc nhiên nhưng điều đó không đủ khiến họ thay đổi cách nhìn về nhân thân của Người. Lý do hết sức đơn giản là họ biết quá rõ nguồn gốc xuất thân của Người. Hãy xem cách họ đặt vấn đề cũng đủ hiểu đối với họ, Chúa Giêsu chẳng có gì đặc biệt. “Bởi đâu ông ta được như thế?… Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”.

Thế đấy. Chính vì họ nhìn Chúa Giêsu là một con người hết sứ bình thường, một con người cụ thể bằng xương bằng thịt đã từng chung sống quanh họ; công việc của Người cũng hết sức tầm thường, quanh năm suốt tháng lam lũ với nghề mộc – một nghề thời đó không chỉ làm ra các vật dụng bằng gỗ mà còn có thể xây nhà và làm ra các vật dụng từ các vật liệu khác nữa. Thế mà giờ đây, sau một thời gian rời xa quê làng, cái ông thợ mộc này lại làm được những điều “quái lạ”, thật chẳng thể nào tin được!

Từ cách nhìn nhận và đánh giá thiển cận ấy, thay vì hãnh diện, người dân Nazarét lại vấp ngã vì Người. Họ vấp ngã vì Người, bởi gia thế của Chúa Giêsu không sáng giá; Họ vấp ngã vì Người, bởi trước mắt họ, Chúa Giêsu chỉ là một người phàm không hơn không kém; Họ vấp ngã vì Người, bởi gia đình ông thợ mộc này nghèo nàn quá, tầm thường quá từ lý lịch xuất thân cho đến nghề nghiệp cũng như địa vị xã hội; Họ vấp ngã vì Người, bởi, dù không nói như các Kinh sư rằng Chúa Giêsu “dựa vào thế quỷ vương” để làm những việc “quái dị”, nhưng chính thái độ khinh thường ra mặt cũng đủ nâng họ lên ngang hàng với mấy ông Kinh sư của họ. Cũng từ những lý do đó mà sau này không chỉ dân làng Nazarét mà còn nhiều người khác nữa đã quay lưng lại với Chúa Giêsu, cùng với sự kiêu ngạo và nổi loạn để rồi cuối cùng kéo bè kéo phái đóng đinh Người vào thập giá.

Dân làng Nazarét đã không nhìn ra sứ mệnh thần linh vẫn âm thầm tiềm ẩn bên trong con người Chúa Giêsu. Có thể nói chính vì quá chú trọng hình thức bên ngoài, chú trọng đến gia thế, địa vị xã hội, chú trọng đến bảng kê khai lý lịch,… đã làm cho tâm hồn của họ trở nên chai cứng, trở nên chướng ngại vật không dễ gì vượt qua để tìm đến chân lý vẹn toàn. Còn chúng ta thì sao, những Kytô hữu của thời đại hôm nay? Rất có thể chúng ta cũng đang đánh giá và nhìn nhận Chúa Giêsu và Tin mừng của Người qua lăng kính do chúng ta dựng nên. Rất có thể chúng ta đang tìm một điều gì đó hấp dẫn hơn nằm bên ngoài Chúa Kytô, nên ngoài Tin mừng bởi cho rằng Chúa Kytô và Tin mừng của Người trải qua hơn hai ngàn năm nên chẳng có gì mới mẻ và thật là nhàm chán. Đây là lúc chúng ta cần phải nhìn lại thái độ và lập trường của mình đối với Chúa Kytô cũng như Tin mừng của Người để từ đó thay đổi cách nhìn, cách đánh giá hầu có thể mang đến cho chúng ta sự bình an và ơn cứu rỗi.

Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa đã đến thế gian mặc lấy thân phận yếu hèn như chúng con, sống cuộc đời đạm bạc và lam lũ kiếp người để chia sẻ cuộc đời khốn khó của chúng con và cuối cùng đã dùng cái chết để mang lại ơn tha tội và cứu rỗi cho chúng con. Xin cho chúng con được biết nhìn ra Chúa trong thân phận kiếp người ấy để không ngừng yêu mến, quý trọng và nhìn ra những giá trị cao quý nơi anh em đồng loại.

 

 

 

 

 

69. Ngôn sứ ở giữa quê hương mình

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

 

Đề tài bất trung, thất tín, phản nghịch không phải là đề tài mới mẻ trong Cựu Ước, trong Thánh Kinh. Nhưng đây là một câu chuyện thường gặp trong Kinh Thánh. “Người nhà đã không nhận ra Ngài, đã không đón nhận Ngài” không là chuyện bất thường trong Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài đọc I của ngôn sứ Ézékien hôm nay đã có những ngôn từ nói về con cái Israen như: “dân nổi loạn, phản nghịch, lỗi giao ước, bọn phản loạn vv…”. Con cái Israen phải trải qua thử thách, đen tối vì họ bất tín, thất trung và phản bội, nhưng họ vẫn luôn hy vọng: Chúa là Đấng yêu thương và trung tín đến muôn muôn đời. Thiên Chúa đã gửi đến cho con cái Israen vị ngôn sứ này. Tin Mừng Mc 6,1-6 chỉ ra rằng Chúa Giêsu không những là vị ngôn sứ như các vị ngôn sứ khác mà là chính Con Thiên Chúa làm người cũng đã phải đương đầu với những kẻ đồng quê hương với Ngài.

Chúa Giêsu khi trở về Nagiarét với thánh cả Giuse và Mẹ Maria, Ngài đã sống một cuộc sống rất bình thường như mọi người dân làng lúc đó. Chúa Giêsu đã lớn lên, đã hưởng thụ một nền giáo dục trong gia đình một cách tuyệt hảo nhất: Ngài đã từng uống từng lời Mẹ Maria dậy bảo,Ngài đã tuân theo sự chỉ bảo của thánh cả Giuse.Cuộc đời của Chúa Giêsu chỉ kéo dài có 33 năm: 30 năm, Ngài đã sống đời ẩn dật nơi gia đình, nơi quê hương Nagiarét. Hẳn cuộc sống của Chúa Giêsu bình dị, bình thường và hết sức người trong những năm tháng ẩn dật làm nghề thợ mộc. Cái bình thường không làm Chúa Giêsu uổng phí quãng đời trần thế, mà đây là giai đoạn giúp Chúa Giêsu sống kiếp người cách trọn vẹn nhất của Ngài. Ngài sống đơn giản, bình dị đến nỗi dân làng Nagiarét không nhận ra Ngài: “Ông ấy không phải bác thợ mộc, con bà Maria sao?”. Sự đơn giản, bình dị khiến gây cho nhiều người nên cớ vấp phạm vì Ngài. Tới tuổi trưởng thành khi đến hội đường, mọi người Do Thái đều có quyền phát biểu ý kiến khi tham gia phụng vụ. Chúa Giêsu đã nại vào quyền này khi Ngài tới hội đường và rao giảng Tin Mừng. Lời loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu hẳn có nhiều điều mới lạ, khác với những điều dân làng thường nghe trong hội đường trong các giờ hội họp phụng vụ. Khác đến độ những người trong hội đường ngày hôm đó đã nhận ra và hết sức ngạc nhiên, bỡ ngỡ, khâm phục. Những người đồng hương với Chúa Giêsu hẳn đã chứng kiến những phép lạ, những lời nói đáng giá của Chúa Giêsu và hẳn họ cũng đã một cách nào đó được lay động để khám phá ra những gì mới mẻ nơi Chúa Giêsu. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những tia sáng lóe lên, rồi vụt tắt vì những người đồng hương với Chúa Giêsu lại trở về với những lý luận tầm thường, những nhận xét theo ý họ, nếu không nói được là những lý luận cùn, lý luận thiển cận, hẹp hòi, ích kỷ. Họ đã không nhận ra cái thực tế đáng lẽ họ đã được hưởng. Họ đã đóng cửa lòng lại, đóng con tim lại để tự tách mình ra khỏi nước trời đang đến với họ. Chúa Giêsu thấy lòng chai dạ đá của họ, nên Ngài đã chẳng làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng nước trời ở giữa họ và Ngài đã bỏ họ, đi giảng dậy, rao giảng ở những làng, những nơi khác. Phản ứng của những người đồng hương của Chúa Giêsu về những lời rao giảng của Ngài trong hội đường và những năm tháng sống ẩn dật tại gia đình ở làng quê Nagiarét xác quyết cho nhân loại hay Chúa đề cao đời sống gia đình. Chúa không sống như một siêu nhân, như một người không thực tế. Cuộc sống bình dị của Chúa như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình đời thường mang lại cho cuộc sống nhân loại một ý nghĩa, một giá trị cao sâu, tuyệt vời. Đời sống của Chúa mời gọi mọi người nhìn vào đời sống của mình.

Phản ứng của những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu cũng có thể là những cám dỗ, những thử thách của nhân loại hôm nay,muôn thuở. Người Kitô hữu vẫn có thể tự mãn với danh hiệu Kitô của mình. Người Kitô hữu có thể tự hào, tự mãn vì mình đã học giáo lý, đã đọc Tin Mừng, đã đi lễ, đã đọc kinh, nhưng đời sống lại không phù hợp, không đi đúng với Tin Mừng. Lời Chúa rao giảng luôn đi đôi với việc làm. Chúa Giêsu đã không nói suông, nói lý thuyết, nói ngoài môi miệng, nhưng Ngài đã luôn nói và làm. Chúa nói:” Hãy yêu thương nhau”, Ngài đã thực hiện điều đómột cách tận căn. Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, Ngài đã yêu, đã hy sinh chính cả mạng sống mình vì người mình yêu: “Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15,13). Người Kitô hữu được mời gọi lắng nghe và đem thực hành lời Chúa trong đời sống. Những biến cố, những sự việc xẩy ra trong cuộc đời, trong xã hội, trên thế giới được Chúa mời gọi con người hãy biết nhìn chúng với ánh sáng Tin Mừng của Ngài. Giáo Hội và con người được Chúa trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô. Nên, rao giảng không chỉ đóng khung trong những kiến thức có sẵn mà còn phải lắng nghe, đào sâu và loan báo chính Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống mỗi ngày của chúng con, để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa vì Chúa đã ban cho chúng con sống sung mãn ơn Chúa mọi giây, mọi phút, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người.

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ