Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1743756

VƯƠNG QUỐC THIÊN CHÚA

Vương quốc Thiên Chúa - Lm. Mark Link, SJ

Một số nhà sư ở Thái lan đang di chuyển một bức tượng Phật lớn bằng đất sét sang một ngôi chùa mới. Chính phủ đã tịch thu ngôi chùa cũ và sẽ phá huỷ để chuẩn bị làm xa lộ mới.

Bỗng dưng, chiếc xe chở bức tượng này bị xụp ổ gà. Chấn động đó làm nứt một đường thật lớn ngay giữa bức tượng. Các nhà sư la lên một cách hoảng hốt và họ rất đau lòng.

Và rồi một điều bất ngờ đã xảy ra. Các nhà sư nhìn thấy có ánh sáng lấp lánh bên trong đường nứt ấy. Họ dò xét và thật bàng hoàng khi thấy rằng lớp đất nung ấy chỉ dày độ hai phân. Bên dưới lớp đất sét là một bức tượng bằng vàng ròng.

Hiển nhiên vàng đã được bọc bằng lớp đất sét trong bao thế kỷ trước đây để quân xâm lăng khỏi lấy mất. Hiển nhiên, nhiều nhà sư đã chết vì cuộc xâm lăng này. Tuy nhiên, bức tượng vàng ròng này – trị giá $200 triệu – vẫn được che giấu bên dưới lớp đất sét trong bao nhiêu thế kỷ.

Trong suốt thời gian này, hàng ngàn nhà sư đã tụng kinh trước bức tượng. Nhưng không một ai dám mơ tưởng rằng bên dưới lớp đất sét ấy là một kho tàng vĩ đại.

Chỉ khi một chấn động tình cờ xảy ra làm nứt lớp đất sét thì người ta mới thấy được điều gì đó còn hơn cả bức tượng đất sét. Nó bao bọc một kho tàng vô giá.

Điều đó đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Nó rất giống như bức tượng bọc bằng đất sét. Mới thoạt nhìn, dường như nó chỉ là câu chuyện của một người bị thần dữ ám và ông ta vào hội đường khi Chúa Giêsu đang giảng dạy.

Khi thần dữ bắt đầu la hét, Đức Giêsu ra lệnh nó phải im đi và xuất khỏi người đàn ông này. Trước sự bàng hoàng của tất cả mọi người, thần dữ đã tuân lệnh Đức Giêsu. Khi dân chúng chứng kiến điều ấy, họ hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”

Thần dữ vâng phục Đức Giêsu cũng giống như chấn động đã làm nứt bức tượng đất sét. Bỗng dưng, dân chúng trông thấy ở Đức Giêsu một điều gì đó còn hơn cả mắt thấy, cũng như điều gì đó ở bức tượng còn hơn cả vẻ bên ngoài.

Quyền năng của Đức Giêsu trên thần dữ cho thấy rằng bên trong Người là một kho tàng, cũng giống như bức tượng đất sét bao bọc bên trong một kho tàng.

Chúng ta có thể so sánh nhân tính của Đức Giêsu giống như lớp đất sét bao bọc bức tượng – nó che giấu căn tính đích thật của Đức Giêsu. Và vì vậy khi Đức Giêsu cho thấy quyền năng trên các thần dữ, dân chúng hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”

Chính Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy trong một dịp khác. Nó xảy ra như sau: Một ngày kia Người lại xua đuổi thần dữ. Một số người kết luận rằng Đức Giêsu làm như vậy là nhờ Satan ban cho quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói:

“Không phải vậy, đúng ra là nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà tôi trừ quỷ, và điều này chứng tỏ rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã đến với các ông.” Luca 11:20

Qua câu trả lời này, Đức Giêsu cho biết người là ai và đến thế gian để làm gì. Người là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, và các ngôn sứ đã tiên đoán Đấng Mêsia sẽ thi hành những điều như vậy. Nhưng Đức Giêsu thì còn hơn thế nữa – hơn rất nhiều!

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người đến để tiêu diệt vương quốc của Satan mà nó đã cầm giữ thế gian trong sự nô lệ bởi vì tội của ADong.

Nhưng điều này nêu lên một câu hỏi khác, một câu hỏi lớn hơn nữa: Nếu Đức Giêsu đã đến để tiêu diệt vương quốc Satan và khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn sự dữ trong thế gian?

Quả thật, Đức Giêsu đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần xuống trên các môn đệ, uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.

Hội Thánh có thể được so với “hạt giống,” mà sau cùng nó sẽ triển nở thành Vương Quốc Thiên Chúa trong sự trọn vẹn của nó.

Nhiệm vụ của Hội Thánh – dưới quyền thủ lãnh của Đức Kitô và sự dẫn dắt cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần – là công bố và cầu xin cho Vương Quốc được ngự đến trong sự trọn vẹn cho mọi dân tộc. Đây là sự giảng dạy sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ. Người nói:

“Hãy ra đi, hãy đến với mọi dân tộc ở mọi nơi và hãy làm cho họ trở thành môn đệ của Thầy: hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Và Thầy sẽ luôn ở với các con cho đến tận thế.” (Mt 29:19)

Là các phần tử của Hội Thánh, Thân Thể Chúa Kitô, tất cả chúng ta cùng chia sẻ trách nhiệm loan truyền tin mừng về Vương Quốc Thiên Chúa cho toàn thế giới.

Chúng ta phải loan truyền vương quốc ấy khi cùng nhau cầu nguyện trong các Chúa Nhật và cùng nhau sống chứng nhân trong những ngày còn lại. Cả hai chiều kích này phải được thấy nếu muốn sự loan truyền của chúng ta có hiệu quả.

Trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, đọc kinh Lạy Cha, “Xin cho Nước Cha trị đến” thì chưa đủ. Chúng ta còn phải sống lời loan truyền. Một câu chuyện nổi tiếng minh hoạ điểm này: Một ngày kia, một người Bàlamôn nói với nhà truyền giáo Kitô, “Nếu các tín hữu Kitô ở Ấn Độ, ở Anh, hay ở Hoa Kỳ giống như Kinh Thánh kia, quý vị sẽ chinh phục được nước Ấn trong vòng năm năm.”

Điều này đưa chúng ta đến câu trả lời cho câu hỏi, nếu Đức Giêsu đã thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn nhiều sự dữ trong thế gian?

Đó là vì chúng ta không loan truyền sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta như chúng ta phải thi hành. Chúng ta không tiến hành nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta.

Vậy, tóm lại, Đức Giêsu quả thật đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần đến với các môn đệ, để uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.

Nhiệm vụ của Hội Thánh là loan truyền bằng sự thờ phượng cũng như trở nên gương mẫu hàng ngày cho sự hiện diện của Vương Quốc giữa chúng ta.

Đây là lời mời gọi mà mỗi người chúng ta được mời. Đây là thách đố hôm nay mà Phúc Âm đặt ra trước mỗi người chúng ta.

 

65. Như một ngôn sứ – Lm Đỗ Vân Lực

Lời Chúa vẫn làm những việc kỳ diệu nơi cộng đoàn dân Chúa. Chẳng hạn Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại tại Houston đang tiến những bước ngoạn mục tại cộng đồng Công giáo địa phương. Số phận anh em Đa Minh Việt Nam không được may mắn như thế. Nghĩa là bước tiến không đều nhịp. Niềm vui không trọn vẹn. Nhưng chính nơi niềm vui không trọn vẹn đó, lời Ngôn sứ Maria trong kinh Magnificat đã được thực hiện trọn vẹn trong hoàn cảnh hôm nay.

Vị Ngôn sứ đó đã cống hiến cho đời một Ngôn sứ vĩ đại khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 1:22). Hôm nay nhân loại cũng đang mong ước có một vị ngôn sứ như thế. Nhưng thử hỏi có ai lấp đầy niềm hi vọng đó không?

NHẬN DIỆN NIỀM HI VỌNG

Thời Đức Giêsu, dân Do thái ngưỡng vọng về một ngôn sứ như Thiên Chúa đã hứa với Môsê: “Thiên Chúa của anh em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18:15). Phải đợi tới bao giờ vị ngôn sứ đó mới xuất hiện? Toàn dân có đủ kiên nhẫn chờ đợi thêm nữa không? Sách Talmud cho thấy “tinh thần ngôn sứ đã tắt ngúm và cạn kiệt trong dân Israel với ngôn sứ Haggai, Giacaria, và Malakhi”(Yoma 9b). “Cho tới lúc đó, các ngôn sứ được tiên báo bằng hành động Thánh Linh; do đó hãy lắng tai nghe những lời khôn ngoan của ho.” (Seder ‘Olam Rabbah 30). Chẳng còn ai xứng đáng nói thay Chúa như các ngôn sứ nữa. Tình thế hoàn toàn thất vọng. Chỉ còn niềm hi vọng cánh chung mới nuôi sống niềm mong đợi một vị ngôn sứ như Môsê đã hứa (Đnl 18:15-20).

Giữa lúc toàn dân thất vọng như thế, Đức Giêsu đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1:27). Uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế” (c.23). Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c.24) “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng-Được-Xức-Dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân Ước 1995:185). Sức mạnh Người đáng sợ đến nỗi ma quỉ cũng phải thét lên trước khi trở về cõi im lặng ngàn thu, nhường bước cho Ngôi Lời hoạt động để xây dựng Nước Trời. Hoạt động đó gây “kinh ngạc đến nỗi mọi người bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”(Mc 1:27). Khác hẳn với các người Biệt phái với mớ giáo lý nhàm chán, thái độ kênh kiệu, và những tập tục phức tạp, Đức Giêsu đến thổi luồng gió mới vào cuộc sống con người và xã hội Do thái. “Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ trong sách Đệ nhị luật, khai mở thời đại cánh chung với lời mời gọi sám hối” (Cv 3:22; 7:37) (Faley 1994:129).

Kêu gọi sám hối là đụng tới quyền lợi của nhiều hạng người trong xã hội. Sám hối là xoay ngược tình thế, vì bắt mọi người phải từ bỏ lối nhìn, quyền lợi và những thói quen cố hữu. Lúc đó, “Carphanaum là một thành phố thịnh vượng, giàu có, tội lỗi và sa đọa. Vì Carphanaum là cơ quan đầu não của quân đội Rôma, tràn lan những ảnh hưởng ngoại giáo từ khắp đế quốc Rôma” (Life Application Study Bible 1991:1727). Bởi đó, lời giảng của Đức Giêsu trở thành một thách đố lớn lao cho thính giả của Người. Trước mặt quần chúng, Người xuất hiện như một Đấng có “uy quyền”, cao cả như một “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, và hành động mạnh mẽ như một Thiên Sai. Người cho mọi người thấy “thời cánh chung đã điểm với chiến thắng quyết liệt của Giavê và thảm bại của ma quỉ” (Faley 1994:131). Chiến thắng đó chính là chiến thắng của sự sống trên sự chết. Tất cả sẽ được đổi mới. Một mùa xuân đã đến với nhân loại. “Chính việc Đức Giêsu chiến thắng quyền lực ma quỉ đã mở màn thời đại Thiên sai và loan báo Nước Thiên Chúa” (Faley 1994:131).

NGÔN SỨ HÔM NAY

Khác hẳn Cựu ước, Tân Ước cung cấp những ngôn sứ loan báo Tin Mừng, thay vì những lời đe loi, hăm dọa, kết án. Tin Mừng đó có nguồn gốc sâu xa và nền tảng vững chắc trong Chúa phục sinh và vinh quang. Bởi vậy làm ngôn sứ có nghĩa là “làm chứng cho Đức Giêsu” (Kh 19:10) và “làm cho lời Chúa thành hiện thực, sống động và trực tiếp ảnh hưởng tới cộng đoàn” (Fisichella 1995:794). Không có ngôn sứ, cộng đoàn không thể thành hình, vì theo thánh Phaolô, “người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh”(1 Cr 14:4).

Chính nhờ ngôn sứ, dân Chúa lấy lại được “can đảm và nghe được sứ điệp cứu độ”(Fisichella 1995:794). Nói khác, “có đức tin là nhờ nghe giảng mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10:17), trung tâm và nền tảng lời ngôn sứ. Một ngôn sứ nhát đảm không thể chu toàn sứ mệnh đó. Làm chứng cho sự thật, bênh vực công lý, chiến đấu cho hòa bình và sự sống nhân loại không phải là chuyện dễ. Nhưng đó lại là sứ mệnh đặc biệt của một ngôn sứ. Chính vì thế ngôn sứ rất cần thiết cho nhân loại, nhưng lại là một chướng ngại cho những nhà lãnh đạo tắc trách. Đức Giêsu đã trở thành đối thủ nguy hiểm cho những nhà lãnh đạo Do thái vì “danh tiếng Người đồn ra mọi nơi” (Mc 1:28), thu hút hết quần chúng (c.Mc 2:13) và đe dọa quyền lợi của họ. Dù bị đe dọa, Đức Giêsu vẫn can đảm vạch rõ những dấu chỉ về tình yêu Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại một cách mãnh liệt.

Ngôn sứ hôm nay không thể đi con đường nào khác. Họ phải “chuẩn bị cho dân Chúa đọc dấu chỉ thời đại, tạo nên những dấu chỉ mới, làm cho sứ điệp cứu độ thành hiện thực đáp ứng những nhu cầu thời đại”(Fisichella 1995:796). Không đọc được những dấu chỉ đó, không thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời và niềm tin chúng ta. Giữa những thách đố hôm nay, không có lời ngôn sứ, Kitô hữu sẽ chao đảo và không tìm được lối thoát. Họ cần lời ngôn sứ như một chiếc phao cho niềm hi vọng cuối cùng giữa biển đời mịt mùng. Nhìn lên Thánh giá của Đức Giêsu Nazareth là dấu chỉ tiên tri rõ hơn mọi dấu chỉ, người Kitô hữu thấy đươc dung nhan của Đấng chịu đóng đinh như phản ánh vinh quang Thiên Chúa (x.Fisichella 1995:797), và tìm được sức mạnh vượt qua mọi thử thách và đau khổ hiện tại. Do đó sứ ngôn trở thành lời tạo niềm phấn khởi, tin tưởng và hi vọng cho muôn dân.

Nhưng trên hết “các ngôn sứ hiện diện như những dấu chỉ của một tình yêu tận hiến suốt đời” (Fisichella 1995:797), tình yêu làm nên tất cả, nhất là đã trả lại cho ta ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Lời Chúa trở thành sức mạnh vạn năng, “tác nhân thúc đẩy chúng ta khám phá ý nghĩa cuộc sống, nhưng đồng thời giúp chúng ta trách nhiệm về chính cuộc đời mình” (Fisichella 1995:797). Sứ mệnh rao giảng Lời Chúa đã biến ngôn sứ thành người hướng dẫn lịch sử nhân loại “trong ánh sáng biến cố của Đức Giêsu Nazareth và trong niềm mong đợi Chúa đến trong vinh quang” (Fisichella 1995:797). Hôm nay Chúa vẫn hiện diện trong những biến cố nhân loại. Nước Thiên Chúa đang thành hình qua những sự việc có thể xảy ra, những thách đố, và những nguy cơ trong cuộc sống hằng ngày (x.Bergant 1993: 783). Tất cả đều xoay quanh biến cố Đức Giêsu chết và sống lại để cứu độ muôn dân. Ngôn sứ phải khai quật được ý nghĩa đó mới có thể hướng dẫn nhân loại hoàn thành lịch sử.

Lịch sử đang xoay vần về Á Châu. Các ngôn sứ đang ráo riết hoạt động để khai phá một con đường mới cho Đức Giêsu đi vào lòng người và xã hội. Những bí mật về chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang dần dần được mạc khải qua nếp sống văn hóa và tôn giáo của dân tộc. Người tín hữu cần được sứ ngôn huấn luyện để đọc được mạc khải đó. Vì chính ý thức “Đức Giêsu như sứ ngôn của Chúa Cha tóm kết ý nghĩa toàn thể Tân Ước” (Fisichella 1995:796).

 

66. Uy quyền

Ngày 25 tháng 2 năm 1986, Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand Marcos và phu nhân Imelda bỏ xứ ra đi đến Hawaii với 22 thùng đựng toàn giấy bạc Phi trị giá 1 triệu 7 trăm ngàn Mỹ kim. Ngay sau đó dân chúng biểu tình đã tràn ngập vào dinh điện Malacanang, nơi làm việc và cư ngụ của ông Marcos trong 20 năm làm tổng thống. Đó là một lâu đài sang trọng và lộng lẫy. Có một phòng ngủ thật rộng lớn, gồm đầy đủ những dụng căn chơi giải trí. Riêng bồn tắm bên trong phòng ngủ của bà Imelda, cựu hoa hậu, vợ ông Marcos, dài 3 mét, xung quanh lát kính phản chiếu, với một bình nước hoa 4 lít được chế tạo tại Paris mang nhãn hiệu “Đệ nhất phu nhân”. Những phòng chứa quần áo sang trọng của bà to lớn như cửa tiệm Bloomingdale ở Mỹ, với 3000 đôi giầy đủ kiểu, đủ mầu, 3000 chiếc quần lót mới tinh, trên 100 chiếc ví da hiệu Gucci, và 100 đôi găng tay da. Ngoài ra người ta còn tìm thấy một cái hóa đơn của tiệm kim hoàn ở Paris là 2 triệu Mỹ kim, một cái hóa đơn 107 ngàn đôla của một chiếc áo dạ vũ và 6 chiếc áo bằng tơ lụa. Các hóa đơn nhét đầy các hộc tủ, cái nào cũng hàng ngàn, hàng trăm đôla.

Nước Phi Luật Tân có tỷ lệ là 70% dân chúng sống trong nghèo đói, với lợi tức mỗi đầu người là 200 đôla một tháng. Trong khi đó tài sản của ông Marcos có khắp nơi trên thế giới trị giá là 10 tỷ Mỹ kim, gấp 3 lần ngân sách quốc gia. Tài sản của ông gồm tiền mặt, kim cương, chương mục ngân hàng, nhà cửa, đất đai, cổ phần đầu tư, nhiều nhất là ở Thụy Sĩ, Pháp, Anh và Mỹ. Làm tổng thống trong một đất nước nghèo khổ, với số lương là 5,700 Mỹ kim một năm, vậy mà ông Marcos sống như một ông vua dầu lửa Ả Rập thì tiền bạc đó lấy ở đâu ra?

Do đó, ông Marcos cương quyết không chịu rời chiếc ghế tổng thống! Ông Trần văn Giàu, nhà sử học của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói một câu thắm thía: "Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ tới cái ghế!"

Quyền hành đi đôi với lợi lộc để kết thành quyền lợi. Vì nắm quyền thì có lợi, nên người ta cứ mãi ham mê quyền hành! Phản ảnh thực trạng xã hội Việt Nam, bạn Bùi Xuân Dũng đã chia sẻ bài thơ "Khi Sếp Xây Nhà" trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau:

Được tin sếp sắp xây nhà,

Ai cũng muốn "giúp" bởi là chỗ "thân".

Công ty xa xí nghiệp gần,

Xi măng, sắt thép... cho quân chở về.

Điều thêm mấy chục thợ nề,

Ưu tiên toàn chọn tay nghề bậc cao.

Nhà xong "khách sạn năm sao",

Chi phí thế nào, sếp cũng không hay.

Công trình "chìa khóa trao tay".

Sếp xem ngày tốt dọn ngay khỏi chờ.

Ngắm nhà dân mới rỉ lời,

"Ngôi nhà tình nghĩa" quê tôi đó mà!

Phúc âm hôm nay, cũng diễn tả quyền hành của Chúa Giêsu, nhưng đó không phải là thứ quyền hành trần gian.

1. Quyền của Chúa Giêsu là quyền giảng dạy Thánh Kinh, Lời Chúa, và gây dựng Vương Quốc Thiên Chúa nơi các tâm hồn: "Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền".

Phúc âm của thánh Máccô đã được viết vào khoảng giữa những năm 60 và 65 cho những tín hữu gốc Do Thái, không phải ở Juđêa, mà ở Rôma. Cũng trong thời gian này hoàng đế Nêrô bắt đầu đi tìm những người Kitô hữu ở Rôma để bắt bớ. Khởi đầu cho cuộc bách hại đạo Kitô giáo kéo dài khoảng hai thế kỷ rưỡi, từ năm 64 tới năm 313. Nếu chúng ta đặt mình vào trường hợp một người gốc Do Thái đang sinh sống ở Rôma, nhưng tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ phải đối diện với những lựa chọn quyết liệt. Theo ai và vâng lời ai? Quyền của ai trên hết? Quyền của các thầy Rabbi Do Thái? Quyền của hoàng đế Nêrô? Hay quyền của Chúa Giêsu Kitô? Sự lựa chọn có ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay?

Lựa chọn rồi quyết định, tuân giữ lời Chúa Giêsu dạy, sẵn sàng chịu thiệt thòi, bắt bớ, phải sống trốn tránh nơi các hang hầm mộ - catacomb - ở Rôma như các tín hữu Kitô giáo thời sơ khai, không phải là chuyện dễ! Họ là những vị thánh đã sống lời Chúa cách can đảm, trung thành tùng phục dưới quyền cai trị của Chúa Giêsu giữa những thử thách bắt bớ của chính quyền trần gian!

Có một câu chuyện kể về những người Do Thái sống ở Ba Lan trong một ngôi làng rất xa xôi hẻo lánh đã nhiều năm không có một người thợ sửa đồng hồ nào ghé qua. Sau một thời gian, những chiếc đồng hồ trong làng đều bị hỏng, mỗi cái chạy mỗi giờ khác nhau. Đa số những người dân làng đã buông xuôi, không thèm lên giây thiều những chiếc đồng hồ vô dụng nữa. Sau cùng, có một người thợ sửa đồng hồ tình cđã đi ngang qua ghé vào thăm làng. Dân chúng bèn mang những chiếc đồng hđến cho ông sửa dùm. Nhưng những chiếc đồng hồ của hđã bị sét rỉ, băn mòn vì lâu năm không dùng đến, không thể sửa lại được nữa, trừ ra một chiếc đồng hồ mà người chủ của nó đã kiên trì lên giây thiều mỗi ngày. Mặc dù ông biết rằng nó không chạy đúng giờ, ông vẫn hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một người thợ sửa đồng hồ ghé qua làng.

Người tín hữu trung thành cũng giống như người chủ chiếc đồng hồ này. Qua lời cầu nguyện, việc thờ phượng, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta có thể giữ vững tinh thần. Mặc dù đôi khi chúng ta không chắc chắn được phương hướng rõ rệt Thiên Chúa muốn định cho cuộc sống của mình. Trong những hoàn cảnh khó khăn và thử thách đó, Thiên Chúa vẫn hiện diện và hoạt động để bẻ gẫy những nỗ lực của ma quỷ cố gắng làm cho Ngài mờ nhạt đi.

2. Quyền của Chúa Giêsu có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và chữa lành. Quỷ dữ nhận ra Chúa Giêsu là ai và phải thét lên vì khiếp sợ: "Tôi biết ông là ai: là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" "Hãy im đi, và ra khỏi người này".

Xưa kia, khi bắt đầu mở rộng hệ thống xa lộ đường sá, có một nhân viên vẽ địa đồ của chính phủ mang dụng cụ đo ngắm tới một nông trại. Anh gọi điện thoại cho người nông dân và xin phép đi vào nông trại, ruộng vườn của ông để đo đạc và vẽ họa đồ. Người nông dân này từ chối không cho phép vì sợ rằng hệ thống xa lộ sẽ đi qua miếng đất của mình. Trong khi anh vẽ địa đồ xuất trình giấy tờ là nhân viên của chính phủ và khăng khăng cho mình có quyền vào bất cứ nơi nào trên khắp nước để thi hành nhiệm vụ. Phải đương đầu với nhân viên của chính phủ, người nông dân bèn chịu thua, ra mở cổng cho vào. Sau đó ông đi đến cuối nông trại và mở thêm một cái cổng khác, cổng chuồng bò điên dữ tợn nhất trong trại. Nhìn thấy con bò to lớn, dữ tợn đang cắm đầu xông vào mình, anh nhân viên địa đồ bèn vứt mọi dụng cụ, cắm đầu chạy thục mạng. Còn người nông dân thì cười đắc thắng và nói: "Có giỏi thì trình giấy tờ ra cho nó xem! Chỉ cho nó thấy cái quyền bính của mình đi!"

Trong tiếng Hy Lạp, chữ "quyền bính" - "authority" - là "exousia", chữ "sức mạnh" - power" - là "dunamis". Quyền bính và sức mạnh có những ý nghĩa khác nhau. Anh công nhân vẽ địa đồ trong câu chuyện ở trên, có quyền nhưng không có sức mạnh đối với con bò hung dữ. Nhưng trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền và có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn chúng ta.

Một linh mục linh hướng khóa Cursillo, ba ngày học hội Kitô giáo, kể lại tâm sự của một khóa sinh trẻ, học thức cao với văn bằng Tiến sĩ. Câu chuyện đời của chàng quả thật rất đặc biệt. Suốt đời chàng nỗ lực theo đuổi rất thành công những việc học hành, nghề nghiệp, thể thao và nghệ thuật. Nhưng chàng vẫn cảm thấy trống rỗng. Cho dù theo đuổi bất cứ công việc gì thì cũng chỉ là những nỗ lực cố gắng lấp đầy cái lỗ trống to lớn trong tâm hồn mình mà thôi. Những thành công không làm chàng cảm thấy thoải mái hơn. Đến với khóa học chàng cảm thấy như đang đi tìm một điều gì đó sâu kín trong tâm hồn mà chàng đang khao khát.

Rồi vị linh mục đã chia sẻ chính cuộc đời của mình cho chàng nghe, những đổ vỡ và thất bại. Hoàn cảnh thì khác nhau, nhưng cùng một tâm trạng. Mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để học được cách chấp nhận Chúa Giêsu như một niềm hy vọng duy nhất cho cuộc đời, một niềm vui duy nhất trong cuộc sống. Lúc đầu ngài cũng cảm thấy rằng việc theo chân Chúa Giêsu là việc khùng điên. Nhưng rồi sau đó ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đây cũng chính là điều chàng đang muốn có, sự bình an. Khi kết thúc khóa học chàng đã công khai công bố Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mình với một lòng xác tín mạnh mẽ và cảm động. Chàng đã chia sẻ công khai với mọi khóa sinh khác rằng: "Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền ban cho tôi một ý nghĩa của cuộc sống và chữa lành các thương tích đổ vỡ trong tâm hồn tôi".

Phúc âm của Chúa Giêsu luôn luôn là Tin Mừng. Nhưng trước khi cảm nhận được sự vui mừng thực sự của nó, chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu. Không "vui mừng" tí nào cả! Để tìm thấy được ý nghĩa của Tin Mừng, để cảm nghiệm được ơn chữa lành đối với những đổ vỡ trong đời, chúng ta phải thực sự hoàn toàn quy phục dưới quyền bính của Chúa Giêsu.

Nhưng để đến được với Chúa Giêsu, những bước chân ban đầu thật khó khăn, không phải là việc tự nhiên dễ làm. Vì con người chúng ta ai cũng mang sẵn bản tính thích nổi loạn, và ương ngạnh. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta mới có đủ can đảm trở về quy phục dưới quyền bính và sức mạnh của Chúa Giêsu, đồng thời cũng nhận ra ý nghĩa của cuộc đời mình. Và nguồn vui hạnh phúc thực sự chỉ đến với chúng ta qua Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta mà thôi.

 

67. Uy quyền của Thiên Chúa

Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người nguồn tài nguyên vô tận. Đó là cảnh thần tiên, vì là tốt đẹp. Thế nhưng nơi trần thế này, thiên đàng thì ít mà địa ngục thì nhiều. Lý do: có quá nhiều cái làm cho con người lo âu sợ sệt. Chính cái sợ làm cho chúng ta mất tự do. Chính nổi sợ làm cho ta mất hạnh phúc. Sợ cái gì? Cái gì thấy ghê là thấy sợ: tai nạn, bệnh hoạn, chết chóc... Có một thứ làm cho người ta khiếp vía hơn là ma quỷ. Đối với người yếu bóng vía, nhắc đến ma quỷ là họ rùng mình sởn gai óc. Đối với người mê tín, ma quỷ là thần linh, vì thế họ cúng kiến, cầu cơ, đồng cốt... Đối với các nhà đạo đức, ma quỷ là những tên cám dỗ để bắt lấy linh hồn con người. Những cơn cám dỗ đến từ nhiều lổ hỏng trong tâm hồn con người: dục vọng, tham lam, ích kỷ, ghen ghét, hưởng thụ... Cám dỗ đi từ ngoài vào trong con người ở lại và làm cho con người ra ô uế, dần dần đánh mất linh hồn mình. Đây mới là điều đáng sợ nhất.

Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Chúa Giêsu, Đấng có uy quyền trong lời nói và trên cả ma quỷ: "Lời giảng thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh" (Mc1,27). Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu mỗi khi ta yếu đuối để khỏi sa chước cám dỗ. Cách mà Chúa Giêsu truyền lại cho ta để chống lại ma quỷ là: cầu nguyện và ăn chay. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, để đón nhận quyền năng của Chúa trên ma quỷ, để múc lấy sức mạnh của Ngài mà chiến đấu. Ăn chay là sự hy sinh hãm mình, là tinh thần cộng tác với Chúa để đẩy lui sự dữ ra khỏi thế gian, hầu cho nước Chúa ngày càng lớn hơn. Chúa và chúng ta phải có sự cộng tác. Nhiều khi chúng ta ỷ lại, phó mặc cho quyền năng Chúa, chúng ta cứ nằm ỳ mà chờ đợi. Thiên Chúa không phải đè chúng ta xuống để rồi nhồi nhét ơn cho mình, nhưng Ngài muốn chúng ta mở lòng ra đón nhận. Chúa không cưỡng bức mà Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài cần sự nhiệt tình với Ngài để hành động của Ngài dễ thực hiện hơn. Nhưng thực tế chúng ta thấy mình có nhiệt tâm với Chúa chưa? Thói hư tật xấu, tội lỗi, chúng ta mắc phải như cơm bữa. Chúng ta cũng chẳng nghĩ gì đến sám hối để sửa mình, cứ để mặc cho tội lỗi ngày càng phát triển thêm. như vậy chúng ta đang ủng hộ ma quỷ, chúng ta đang tiếp tay cho sự xấu, để rồi Nước Thiên Chúa ngày càng nhỏ dần.

Ma quỷ thật đáng sợ, không phải sợ nhát, sợ nhập, nhưng là sợ cám dỗ. Vì xưa nay người bị quỷ nhập thật sự không nhiều, nhưng chắc chắn số người bị ma quỷ lèo lái không sao kể xiết. Chính vì vậy mà ngày hôm nay là điểm cực thịnh của tội lỗi và thế lực đen tối. Chúng ta nhìn lại xem mình có nằm trong phe đối lập với Thiên Chúa không?

Chúa Giêsu là Đấng uy quyền trên ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Người chiến thắng tất cả. Xin Chúa ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta, tăng cường sức sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta nhiệt tâm cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.

 

68. Suy niệm của Lm. Gioan Trần Khả

Sống trong một xã hội duy tự do dân chủ như ở Hoa Kỳ, không ít thì nhiều chúng ta cũng học suy nghĩ theo văn hóa của xã hội này. Tự do dân chủ là điều tốt nhưng không tuyệt đối tốt. Vì tự do dân chủ quá cho nên xã hội chúng ta đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Nhiều người và nhiều gia đình đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Cha mẹ không bảo được con cái. Con cái không nghe lời cha mẹ. Ngoài xã hội người dân không chấp nhận luật pháp. Ai là người có quyền bính? Một thí dụ trong trường hợp của Cậu bé Elien 6 tuổi người Cuba. Cậu cùng với mẹ đi vượt biển qua Hoa Kỳ, nhưng không may mẹ cậu bị chết. Cậu đã được cảnh sát duyên hải Hoa Kỳ cứu sống sau nhiều giờ lênh đênh trên biển. Vấn đề đã gây nên cuộc tranh luận sôi nổi giữa chính phủ Cuba, chính phủ Hoa Kỳ, giữa gia đình của cậu ở Cuba, và thân nhân của cậu ở Miami. Ai là người có quyền để quyết định về tương lai của cậu bé Elien? Sở Di Trú hay Hạ Nghị Viện? Tòa án hay thân nhân trong gia đình? Trong Giáo Hội cũng có khủng hoảng về quyền bính. Nhiều người không đồng ý tuân theo giáo huấn của Giáo Hội về những vấn đề như ngừa thai, điều hòa sinh sản, phá thai, ly dị và tái hôn... Ai là người có quyền giáo huấn?

Các bài đọc hôm nay cũng đề cập đến quyền bính. Đó là quyền bính tối cao của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh sử Macô ghi lại, "Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chớ không như các luật sỹ."

Bài đọc thứ nhất Mai-sen nói với dân chúng là Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tiên tri mới giống như ông. Mai-sen là người đã đươc gặp Thiên Chúa nơi bụi gai. Ông đã đối thoại với Thiên Chúa. Ông đã nhận lệnh của Thiên Chúa. Ông đã luôn bàn hỏi tham khảo với Thiên Chúa, và ông cũng đã lên núi cao để yết kiến Thiên Chúa. Ngài đã trao cho ông hòm bia với mười giới răn để truyền dạy dân chúng. Thiên Chúa đã chọn Maisen. Và Maisen đã trung tín làm tròn sứ vụ Thiên Chúa trao phó cho ông. Ông đã nói lại cho dân chúng tất cả những gì Thiên Chúa truyền dạy ông. Chính vì có sự liên lạc mật thiết và trung tín với Thiên Chúa như thế cho nên lời nói của Maisen có uy tín mạnh mẽ.

Trong bài Phúc âm, chúng ta nghe và thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu không những chỉ là người gặp Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa. Ngài biết Thiên Chúa và là một với Thiên Chúa. Uy quyền của Đức Kitô là uy quyền của Đấng Thiên Sai. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường ở Ca-pha-na-um, người ta đã rất đỗi ngạc nhiên.

Những người nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến những việc Ngài làm đã nhận ra được chân dung của Ngài. Lời giảng dạy của Ngài không phải chỉ có chủ đích truyền đạt một mớ kiến thức lý thuyết. Nhưng Ngài còn giảng dạy với một tinh thần thâm tín yêu thương, hết lòng lo cho hạnh phúc của những người nghe Ngài. Do đó Ngài đã thuyết phục được lòng trí của những người nghe và đưa họ về với Thiên Chúa. Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa và Ngài giảng dạy tôn ý của Thiên Chúa Cha. Việc làm, lời giảng dạy và sự hiện diện của Ngài không những đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng và thán phục, mà còn làm cho cả ma quỷ cũng phải khiếp sợ.

Ngày nay nhiều người trong chúng ta từ những vị linh mục hay tu sỹ đến những thầy cô dạy giáo lý và những người làm cha mẹ, chúng ta có trách nhiệm giảng dạy và nói về Thiên Chúa, nhưng được mấy người đã thực sự cảm nghiệm được trách nhiệm trọng đại này? Được mấy người có uy tín trong những lời giảng dạy của mình? Để cho lời giảng dạy của chúng ta có uy tín, nguyên việc lãnh chức, khấn dòng, nghi thức sai đi hay giấy chứng hôn thú không đủ cho chúng ta uy tín. Đó mới chỉ là dấu chỉ chúng ta được tuyển chọn. Mỗi người chúng ta còn cần phải thường xuyên gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa như Maisen và như Đức Giêsu đã làm. Chúng ta cũng cần ý thức trách nhiệm giảng dạy những gì Thiên Chúa truyền chứ không phải giảng dạy những gì chúng ta muốn. Muốn được như thế, chúng ta cần phải dành thời giờ để đi gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa để lãnh nhận lời truyền dạy của Ngài. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm để nhận định và phân biệt sự khác nhau giữa một bài thuyết trình theo kiến thức của sách vở và một bài thuyết trình theo sự hiểu biết và thâm tín của kinh nghiệm sống.

Có câu truyện kể rằng trong một buổi họp để thi tuyển tài nghệ diễn xuất. Một anh thanh niên học về ngành kịch ảnh sân khấu đã bước ra và dõng dạc đọc thuộc lòng thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Anh đã đọc với cung giọng trầm bổng dẽ dàng và rõ ràng với tài nghệ của một kịch sđể diễn tả ý nghĩa của thánh vịnh đó. Anh đã đọc thật hay và được khán thính giả yêu cầu đọc đi đọc lại ba lần với những tràng pháo tay tán thưởng vang dội.

Người thứ hai là một ông cụ già lưng hơi gù gù. Khi ông bước lên sân khấu thì mọi người im lặng. Giọng ông nhỏ nhẹ và phải chú ý mới có thể nghe được. Ông chậm rãi xướng lên thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Ông đọc với một tâm tình có sức cảm kích khác biệt. Khi ông đọc xong, thì cả cử tọa trong phòng im lặng. Mọi người đều cúi đầu và như âm thầm cầu nguyện. Vài phút sau, người thanh niên thứ nhất bước lên sân khấu nhận định, "Thưa quý vị. Như quý vị cảm nhận. Rõ ràng là tôi biết và thuộc thánh vịnh 23, nhưng còn ông cđây mới thực sự là người biết Đấng Chăn Chiên." (Jack Mc Ardle, 150 Stories for Preachers and Teachers # 5).

Điểm thứ hai chúng ta nhận thấy là sự hiện diện của thần ô uế. Bắt đầu công việc rao giảng là Đức Giêsu đã đối diện với thần ô uế như lời thánh Macô tường thuật. "Một người bị quỉ ô uế ám đã nhận ra danh tánh của Đức Giêsu và kêu lên, "Hỡi ông Giêsu Nagiaret, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Đức Giêsu đã quát bảo nó, "Hãy im đi và ra khỏi người này." Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi ra khỏi người ấy.

Ngày nay có lẽ nhiều người không còn nghĩ đến ảnh hưởng của thần ô uế bởi vì chúng ta có khuynh hướng cắt nghĩa theo khoa học tâm lý. Con người ngày nay thường dùng khoa trị liệu tâm lý để giải đoán hầu hết những hiện tượng không tự nhiên hay bất bình thường. Có phải việc tin là có sự quấy phá của thần ô uế đã trở nên quá cổ xưa hay không? Cuốn phim "The Exocist" thực hiện hồi thập niên 1970s đã dựa trên một chuyện có thật về một cậu bé 14 tuổi sống ở Mt. Rainier, Maryland năm 1949. Tuần báo Neweek đã diễn tả như sau: "những khung hình, ghế và giường của cậu bé tự nhiên di động. Ban đêm thì cậu không thể ngủ được. Sau khi được đưa vào bệnh viện của đại học Georgetown... cậu bé bắt đầu phun ra những lời chửi thề bằng những ngôn ngữ cổ xưa. Có một lần trong khi cậu đang bị trói cột chặt trên giường thì tự nhiên có những lằn rạch đỏ hiện lên trên thân mình của cậu." Cậu đã được giải thoát nhờ nghi thức trừ quỷ và cậu đang sống ở Wahsington D. C.. Vị linh mục già tham dự vào việc trừ quỷ cho cậu đã thề hứa không nói về vấn đề này. Ngài chỉ nói rằng kinh nghiệm đó đã có ảnh hưởng mạnh và thật sự thay đổi cuộc sống của ngài tốt hơn (Mark Link, Sunday Homilies).

Chúng ta phải tin rằng ma quỷ vẫn hiện diện và lộng hành quấy phá. Nó lộng hành quấy phá nơi đời sống mỗi cá nhân, trong gia đình, ngoài cộng đoàn hay trong xã hội... Chúng quấy phá dưới nhiều hình thức. Chúng làm cho chúng ta, cho gia đình chúng ta và cho cộng đoàn giáo xứ ra ô uế. Chúng thổi sự ô uế của kiêu căng, tự phụ, ghen ghét, hằn thù, nói hành, chia rẽ, bè phái, tà dâm, hãm hiếp, trộm cắp, giết người, gian tham, lười biếng, hà tiện, nghiện ngập cờ bạc, rượu chè, xì ke ma túy, ly dị, chiến tranh, và muôn vàn hình thức ô uế khác. Muốn loại trừ thần ô uế ra khỏi cuộc sống, chúng ta phải đến gần Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa Giêsu mới có uy quyền xua đuổi thần ô uế ra khỏi chúng ta.

 

69. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

HÃY THEO ĐỨC GIÊSU, VÌ NGƯỜI LÀ ĐẤNG RẤT UY QUYỀN

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Có khi nào anh chị em đặt vấn đề: Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta kiên trì đi theo Ngài.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.

Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.

Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)

Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.

Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.

2. Đáp ca (Tv 94)

Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I. Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.

3. Tin Mừng (Mc 1,21-28)

Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền:

Uy quyền trong lời nói: "Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ".

Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám: "Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế".

4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)

Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống: bậc độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Đi tìm "minh chủ"

Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.

Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm, một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng, liền hỏi lý do. Cậu bé đáp "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà không nặng cho được" Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa dạy: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên vai.

Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự, chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.

* 2. Sức mạnh siêu phàm

Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch. Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.

Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất. Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật. Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.

*

Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì: "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc.1,22).

Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: "Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi" (Mt.5,21).

Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.

Lời Người là "Giáo lý mới mẻ". Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.

Lời Người là: "Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo" (Mc.1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới.

Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.

G. Courtois khẳng định: "Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên "muối men" cho cả nhân loại vì "ánh sáng" của những người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều".

Jacques Delarue viết: "Mọi phần tử trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: "Hãy ra đi bình an". Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật".

Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:

"Lời Chúa là đèn soi cho con bước.

Là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv.118,105).

*

Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con ; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con ; qua bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 3. "Hãy để tôi yên"

Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?" Nói như thế cũng có nghĩa là nói "Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi".

Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.

Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.

Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.

Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.

Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)

4. Bệnh tật

Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa bệnh.

Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu:

Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy thuốc mà là việc của các đạo sĩ.

Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì phải xin Chúa tha tội.

Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý nghĩa khác của bệnh tật: đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác. Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.

Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh... Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.

Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.

Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống nguội lạnh.

Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.

Đó là những người có một đức tin còn ở một trình độ hết sức thấp kém: tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.

Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực: "Chúng ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa gởi đến?"

Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói "Ai tin thì sẽ được rỗi" vậy.

5. Dđoan

Theo nghĩa chữ, "đoan" là đầu mối, "dị" là kỳ lạ. Tin "dị đoan" là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý ; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú ; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v.

Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người:

Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.

Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.

Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.

Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.

Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

VI. TRONG THÁNH LỄ

Trước kinh Lạy Cha: Trong lời Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.

Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"

Trước lúc rước lễ: Mình Thánh Chúa là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng đáng để rước lấy thần dược ấy. "Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch"

VII. GIẢI TÁN

Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.

 

70. Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền

Đầu năm mới chúng ta tìm đến với ai để nương nhờ cho được lợi cả năm?

Lời Chúa là đèn soi bước chân con. Đức Giêsu giảng dạy như người có thẩm quyền. Lời Người dạy như là của mình không như những nguời khác dạy theo sách vở hay truyền thống. Người còn làm nhiều phép lạ để làm chứng. Người truyền lệnh cho quỉ và chúng phải vâng phục mà xuất ra.

Mọi cái tốt đẹp đều bởi Thiên Chúa. Mọi cái xấu xa là do ma quỉ. Vậy thì phải TIN THEO Thiên Chúa.

Vài điểm CHÚ GIẢI

- Người ta sửng sốt vì lời dạy của Người: Có cảm nhận và có cảm giác khi nghe lởi giảng. Nhiều người nghe Lời Chúa cách vô cảm nên nhàm chán, sợ nghe.

- Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền: dạy như của riêng mình, không học với ai, không theo sách vở và truyền thống. Có khi còn đi ngược truyền thống.

- Lập tức, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập: quỉ là thần ô uế vì đôí lại với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mọi cái xấu đều đổ cho quỉ: đồ quỉ, con quỉ.

- Tôi biết ông là ai: Ông là Dấng thánh của Thiên Chúa: Đấng Thánh là đối lại với thần ô uế. Còn có nghĩa là Messia.

- Nhưng Đức Giêsu mắng nó câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy: Đức Giêsu trừ quỉ bằng cách mắng nó và ra lệnh. Lời tạo dựng, là quyền năng của Thiên Chúa.

- Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiềng và xuất khỏi ngưòi ấy: dù có bực tức 'lay mạnh và thét lên' nhưng cũng phải xuất. Không chóng lại nổi.

- Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, lời nói thì có uy quyền: Mới mẻ là không giống như trước. Có uy quyền là khuất phục được thần ô uế. Người ta ngạc nhiên và bị chinh phục.

- Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng phục: Lời là quyền năng của Thiên Chúa làm sao dám không vâng phục.

Người ta ngạc nhiên vì Lời Chúa. Không phải Lời Chúa thì không có khả năng gây ngạc nhiên. Người ta vô cảm hoặc cảm thấy nhàm chán, có khi thấy thích mà không ngạc nhiên vì nghe không phải Lời Chúa mà là lời của người giảng. Nếu là Lời Chúa thì sẽ khuất phục người nghe.

Dân chúng cảm phục vì lời dạy của Đức Giêsu mới mẻ và có thẩm quyền. Mới mẻ thì hấp dẫn. Có thẩm quyền thì chinh phục. Người giảng cần trình bày Lời Chúa cách mới mẻ nhưng phải giữ nguyên Lời Chúa đừng biến thành lời của mình hay của bất cứ người nào. Vì Lời Chúa mới có uy quyền. Nhưng nếu cứ lấy từng câu ra cắt nghĩa thì khô khan và nhàm chán. Nhất là chỉ theo chuyên môn, không thực tế, không áp dụng.

Thiên Chúa toàn năng nhưng hành động bằng Lời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi ban Con Một là Lời. Lời bây giờ ở trong bốn Phúc Âm. Lời phán ra trong Phúc Âm. Học hiểu và thực hành Lời trong Phúc Âm là được Đức Giêsu dạy dỗ và quyền năng Thiên Chúa được thực hiện. Phúc Âm là Đức Giêsu ra lệnh.

Ma quỉ và nước ma quỉ chỉ bị đẩy lui khi nước Thiên Chúa đến nghĩa là Lời Thiên Chúa được thực hiện. Đức Giêsu ra lệnh các thần ô uế không muốn cũng phải vâng phục. Quỉ là Chúa của mọi cái xấu xa gọi chung là ô uế. Lời của Đức Giêsu mới ra lệnh cho chúng rút lui. Không có quỉ 'thần ô uế' thì không có các thứ xấu xa thì được mọi cái tốt đẹp. Đây là bí quyêt để được mọi điềư tốt đẹp. Muốn được mọi điều tốt đẹp thì hãy làm theo bí quyết nầy. Tuyệt đối chắc chắn.

Muốn tốt đẹp mà làm theo quỉ thì chẳng là mâu thuẩn sao? Không chịu làm Lời Chúa, không chịu theo Chúa thì được cái gì tốt sao?

Người giảng dạy có thẩm quyền thì đáng tin. Người ra lệnh cho quỉ xuất đi thì không còn cái xấu, cái ô uế, cất đi cái ngăn cách ta với quyền năng Thiên Chúa thì quyền năng Thiên Chúa mới thực hiện những điều kỳ diệu cho đời sống chúng.

 

71. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

Một giáo huấn có uy quyền (1,21-28)

Trong đoạn văn trên đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta một trình thuật cô đọng và rất có ý nghĩa về sinh hoạt mang tính “Mêsia” của Chúa Giêsu: lời Ngài giảng dạy nối liền với một cuộc trừ quỷ. Lời mở đầu bản trình thuật thật là rõ ràng (c.21). Sự kiện xảy ra ở Caphanaum. Thị trấn này nằm dọc theo bờ hồ Galilê. Chúa Giêsu dùng nơi này như trung tâm của việc rao giảng và là chốn qua lại trong công cuộc truyền giáo (9,33), cũng như những người Do Thái đạo đức thời ấy, Chúa Giêsu năng lui tới “hội đường”. Nơi đó người ta tụ họp để cầu nguyện và nghe lời Thiên Chúa. “Ngày Sa bát”, ngày thứ bảy trong tuần, là ngày nghỉ được thánh hiến cho Thiên Chúa (St 2,2-3). Ta biết việc phụng tự ở hội đường diễn ra thế nào trong ngày đó (Cv 13,14-15). Sau khi đọc một đoạn luật Môsê và sách tiên tri, người ta mời một người lớn tuổi cho lời dẫn giải về những đoạn Kinh Thánh vừa đọc. Nhân dịp này, Chúa Giêsu lên tiếng giảng dạy (x. Lc 4,16-22). Các ký lục ngồi ở hàng đầu.

Bốn lần (c. 21b-22 và 27) Maccô nhấn mạnh về “giáo huấn” của Chúa Giêsu. Hiếm khi thấy trong cuốn Tin Mừng này ông cho ta biết nội dung của “giáo huấn” ấy. Nhưng ông lại nhấn mạnh tới tính độc đáo của giáo huấn. Sự hiểu biết của Thầy vượt xa hẳn các ký lục (c.22). Là thủ lãnh bè biệt phái, các ký lục là những nhà thông thái. được các kinh sư nổi tiếng đào tạo về Thánh Kinh, họ là những người diễn giải Sách Thánh có thẩm quyền, nhưng giáo huấn của họ lại dựa trên những truyền thống của các bậc thầy họ. Còn Chúa Giêsu, Ngài không giảng dạy như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa. Ở đây từ Hy Lạp “uy quyền” có nghĩa rất mạnh. Từ này được lấy ở một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa ban cho Đấng Mêsia của Ngài một “Quyền lực” tối thượng (Đn 7,13-14).

Chúa Giêsu đã cho thấy sự trổi vượt của Ngài trên các bậc kinh sư Do Thái (c. 23-24). Để hiểu được tính khác thường của đoạn văn này, ta cần biết rằng vào thời Thượng cổ tất cả những sự dữ mà con người phải chịu đều được quy trách cho ảnh hưởng độc hại của thần dữ. Diễn tiến của câu truyện như ta thấy cũng đã được dùng trong các trình thuật về phép lạ nơi người Do Thái và người dân ngoại thời Chúa Giêsu. Đó là một “nghi thức trừ tà”. Lược đồ tổng quát giống hệt nhau. Người trừ tà bắt tay vào cuộc chiến với thần dữ. Một trong hai bên sẽ xướng tên của đối thủ. Trong thế giới Sêmit, biết tên của ai là có ưu thế hơn người ấy. Ở đây, thần dữ biết rõ căn cước của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là Đấng Mêsia. Nhưng thần dữ xưng ra điều này với dáng vẻ sợ hãi. Nó cảm nhận được Chúa Giêsu đến tiêu diệt nó và đồng bọn. Đúng vậy: Đấng Mêsia lâm trận lần cuối cùng dẹp tan sức mạnh của sự dữ (x. 3,22-30). Chính vì thế Chúa Giêsu tỏ ra mạnh thế. Ngài xua đuổi thần dữ bằng một lời uy quyền (c. 25-26). Giống như các câu truyện của thời bấy giờ, việc xua đuổi “quỷ” được Maccô thuật lại với những hiện tượng mắt thấy tai nghe: nạn nhân vặn vẹo thân mình và kêu một tiếng lớn. Không có gì đáng sợ cả. Nhưng điều đáng lưu ý chính là những mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền cho thần dữ: “Câm đi!”. Lệnh truyền thật quyết liệt. Lệnh này có ý nhắm tới lời bộc lộ của thần dữ: “Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (c. 24b).

Tại sao Chúa Giêsu lại cấm nói về căn cước của Ngài cách nghiêm ngặt như thế? Đó là phát biểu đầu tiên mà người ta gọi là “bí mật về Đấng Mêsia” trong Tin Mừng Maccô. Chúng ta sẽ thấy, trong suốt cuốn Tin Mừng này, Chúa Giêsu kién quyết bắt ma quỷ phải giữ kín căn cước của Ngài (1,34b; 3,12v.v…) cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và các môn đệ tuyên xưng, dù chỉ phần nào, tính “Mêsia” của Ngài (1,43-44a; 7,36a; 8,31 v.v…). Dường như Maccô đã hình thành nên một thái độ thường xuyên của Chúa Giêsu đối với những quan niệm dân gian ở thời Ngài. Trong niềm khát mong Đấng Mêsia, người Do Thái chờ đợi một nhân vật mang ít nhiều tính thần thoại. Người ta tin rằng, với một chiếc đũa thần Đấng Mêsia sẽ thay đổi kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngài sẽ biến hoang địa thành một kho chứa đầy cơm bánh (Mt 4,3). Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi bệnh tật (Mt 4,24). Một số người còn ngĩ rằng, chẳng biết Ngài đến từ đâu, nhưng Ngài sẽ không chết (Ga 12,34). Đối với Chúa Giêsu, để cho người ta công bố quá sớm Ngài là Đấng “Kitô” là “Con Thiên Chúa” là khuyến khích sự tin tưởng sai lầm của người dân về Đấng Mêsia và gây tổn hại lớn cho việc biểu lộ tiệm tiến sứ vụ và thân thế đích thực của Ngài. Theo Maccô, thực ra chỉ có cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu mới mạc khải được dung mạo đích thực của Đấng Mêsia mà người ta phải tin tưởng. Trước khi những biến cố mặc khải trọn vẹn này xảy ra, ta nên theo lệnh Thầy là giữ im lặng.

Giống như lúc khởi đầu, trình thuật này kết thúc bằng việc cố ý nhấn mạnh tới sự mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến: một lời cứu độ hoàn toàn hiệu nghiệm như Lời của Thiên Chúa. Ta hiểu được sự kinh ngạc và nỗi thắc mắc bao trùm trên đám đông dân chúng (c. 17a). Chúa Giêsu vừa làm xong một điều chưa từng thấy. Ngay trong ngày Sabbat, ngày nghỉ ngơi bất khả xâm phạm, Chúa Giêsu biểu dương uy quyền tuyệt đối trên sức mạnh của thần dữ. Bởi đâu Ngài có uy quyền thế này? Người ta thắc mắc hỏi nhau như thế. Và thắc mắc này còn gặp thấy qua suốt cuốn Tin Mừng: “Ông Giêsu Nadaret” này là ai vậy? Sau cùng, Maccô chỉ còn việc cho ta thấy rõ danh tiếng Chúa Giêsu lan rộng khắp xứ Galilê sau vụ chữa lành này (c.28).

 

72. Suy niệm của Noel Quesson

“THẾ NGHĨA LÀ GÌ? NGƯỜI CÓ UY QUYỀN BIẾT MẤY?”

Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.

5152 cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.

Chúa Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!...lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo” (Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều họ đã nghe, đã học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật sĩ” là như thế.

Lời Ngài đi thẳng vào tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân Do Thái và mọi nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy về chính mình. Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về mình là điều vững chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ thuyết phục người nghe hơn cả.

Là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa sống trong ta, ta mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ những người anh em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là những anh em thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương Chúa, chúng ta dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện, chia sẻ lời Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng và tân tòng của mình…

Qua Thánh Kinh, Chúa vẫn nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục vụ mọi người theo gương Chúa. Amen.

 

73. Chúa Nhật 4 Thường Niên

Thiên Chúa quyền năng và hằng thương yêu. Ngài luôn yêu thương con người và luôn dành cho con người những điều tốt đẹp nhất. Chúa Giêsu đến trần gian để khai mở Nước Thiên Chúa nhưng vì tôn trọng tự do mà Thiên Chúa để cho ma quỷ cám dỗ con người. Ngài để cho các thế lực sự dữ tấn công con người. Tuy nhiên con người vẫn được những sự trợ lực mạnh mẽ vô song từ phía Thiên Chúa để con người trung thành sống cho Chúa và trong khi can đảm chống lại sự dữ, con người được thêm nhiều ơn ích cho mình.

Hẳn nhiên, trong thế trần, con người phải chịu nhiều sự tấn công từ phía ma quỷ. Để chiếm lấy Nước Trời, để được bảo đảm vào trong vương quốc Thiên Chúa, con người phải chiến đấu trường kỳ và mạnh mẽ. Thế nhưng người ta cần phân biệt ma quỷ là ai? Thưa ma quỷ là thiên thần hư hỏng, đã bị đuổi ra khỏi Thiên Đàng. Nó đã thất bại nên muốn con người cũng thất bại như nó. Nó là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động không ngừng nhằm làm phá hoại con người. Nó muốn con người đi theo con đường của nó. Nó muốn con người từ chối tình thương của Thiên Chúa.

Có những thời gian nào đó, ma quỷ được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu như thế thì người ta sẽ dễ dàng nhận ra chúng và chúng khó lòng cám dỗ chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Ma quỷ là kẻ dối trá. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình ảnh xinh đẹp và hấp dẫn. Nó hoạt động rất tinh vi, kín đáo và khôn khéo nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Nhờ người ta không tin ma quỷ hiện hữu nên nó càng dễ dàng hoạt động nhằm tấn công con người, làm cho con người nghi ngờ Thiên Chúa, sống lấp lửng, sống nước đôi và thậm chí người ta không cộng tác trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ma quỷ được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ. Thế nên chúng ta hãy xác tín và quả quyết ma quỷ là có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này.

Ma quỷ hoạt động rất tinh vi và khôn khéo làm cho con người bị nô lệ trói buộc mà không hay biết. Nếu không sáng suốt, con người sẽ nhầm lẫn, dễ trở thành người cộng tác tích cực với ma quỷ,dễ phạm tội và sống trong tội lỗi mà không hay biết gì cả. Đôi khi chúng ta đang bị xiềng xích của ma quỷ trói buộc như sống thiếu bác ái, tham danh vọng, không yêu mến Chúa và không cộng tác với Giáo hội, vô hình trung chúng ta trở thành kẻ nô lệ của chúng mà nhiều lúc con người không nhận ra. Thế nên, khi xét mình lại, chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình đang làm nô lệ của những thói xấu trên. Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, ngay từ nội tâm mỗi người. Bên cạnh đó, chúng ta không dè rằng ma quỷ, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là ma quỷ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái. Vì thế, con người cần sám hối, cần xin ơn Chúa trợ giúp để sáng suốt, can đảm chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, trung thành với Chúa và trung thành sống yêu thương như Chúa muốn. Chúng ta phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương.

Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nó chỉ muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương muốn cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ. Chúng ta hãy chỗi dậy, tỉnh táo và khôn ngoan. Đừng để mình bị lừa dối của ma quỷ nữa, hãy mau mắn tin tưởng và bước theo Chúa Kitô để chúng ta được sống hoàn toàn tự do trong ân sủng và tiếp tục bước đi vào vương quốc Thiên Chúa. Là con cái Chúa nhờ bí tích rửa tội, chúng ta phải tin Thiên Chúa và can đảm bước theo Người. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ. Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để sáng suốt khám phá ra âm mưu hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng. Hơn hết, chúng ta phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hay thương xót.

Hôm nay chúng ta được mời gọi để kiểm chứng lại tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, kiểm chứng lại cuộc chiến đấu của chúng ta với ma quỷ để phát hiện những thiếu sót trong tình yêu đáp trả của mình và sự cộng tác của chúng ta đối với ma quỷ. Chúng ta nhìn nhận những lỗi lầm của mình và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta. Đồng thời chúng ta xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta quyết tâm sống xứng đáng hơn với ơn Chúa đã lãnh nhận, tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa đang hoạt động mạnh mẽ trong tâm hồn chúng ta qua các Bí tích, nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể. Nơi Thánh Lễ và các bí tích Thiên Chúa không ngừng đổ tràn ân sủng của Người để tái tạo con tim yêu thương đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và không ngừng làm cho sự sống trong tâm hồn chúng ta luôn phát triển và đạt đến tầm vóc sự sống viên mãn trong Chúa Kitô, cho chúng ta tham dự vào sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa và ngay bây giờ nếm trước nguồn hạnh phúc bất diệt nơi Mình Máu Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con siêng năng chạy đến bí tích Giải tội và Thánh Thể, để chúng con mạnh mẽ tin vào quyền năng và tình thương của Chúa, để chúng con can đảm từ bỏ lối sống tội lỗi. Chúng con không còn phải sợ sệt hay lo âu vì thế lực ma quđang chế ngự chúng con. Xin cho chúng con dám sống cho Chúa, dám thể hiện đức tin và lòng mến đối với tha nhân. Amen.

 

74. Chú giải của Noel Quesson

Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.

Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người "đi vào" một thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm "Đức Giêsu và các môn đệ của Người".

Sau này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến "Thân Thể Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Giêsu cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính "Người và các môn đệ" sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của Giáo hội.

Thành Ca-phác-na-um

Ca-phác-na-um chính là biểu tượng cho xứ "Galilê của dân ngoại", miền đất sẽ trở nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông dân... Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu, người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một “Ca-phác-na-um"!

Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường giảng dạy.

Sau khi quay chung cả "nhóm", giờ đây Giêsu giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên là Giêsu.

Maccô sắp diễn tả cho ta một "Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn "hành động" đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức Giêsu không?

Một hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu "trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát". Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp xúc.

Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.

Chỉ trong cùng một câu nói mà Giêsu đã ba lần sử dụng từ "didakê", "giảng dạy". Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay "lời dạy" phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó qua bốn câu: "Thời kỳ đã mãn... Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi... Anh em phải sám hối... Anh em hãy tin vào Tin Mừng". Điều làm cho Giêsu quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự... Đức Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa... Người ta "kinh ngạc" vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó "đúng thực" tận thâm sâu con người!

Một cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa... và Ngôi Lời đã làm người". Còn Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết liệt... Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?

Những "kinh sư " theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền" của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó nói với vẻ xác tín: "anh ta tin như thế?", rồi anh ta sống thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói "ba láp", nói "ba hoa chích chòe"... nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế không? Tôi là một "kinh sư" hay là một "chứng nhân? Tôi có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên "của tôi", được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt tôi" không?

Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên...

Chúng ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Giêsu không ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là "tiếng la hét" vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng nó": bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi "lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng" quỷ mới xuất khỏi anh ta.

Tân ước đã 23 lần bàn tới "thần ô uế" mà sách bài đọc dịch là "thần xấu', bởi vì thực ra, từ "ô uế" ở đây không có nghĩa "tình dục" như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự "thánh thiện". Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ "thần ô uế ". "Thần xấu”, chính là "đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa": chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó "quấy phá" con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người "bị quấy phá" trên đây, đó là chính biểu tượng của con người "bị tha hóa". "Bị chiếm đoạt", vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.

Trước việc "trừ quỷ" của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó "hiểu biết sâu xa" cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim “Người trừ quỷ", khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản "tóm lược" trọn vẹn mọi hoạt động của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang tha hóa họ... Thế giới thay đổi chủ... Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.

Này ông Giêsu Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: "ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa".

Thực sự cần phải khám phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường "Giêsu, người Na-da -rét", đến tước hiệu kỳ diệu: "Đấng Thánh của Thiên Chúa". Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa "Thần ác" và "Thiên Chúa" được: thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là "tiếng la hét của quỷ". Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác nào?

Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này".

Từ Hi Lạp được dùng ở đây, có nghĩa gì "bịt miệng", “đe dọa”, “quát mắng". Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.

Chúng ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về "nhân cách" của Đức Giêsu... thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Gíêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa", là."Con Thiên Chúa", có thể chỉ là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một "con người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu trên một cách hợp thức (Mc 15,39).

Mọi người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo".

Đó là những Lời", một giáo huấn, một sứ điệp... một điều gì "mới lạ" cho nhân loại.

Đó là những "Dấu chỉ", những "hành động của Đức Giêsu, các bí tích... quyền năng của Thiên Chúa". Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được Chúa Giêsu "trừ quỷ và "dấu chỉ bí tích" này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể... trong đó Đức Giêsu "nói" với ta, và "cứu độ" ta khỏi sự dữ.

 

75. Ý nghĩa của một lần trừ quỷ

(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Tìm xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật đời sống công khai của Đức Giêsu, là việc quan trọng. Mt bắt đầu với bài diễn từ thứ nhất và dài nhất trong năm bài diễn từ, đó là Bài Giảng trên núi (Mt 5,1–7,2). Mối quan tâm chính của tác giả TM I là diễn tả giáo huấn của Đức Giêsu. Lc thì nói tới việc Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường Nadarét (Lc 4,16-30); tại đó, liên kết bản thân với Cựu Ước (Is 61,1t), Đức Giêsu trình bày uy quyền và mục tiêu của sứ mạng của Người như nằm trong một chương trình đã được thiết lập. Trong Mc, điều đầu tiên chúng ta thấy là sự xuất hiện của Đức Giêsu tại hội đường Caphácnaum.

Caphácnaum ở trên bờ phía tây bắc hồ Ghennêxarét, cách cửa sông Giođan vài cây số. Kết quả các cuộc khai quật khảo cổ cho ta gặp lại những di tích của thế kỷ iv kỷ nguyên chúng ta, nhưng vẫn ở ngay tại nơi có hội đường vào thời Đức Giêsu. Điều lạ lùng là Mc không kể gì về giáo huấn của Đức Giêsu, mà chỉ nêu sự kiện là Người đã giảng dạy và ấn tượng mà các lời Người nói gây nên nơi dân chúng. Quả vậy, tác giả đặt ở hàng đầu không phải là giáo lý của Đức Giêsu, mà là con người của vị Tôn sư.

Mc đã đặt câu truyện này ngay sau khi Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ, mà coi như là hoạt động công khai đầu tiên Đức Giêsu hoàn tất với sự hiện diện của các môn đệ kể từ nay sẽ “ở với Người” (3,14). Thế mà Đức Giêsu đến để loan báo Tin Mừng, loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã có đó, quyền năng cứu độ đã đi vào hoạt động, một thế giới mới đã được mạc khải. Trong Lời mang sức giải thoát mà Đức Giêsu nói ra, chính Thiên Chúa hành động; Đức Giêsu, vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và việc làm, chính là Tin Mừng đang tiến hành.

Đoạn này thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34). Trong một đơn vị thống nhất về thời gian và không gian như thế (một ngày sa-bát tại Caphácnaum), Mc đã quy tụ nhiều câu truyện: việc giảng dạy, trừ quỷ, chữa mẹ vợ Simôn, rồi, đến chiều, có một bức họa tổng quát. Các truyện này xảy ra tại một hội đường, tại nhà, tại cửa thành. Nhưng chuỗi hoạt động này lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ. Bản văn đang khảo sát là cốt lõi của một chuyển động vừa tập trung vừa lan toả, nên trở thành bản văn tiêu biểu, tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu. Điều được biểu lộ ra (sự giải phóng do Đức Giêsu mang lại) tại địa điểm chính thức của Do Thái giáo, trong nhà Lề Luật, là để được phổ biến trong khắp miền Galilê. Và sau Phục Sinh, miền này sẽ trở thành địa điểm xuất phát của các môn đệ để các ông đi khắp thế giới mà thi hành sứ vụ. Vì thế, có kết luận: “Danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tuy nhiên, không nên quên lệnh cấm nói: danh tiếng này chỉ có được nền tảng đích thực khi cuộc Khổ Nạn đã được hoàn tất.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu giảng dạy (1,21-22):

a) nơi chốn và thời gian: Caphácnaum; ngày sa-bát,

b) dân chúng kinh ngạc về lời giảng và uy quyền;

2) Ca người bị quỷ ám (1,23-26):

a) phản ứng của quỷ,

b) lời nói uy quyền của Đức Giêsu,

c) kết quả;

3) Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (1,27-28):

a) dân chúng kinh ngạc: giáo lý và uy quyền,

b) danh tiếng được đồn đi: mọi nơi, khắp vùng lân cận miền Galilê.

Câu truyện trừ quỷ này lại được đóng khung bằng câu nói về “lời giảng dạy có uy quyền”, khiến các nhà chú giải nghĩ đến nhiều đợt làm việc trên câu truyện này.

3.- Vài điểm chú giải

- sửng sốt (22): dịch sát là “bị đánh ngã”, “bị quẳng ra ngoài”.

- Có một người bị thần ô uế nhập (c.23): Tác giả giới thiệu “ca” bệnh. Nhưng rồi, thay vì nói đến một sáng kiến, một thái độ của người bệnh hoặc của những người có mặt nhằm bày tỏ lòng tin, tác giả cho thấy không có ai can thiệp vào cả, Đức Giêsu cũng không làm gì cả; thế mà đã xảy ra như một cú “bùng nổ”.

- la lên rằng: “… chuyện chúng tôi can gì đến ông…” (23-24): Dường như chỉ nguyên việc đứng trước mặt Đức Giêsu đã khiến ma quỷ phải hét lên (x. một phản ứng tương tự: 9,20). Rõ ràng, khi gặp Người, ma quỷ bị một cú sốc, nó không thể thản nhiên như không được. Nó hét lên: “Giêsu Nadarét, chúng tôi với Ngài nào có việc gì?” (NTT). Trong Cựu Ước, câu nói này nhằm thiết lập một khoảng cách giữa hai người: hoặc một sự bất hoà giữa hai cá nhân trước đây hoà hợp (x. Tl 11,12; 2 Sb 35,21; 2 Sm 16,10; 19,23; 1 V 17,18 với ý nghĩa: “tôi đã làm gì cho bạn, đã xảy ra chuyện gì khiến bạn làm như thế, bạn xử với tôi như thế?”), hoặc là từ chối mọi quan hệ hoặc mọi thoả hiệp giữa hai bên thù nghịch (x. Gs 22,24; 2 V 3,13; Hs 14,9: “Giữa chúng ta còn có thể quan hệ gì nữa? Ông lo việc của ông đi!”). Bản văn Mc theo nghĩa thứ hai: đây là một lời tuyên chiến, hoặc đúng hơn, một lời tuyên bố tình trạng thù nghịch và một lời từ chối giao đấu vì bên liên hệ quá biết kết quả rồi (x. 5,7).

- Đấng Thánh của Thiên Chúa (x. 5,7 “Con Thiên Chúa Tối Cao”): Cho dù đa số các nhà chú giải coi đây là một danh hiệu của Đấng Mêsia, cha Lagrange lưu ý là trong nền văn chương Do Thái giáo, Đấng Mêsia không được gọi như thế. Hẳn là câu này muốn nói Đức Giêsu là một con người thuộc về thế giới của Thiên Chúa thánh thiện. Người ở trong quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa, và do đó, câu này diễn tả tình trạng không thể hòa hợp giữa Đức Giêsu và tà thần (HL. pneuma akatharton: đối nghịch lại với linh thánh, với Thiên Chúa). Nhưng chắc chắn là trong Mc, công thức này đã có ý nghĩa Kitô giáo, nghĩa là được dành cho Đấng Mêsia.

Ma quỷ cảm nhận sự hiện diện của Đức Giêsu như một sự gây hấn, nên nó đã “bùng nổ”.

- Đức Giêsu quát mắng (quát bảo, NTT) (25): Theo nghĩa chữ, động từ Hy Lạp epetimêsen (x. 3,12; 4,39; 8,30.32.33; 9,25; 10,13-48) này có nghĩa là “đặt một timê (giá cả, giá trị) trên”, và từ nguyên thuỷ, nó có nghĩa tích cực. Trong Mc, động từ này có nghĩa là “nói một cách nghiêm túc, lưu ý nhằm ngăn cản một hành vi hoặc để chấm dứt hành vi nào đó” (Arndt & Gringrich). Đây là một lệnh truyền hơn là một lời la mắng, một lệnh cấm. Đức Giêsu đã truyền hai lệnh “Câm đi” và “Xuất khỏi người này”.

- Câm đi (phimôthêti): Nguyên nghĩa của động từ HL phimoô là “khoá mõm; muzzle”: Ma quỷ bị coi như là một con thú dữ cần phải chế ngự để làm cho nó ra vô hại. Tác giả dùng lại động từ này trong truyện Dẹp yên bão táp (x. 4,39).

- Xuất khỏi: Đứng trước quỷ, Đức Giêsu thường truyền lệnh này (x. 5,8; 9,25), và quỷ vâng theo tức khắc.

- Thần ô uế lay…, thét… (26): Những hiện tượng này cho thấy kết quả đã đạt được (như trong 9,26), nhưng không có giao tranh; như thế là khác với câu truyện Ghêrasa (5,1) và người động kinh (9,14), vì ở chỗ đó dường như Đức Giêsu có gặp một sự kháng cự nào đó. Còn ở đây, chiến thắng đạt được tức khắc. Đó là điều những người chứng kiến thấy là bất thường, và họ thán phục: các thần ô uế tuân theo lời nói của Đức Giêsu ngay. Tiếng hét ở c. 24 và tiếng hét ở c. 26 như tiếng hét của kẻ sắp chết, cho thấy rằng đây không phải là một việc trừ quỷ như dân chúng đã quen nghe biết, vì một quỷ bị đuổi đi hôm nay sẽ có thể trở lại vào một ngày khác. Cuộc trừ quỷ do Đức Giêsu thực hiện là một sự kiện “mới” trong lịch sử cứu độ. Một thời đại mới đã khởi sự, thế giới đã sang tay người chủ khác; quyền lực của tà thần đã chấm dứt: một “cá nhân” quỷ mới, nhưng nhận định cho số phận của “tập thể” quỷ (“chúng tôi”), (x. 5,10). Vậy Đức Giêsu Nadarét không phải là một người trừ quỷ bình thường, nhưng là Sứ giả của Thiên Chúa, Đấng Thánh. Với sự hiện diện và hoạt động của Người, Thiên Chúa thiết lập Triều Đại của Ngài (x. 3,22-30).

- So sánh với 4,37-41: Nếu so sánh đoạn văn này với hai cảnh của ch. 5 và 9 (Ghêrasa và người động kinh), ta thấy hai truyện ấy thật là sống động, còn bản văn 1,23-27 quá đơn giản. Dường như truyện này là một bài mẫu tổng quát. Ta nhận thấy bài này được xây dựng theo cùng một kiểu như bài tường thuật về cơn bão bị dẹp yên (4,37-41), hoặc đúng hơn, “cơn bão bị dẹp yên” được nhìn như một cuộc trừ quỷ:

 

 

Tr qu

 

Bão yên (4,37-41)

23

Có một người bị thần ô uế nhập la lên rằng

37

Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền

 

 

38

các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:

24

“Ông Giêsu Nadarét, chuyn chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”

(= chúng tôi chết mất)

 

“Thy chng lo gì sao

chúng ta chết đến nơi ri”

(= chúng ta/tôi chết mất)

25

Đức Giêsu quát mng nó (đe do) nó:

39

Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển

 

“Câm đi và xuất khỏi người này!”

 

“Im đi! Câm đi!”

26

Thần ô uế hét lên một tiếng và xuất

 

Gió liền tắt và biển lặng như tờ

 

 

40

Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

27

Mọi người đều kinh ngc đến nỗi họ bàn tán với nhau:

41

Các ông hong s (kinh ngạc) và nói với nhau:

 

“Thế nghĩa là gì?

 

“Vy người này là ai?

 

Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền

 

 

 

Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và chúng phải tuân lnh!

 

mà cả đến gió và biển

cũng phải tuân lnh?

Bảng đối chiếu này cho thấy hai bài có một lược đồ chung:

1. Sự hiện diện của Đức Giêsu gây ra một cuộc bùng nổ các sức mạnh tà thần (quỷ hoặc biển); thế trận.

2. Đức Giêsu như bị khiêu khích, hoặc bởi ma quỷ là hãy rút lui đi, hoặc bởi các môn đệ là hãy hành động đi, cả hai bên đều dùng động từ “chết” (apollymi).

3. Chiến thắng toàn diện của Đức Giêsu được diễn tả bằng hai động từ “đe doạ” và “khoá mõm”, “câm”.

4. Cuối cùng là sự kinh ngạc và câu hỏi về Đức Giêsu, Đấng đã buộc được tà thần phải tuân lệnh.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu giảng dạy (21-22)

Tác giả ghi nhận ấn tượng Đức Giêsu tạo ra nơi dân chúng: họ bị đánh động sâu xa, họ bị rúng động, họ hết sức kinh ngạc. Đức Giêsu không trình bày các ý kiến cũng không cống hiến những đóng góp vào cuộc tranh luận, nhưng giảng dạy với uy quyền, với lời nói có sức mạnh, có hiệu lực tuyệt đối; đàng sau những điều này, Người nói rằng Người có Thiên Chúa với uy quyền của Ngài. Dân chúng ghi nhận điều này và biết mình bị thách thức bởi giáo huấn của Người. Uy quyền của giáo huấn này được phản ánh, như trong một tấm gương, nơi hiệu quả gây ra trên dân chúng. Giáo huấn này không nhắm mở đường cho các cuộc tranh luận, nhưng muốn nắm lấy, lay chuyển, đưa đến một định hướng đời sống cụ thể mới mẻ (= hoán cải).

Đức Giêsu đến để loan báo Thiên Chúa như là vị Chúa tể đích thực và về sự hiện diện chan hòa ân huệ của Ngài. Chính là với sứ điệp này mà Người đến hội đường Caphácnaum. Đây là nơi dân chúng một làng tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu không đến làm việc trong hoang địa như Gioan Tẩy Giả, nhưng đến hội đường. Người tháp hoạt động của Người vào trong nền phụng tự của Israel, như sứ giả của vị Thiên Chúa mà dân Israel thưa gửi với trong hội đường.

* Ca người bị quỷ ám (23-26)

Các cuộc trừ quỷ, và nói tổng quát, cuộc chiến đấu chống Satan, chiếm một vị trí quan trọng trong tác phẩm Mc, vừa về lượng vừa về phẩm: trong bốn bài tường thuật trong đó có hai bài với nhiều chi tiết của riêng Mc (1,21-28; 5,1-20; 8,4-30; 9,14-29), trong nhiều bản tóm tắt của riêng Mc về hoạt động của Đức Giêsu (1,34-39; 3,11-12) và cả trong đối tượng thuộc hoạt động truyền giáo của các môn đệ (3,15; 6,7.13).

So với Mc, Mt và Lc có những khác biệt đáng kể: Lc có giữ lại bài tường thuật ta đang khảo sát (Lc 4,31-37), và có một bản tóm tắt gần giống Mc (Lc 4,41 // Mc 1,39); Mt không có câu chuyện trừ quỷ tại Caphácnaum. Nhưng cả hai vị, đặc biệt Mt, có khuynh hướng giảm thiểu hay loại bỏ “phương diện ma quỷ” của nhiều bài tường thuật (x. truyện Bà Canaan, Sứ mạng của Nhóm Mười Hai và nhất là truyện Chữa người động kinh). Thường truyện được chuyển từ tình trạng quỷ ám sang tình trạng đau ốm, từ việc trừ quỷ sang việc chữa bệnh. Dù sao, những con người bị hành hạ như thế vẫn liên tục xuất hiện trong phạm vi hoạt động của Đức Giêsu. Chúng ta thật khó mà hiểu được những sức mạnh khống chế con người và biến họ thành nô lệ. Các sức mạnh này được giới thiệu như là siêu nhân, phản ứng như thể chúng là con người, có một sự hiểu biết đặc biệt, ở thế đối lập với Thiên Chúa, thống trị và làm hại con người. Có những người nói rằng chúng ở trong biển; có những khác lại cho rằng chúng ở trên không trung, nhưng chẳng ai biết rõ chúng. Điều duy nhất chắc chắn, đó là người ta hoàn toàn bất lực khi đứng trước chúng.

Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó; và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới phải hét lên và đi ra. Nó ở đấy và dường như không gây vấn đề gì. Cũng không có ai gây phiền hà gì cho nó. Nhưng Đức Giêsu thấy người ấy đang ở trong quyền lực của tà thần. Đức Giêsu và tà thần giống như hai kẻ thù gặp nhau: hai bên rất ghét nhau, tìm cách lờ nhau đi, nhưng rồi lại không thể nào tránh khỏi gặp nhau.

Quỷ tỏ thái độ thù nghịch trước, vì nó cảm thấy nó yếu hơn. Nó thấy rằng “Đấng Thánh” (“Đấng mạnh / quyền thế hơn”: Mc 1,7; “người mạnh”: Mt 12,29) có khả năng tiêu diệt nó và vương quốc của nó: “Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24). Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (c. 25). Thần ô uế vâng lời. Với lời nói hữu hiệu của Người, Người chứng tỏ quyền lực đích thực của Triều Đại Thiên Chúa mà Người loan báo; Người cho thấy rằng Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng và Thiên Chúa đang dùng quyền lực của Người để giải thoát loài người và trả lại cho họ khả năng xác định mình như là những con người tự do. Đức Giêsu đưa tự do và bình an đến không phải nhờ một thỏa hiệp với sự dữ, nhưng chỉ nhờ cách thắng vượt sự dữ. Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng này, ta cũng thoáng thấy Đức Giêsu là ai.

* Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (27-28)

Dân chúng sững sờ kinh ngạc. Họ nhận ra rằng có một vị ngôn sứ đang ở giữa họ với “giáo huấn mới, một cách có uy quyền” (c. 27 - NTT). Đó là vì lời nói của Đức Giêsu thực hiện được điều Người diễn tả. Tác giả nhắc lại “lời giảng dạy – uy quyền” (c. 22 // c. 27) để “đóng khung” truyện trừ quỷ. Bằng cách đó, ngài vừa nói lên được hai nét chính trong sứ vụ của Đức Giêsu (giảng dạy – trừ quỷ) vừa minh họa được quyền lực giải phóng của lời Người nói. Ngoài ra, ngài cũng chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu bằng cách ghi nhận rằng sự cố xảy ra tại Caphácnaum đã được đồn ra “khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.

+ Kết luận

Vậy ít ra, đến đây, chúng ta phải nhìn nhận sử tính của những bài tường thuật về trừ quỷ: chắc chắn Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ. Những người đương thời đã coi Người là một vị Thầy chữa bệnh và trừ quỷ. Các câu truyện Ghêrasa và người động kinh cho thấy ấn tượng này rõ hơn. Và nhất là chính những luật sĩ đã kết án Đức Giêsu là “bắt tay” với quỷ vương… Nhưng, dường như Mc có một ý hướng sâu hơn khi trình câu truyện trừ quỷ ở đây.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Trong “một ngày ở Caphácnaum” được coi như một ngày “mẫu”, Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ: Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng để giải phóng con người. Các tông đồ cũng có mặt: những môn đệ tương lai sẽ nối tiếp Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ.

2. Phong thái và các hành vi của chúng ta có cho thấy rằng chúng ta đang được hướng dẫn bên trong bởi uy quyền của Đức Giêsu chăng? Phải chăng chúng ta chỉ rút từ giáo huấn của Người ra những gì chúng ta thích, hay là quả thạt, chúng ta đang liên kết với Người bằng cách trung thành bước theo Người?

3. Chúng ta biết là có ma quỷ. Tuy nhiên, không nên nghĩ nó giống như một con quái vật. Đúng hơn nó là sức mạnh làm cho con người chúng ta hành động không đúng với nhân tính chúng ta nữa. Ta chỉ thắng được tà thần không phải bằng một thỏa hiệp và nhượng bộ, nhưng nhờ thẳng thắn chiến đấu chống lại nó nhân danh Triều Đại Thiên Chúa: nó đã và sẽ phản ứng thô bạo, nó kháng cự, la hét. Chúng ta có tin tưởng mạnh mẽ và sống động vào Đức Giêsu chăng? Chúng ta có xác tín rằng Người vượt lên trên tất cả các sức mạnh đối kháng, và nếu kết hợp với Người, chúng ta có thể đánh bại sự dữ và các sức mạnh thù nghịch?

4. Cuộc chiến đấu được kể lại đây tượng trưng cho cuộc nổi loạn của các sức mạnh xấu xa trong chúng ta, vì chúng không muốn bị trục xuất; đây là biểu tượng của các khó khăn chúng ta gặp khi chúng ta muốn gỡ mình khỏi các tật xấu. Chúng không muốn bỏ đi. Chúng ta chịu thua hay là chúng ta biết tin tưởng vào lời của Đức Giêsu, lời vẫn vang lên mỗi ngày trong lòng các cộng đoàn của chúng ta?

 

76. Chú giải của William Barclay

Chúa Giêsu Bắt Đầu Sứ Vụ Của Ngài (Mc 1,21-22)

Câu chuyện Maccô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất hiện của Gioan, Chúa Giêsu nhận biết tiếng gọi của Chúa Cha để Ngài phải hành động. Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhận dấu ấn của Chúa Cha chứng tỏ Chúa Cha tán thành và trang bị cho Ngài để thi hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu chịu ma quỷ thử thách và đã chọn lấy phương pháp phải làm, con đường phải đi. Ngài chọn một số người để có một nhóm nhỏ những tâm hồn đồng lòng hiệp ý nhau, để Ngài có thể viết lên đó những sứ điệp của Ngài. Nếu ai có một sứ điệp của Chúa cần rao giảng, địa điểm tự nhiên người ấy nhắm vào phải là Hội Thánh, là nơi họp mặt những người thuộc về Chúa. Đó chính là việc Chúa Giêsu đã làm, Ngài bắt đầu sứ vụ của mình từ hội đường.

Có vài điểm khác nhau căn bản giữa hội đường và nhà thờ theo chúng ta được biết ngày nay.

(a) Trước hết hội đường là nhà trường để dạy đạo. Một buổi học trong hội đường chỉ gồm ba việc: Cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải Lời ấy. Không có cử nhạc, ca hát, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ, chỉ bảo, là chỗ có ảnh hưởng lớn lao hơn hết, vì chỉ có một Đền thờ duy nhất, Đền thờ tại Giêrusalem. Luật quy định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do Thái thì phải có một hội đường, do đó, bất kỳ nơi nào có một nhóm người Do Thái định cư thì có hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi để người ấy trình bày.

(b) Hội đường tạo cơ hội cho người ta truyền rao một thông điệp như thế. Hội đường có một số chức sắc. Có ông trưởng hội đường, ông ta có nhiệm vụ quản trị mọi việc và thu xếp các buổi học. Có những người phân phát của bố thí. Hằng ngày có việc thu góp tiền mặt và hiện vật do nhiều người đóng góp, sau đó được phân phát cho người nghèo. Những người nghèo nhất được cấp thực phẩm đủ 14 bữa ăn một tuần. Có vị Chazzan vẫn gọi là người phục vụ. Vị này có nhiệm vụ lấy ra và cất vào những cuốn sách thánh. Vị ấy cũng quét dọn hội đường, thổi kèn (loa bằng bạc) để loan báo ngày sabát, dạy lớp vỡ lòng cho trẻ em trong cộng đồng. Những có một chức vị mà hội đường không có, đó là người rao giảng hay thầy dạy thường xuyên. Khi mọi người họp lại và buổi họp bắt đầu thì người trưởng có nhiệm vụ chỉ định người giảng dạy. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Chúa Giêsu có thể bắt đầu sứ vụ của Ngài trong hội đường. Việc chống đối vẫn chưa bùng lên thành thù ghét. Ngài được mọi người biết như một người có một thông điệp muốn rao truyền, do đó, bất cứ hội đường nào của các cộng đồng đều thành tòa giảng cho Ngài dạy dỗ.

Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một mặc khải mới mẻ. Ngài không giảng dạy như các Kinh sư là các chuyên viên về luật. Các Kinh sư này là ai? Theo người Do Thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật, Tora. Trái tim của Luật là Mười Điều Răn, nhưng người Do Thái hiểu Luật là năm quyển đầu của Cựu Ước mà họ gọi là Ngũ kinh (Pentateuch). Theo người Do Thái, Luật ấy hoàn toàn từ Đức Chúa Trời đến. Họ tin rằng Luật vốn được Chúa trực tiếp trao cho Môsê, hoàn toàn thánh và có tính cách ràng buộc tuyệt đối. Họ bảo: “Ai nói Tora không từ Chúa đến thì chẳng có phần gì trong thế giới tương lai cả”, “Kẻ nào bảo Môsê đã viết Luật theo hiểu biết của riêng ông, dầu chỉ một câu thôi, cũng là người chối bỏ và khinh khi Lời Chúa”.

Nếu Luật vốn thiêng liêng như thế thì có hai việc nẩy sinh. Một là Luật phải trở thành luật lệ tối cao cho đời sống và đức tin; hai là Luật phải hàm chứa tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn, điều khiển đời sống. Nếu vậy, Luật chỉ đòi hỏi hai điều, một là phải được nghiên cứu hết sức tỉ mỉ cẩn thận, hai là Luật chỉ phát biểu những nguyên tắc quan trọng, tổng quát mà thôi. Nếu Luật hàm chứa phần chỉ dẫn và điều khiển cả đời sống, thì những gì chứa đựng trong đó có tính cách mặc nhiên chứ chưa phải là minh nhiên, nên cần được làm cho sáng tỏ. Các điều luật quan trọng phải được biến thành luật lệ và quy tắc, như vậy lý luận mới được khai triển. Nhằm nghiên cứu và khai triển Luật, có một giai cấp học giả, đó là những Kinh sư, các chuyên viên về Luật, danh xưng dành cho những người cao trọng nhất trong họ là Rabi. Các Kinh sư này có ba nhiệm vụ:

(a) Họ căn cứ vào các nguyên tắc đạo đức trọng đại trong Luật để khai triển thành luật lệ và quy tắc hầu ứng dụng cho mọi tình huống có thể xảy ra trong đời sống. Thật đây là một nhiệm vụ không cùng. Do Thái giáo bắt đầu bằng các nguyên tắc đạo đức quan trọng, nhưng kết thúc bằng hằng hà sa số luật lệ và quy tắc. Bắt đầu là một tôn giáo, nhưng kết thúc là chủ nghĩa duy luật.

(b) Nhiệm vụ của các Kinh sư là truyền dạy Luật và khai triển. Các luật lệ và quy tắc lấy ra từ đó và suy diễn ra chẳng bao giờ viết trên giấy trắng mực đen, chúng được gọi là Luật truyền miệng. Tuy chẳng bao giờ được viết ra nhưng chúng lại có tính cách trói buộc hơn cả luật thành văn. Chúng được lưu truyền thuộc lòng từ thế hệ Kinh sư này đến thế hệ Kinh sư khác. Người học trò giỏi là người có trí nhớ giống như “một cái giếng được lót bằng đá vôi không làm mất đi một giọt nước nào cả”.

(c) Sau cùng, các Kinh sư có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện tụng mà, mỗi vụ kiện tụng như vậy lại tạo ra những luật lệ mới.

Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với các Kinh sư chỗ nào? Ngài giảng dạy có uy quyền. Không có Kinh sư nào dám tự mình quyết định việc gì cả. Ông ta chỉ nói: “Căn cứ theo lời dạy rằng…” rồi lấy từ đó ra tất cả uy quyền cho mình. Hễ nói ra một lời là ông ta dựa vào câu này, câu nọ được ông trích dẫn lại, từ những bậc thày về luật mà thiên hạ đã coi trọng trong quá khứ. Việc cuối cùng mà ông ta chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán cá nhân, độc lập. Thật khác xa với Chúa Giêsu! Khi Chúa phán dạy, Ngài nói như trên Ngài không còn thẩm quyền nào khác. Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. Ngài không trích dẫn, không dựa vào uy quyền của một chuyên viên nào cả. Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. Đối với dân chúng, nghe một người giảng dạy như vậy thật chẳng khác gì được một làn gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn thận trọng của các Kinh sư. Giọng nói đầy uy quyền cá nhân cứ vang vang, và chính giọng nói ấy đã tác động mọi người.

Chiến thắng đầu tiên đối với các thế lực của ma quỷ (Mc 1,23-28)

Nếu lời Chúa Giêsu khiến dân chúng trong hội đường lấy làm lạ thì việc làm của Ngài càng khiến họ vô cùng kinh ngạc. Trong hội đường có một người bị tà ma ám. Anh ta gây rối và được Chúa Giêsu chữa lành. Qua suốt các sách Phúc Âm, chúng ta vẫn thấy những người bị tà ma và ma quỷ ám như thế. Vậy có gì ẩn sau việc ấy? Người Do Thái, và nói chung cả thế giới thời xưa tin ma quỷ. Hamack nói: “Cả thế giới và cả bầu không khí bao quanh đều đầy dẫy ma quỷ, không phải chỉ có việc thờ ngẫu tượng, mà mọi việc, mọi hình thức của đời sống đều bị chúng cai trị. Chúng ngự trên các ngai vàng, bay lượn trên những chiếc nôi, thật ra thì cả địa cầu là một hỏa ngục”. Tiến sĩ A. Rendle Short kể lại một sự việc chứng tỏ người thời xưa tin ma quỷ mạnh mẽ như thế nào. Trong nhiều nghĩa địa thời xưa người ta tìm thấy những sọ người bị xoi lỗ. Trong một nghĩa địa nọ người ta thấy trong 120 xương sọ có sáu cái bị đục thủng như vậy. Với kỹ thuật giải phẫu giới hạn thời xưa, làm như vậy không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, căn cứ vào việc chỗ xương ấy còn phát triển, người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta hãy còn sống. Điều cũng rõ ràng là lỗ đục xương sọ nhỏ đến nỗi nó không thể có giá trị điều trị hay giải phẫu nào và người ta biết rằng cái vòng tròn được lấy ra đó thường được đeo vào cổ như một thứ bùa chú. Lý do đục thủng như vậy là để ma quỷ có lối thoát ra khỏi thân thể một người. Nhưng nếu các nhà giải phẫu thời xưa sẵn sàng thực hiện một công cuộc giải phẫu như vậy, và nếu người ta cũng sẵn sàng chịu để cho đục như vậy, thì ta thấy niềm tin vào việc bị ma quỷ ám vốn có thật đến độ nào.

Vậy các ma quỷ ấy từ đâu ra? Có ba giải pháp cho vấn đề này. (1) Có người tin rằng chúng cũng xưa như công cuộc tạo thành trời đất vậy. (2) Có người tin rằng chúng vốn là linh hồn của những kẻ ác đã chết nhưng vẫn tiếp tục làm những công việc gian ác của nó. (3) Phần đông liên kết ma quỷ với câu chuyện xưa chép trong Sáng Thế 6,1-8 (đối chiếu với 2Pr 2,4-5). Người Do Thái phóng đại câu chuyện như thế này: Có hai thiên thần trốn Chúa để xuống địa cầu vì bị sắc đẹp của con gái loài người quyến rũ. Tên họ là Asên và Simsai. Một trong hai thiên thần này quay về với Chúa, còn người kia ở lại thế gian để thỏa mãn tham dục của mình và ma quỷ là hậu duệ từ con cháu vị ấy sanh ra. Từ chỉ ma quỷ Mazzikin có nghĩa là kẻ làm hại. Vậy ma quỷ là các hữu thể thích làm ác trung gian giữa Chúa và loài người, gây tai họa cho loài người.

Theo tin tưởng của dân Do Thái thì ma quỷ có thể ăn uống và sinh con đẻ cái. Chúng đông khủng khiếp. Có người cho rằng có đến bảy triệu rưỡi ma quỷ, một người có thể có một vạn ma quỷ ở bên phải và một vạn ở bên trái. Chúng sống tại những nơi ô uế như mồ mả và những nơi có nước dơ, chúng sống trong sa mạc là nơi người ta có thể nghe tiếng hú của chúng. Chúng đặc biệt nguy hiểm cho các lữ khách cô đơn, phụ nữ có con, các cô dâu, chú rể và cho trẻ con ra ngoài sau khi trời tối và cho những người đi đường ban đêm. Chúng hoạt động đặc biệt trong sức nóng oi ả giữa trưa và giữa thời gian mặt trời lặn và mặt trời mọc lên. Có một con quỷ làm cho người ta đui, một con quỷ gây bệnh phong cùi, một con quỷ gây chứng đau tim. Chúng có thể truyền các khả năng làm ma quỷ của chúng cho người ta nữa. Chẳng hạn ma quỷ có thế biến may thành rủi và mọi người tin rằng của cải là do ma quỷ ban cho họ. Chúng cũng làm việc với một số các loài thú như rắn, bò mộng, lừa và muỗi. Theo Lilith thì quỷ đực gọi là shedim và quỷ cái là lilin. Các quỷ cái có tóc dài và là kẻ thù của con trẻ. Chính vì thế mà trẻ con có các Thiên thần bảo vệ (18,10).

Vấn đề không phải là chúng ta tin hay không tin mọi điều vừa kể, cũng không phải là chuyện ấy có thật hay không. Vấn đề là vào thời Tân Ước, người ta tin như vậy. Ngày nay, chúng ta vẫn nói “đồ quỷ”, đó là di tích của niềm tin cổ xưa. Khi có người tin mình bị ma quỷ ám ảnh thì người ấy “ý thức về mình và về một hữu thể khác ở bên trong thúc đẩy, điều khiển mình”. Điều đó giải thích tại sao những kẻ bị quỷ ám tại Palestine thường kêu to lên khi thấy Chúa Giêsu. Chúng biết dù sao cũng có một số người tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, chúng biết khi Chúa Giêsu trị vì thì ma quỷ bị thanh toán, và kẻ tin rằng chính mình đã bị quỷ ám thì nói như chính con quỷ nói khi gặp Chúa Giêsu. Có nhiều kẻ làm thầy đuổi quỷ, tự xưng là có thể đuổi được quỷ. Việc ấy có thật đến độ vào khoảng năm 340 SCN, Hội Thánh Chúa thật sự có một dòng đuổi quỷ. Nhưng còn một chỗ khác nhau này: thấy đuổi quỷ thông thường của dân Do Thái và dân ngoại thường dùng thần chú, gào thét, và nghi lễ có tính cách ma thuật. Chúa Giêsu đuổi quý ra khỏi người ta chỉ bằng một tiếng phán rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn đầy quyền năng. Chưa hề có ai thấy việc như vậy trước đó, quyền năng không tại tiếng gào thét, đọc thần chú hay trong lời kêu khấn vái theo công thức, bằng nghi lễ công phu, nhưng quyền năng vốn có ở trong Chúa Giêsu, cho nên mọi người đều kinh ngạc sững sờ.

 

77. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Chúng ta đang ở trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần "nhập đề" giới thiệu các nhân vật chính của Nước Trời, đặc biệt là Chúa Giêsu. Thánh lễ hôm nay đề cập tới thế giá và uy quyền của Chúa Kitô. Chúa Kitô là vị “Đại ngôn sứ " là Môisen đã nhân danh Thiên Chúa báo trước cho dân Israel. Người thực sự là Đấng Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến và chỉ nói những lời của Thiên Chúa mà thôi (Bài đọc 1) Sau này, Chúa Kitô đã tuyên bố đúng như thế (x. Ga 7,10-18). Bởi đó cần tuyệt đối nghe lời Người. Chúa Kitô còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mang một cái gì của Thiên Chúa, nên không lạ gì mà khi Người ăn nói, giảng dạy, thì ai nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người "vì Người giảng dạy như Đấng có quyền uy" (Bài Tin mừng). Chính Chúa Giêsu từng nói với Nicôđêmô: "Đấng Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa" (Ga 3,34; x. Ga 14,10). Vì Chúa có uy quyền như vậy và lời Chúa mang một thế giá siêu việt, nên Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh mà nhắc nhủ ta: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa" đáp ca: Tv 94,8).

2. “Người ta kinh ngạc về giáo lý của người" (Mc1,22). Ngày nay thì ngược lại: vì nghe và đọc lời Chúa cách vô ý thức cùng bất kính, ta thấy nhàm chán và đôi khi còn ác cảm; đi lễ, gặp các bài đọc Thánh Kinh, các bài giảng hơi dài một chút là đã kêu ca, ngáp ruồi... Bởi đó, mỗi khi cảm thấy chán ngán Lời Chúa, hoặc dửng dưng với giáo lý của Người, thì cần phải xét lại nếp sống của ta, để gạt bỏ những ngăn trở những chướng ngại; đồng thời tạo cho tâm hồn có những tâm tình, khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng, là những tâm tình rất cần cho việc đón nhận Lời và giáo lý của Chúa; sau cùng, cũng cần phải gắng công tìm hiểu, học hỏi, chứ không phải ngồi đó mà nghe qua, đợi chờ cách thụ động, ươn lười, vô bổ.

3. Bài Tin mừng hôm nay quả là một thánh lễ rút gọn:

c 21. tập họp. Dân chúng quyết định đi tìm Thiên Chúa và đến cùng Ngài, vì bấy lâu nay họ đã sống cách vô thần, xoay vần đổi hướng như chong chóng, bây giờ họ muốn đi tìm thứ hạnh phúc đích thực.

c 22: phung vụ Lời Chúa. Từ thời Abraham, Thiên Chúa đã ngỏ lời và luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu của con người. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa lại dạy dỗ, giải thích...

c 23-24: dâng lễ. Để đáp lại lời đã nghe, con người thưa "xin vâng", tin vào lời Thiên Chúa phán và hiến dâng đời mình cho Ngài. Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã vâng lời Chúa Cha cho đến cùng và như thế đã dâng lên Cha hiến tế duy nhất đẹp lòng Cha. Ở đây người bị quỷ ám đang chiến đấu.

c 25-26: hiệp lễ. Trong khi dâng niềm tin này, lúc mà mọi hy vọng xem ra mất hút trong đêm tối (giải thoát khỏi Ai cập-tử Nạn), Thiên Chúa đã can thiệp và thực hiện kế đồ của ngài. Và quỷ ám đã ra khỏi người kia, để từ đây tâm hồn nên trong sạch.

c. 27-28: sai đi. Nhờ ơn bí tích, Kitô hữu sau khi trở nên người mới được Chúa Cha chúc phúc và Chúa Thánh Thần tuôn đổ ơn lành, trở về với cuộc sống thường nhật với mọi người và quyết dùng cả đời mình để loan láo Tin mừng hầu "danh tiếng Người đồn ra khắp mọi nơi".

 

78. Suy niệm của Lm. Trọng Hương

1. Đoạn Tin Mừng này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến c 34, được gọi là "Một ngày ở Caphácnaum", trong đó Marcô liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ quỷ. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền.

2. "Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư": Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.

3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Đức Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc quỷ xuất khỏi một người bị nó ám.

4. Phản ứng của dân chúng: "Mọi người sửng sốt và hỏi nhau thế nghĩa là gì": Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi "Ông là ai?", là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.

1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên ta phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.

2. Nhưng tin tưởng không phải chỉ là tin suông mà còn phải dám phó thác vào Ngài, đừng như câu chuyện sau:

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn tđỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: "Lạy Chúa". Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: "Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: "Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." "Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất." Tiếng ấy trả lời: "Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất vọng thốt lên: "Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!" (Trích "Món quà giáng sinh")

3. Một bé trai hỏi bố: - Quỉ lớn hơn con không? - Lớn hơn.

- Quỉ lớn hơn bố không? - Lớn hơn.

- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không? - Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười: "Vậy con không sợ quỉ." (Góp nhặt)

home Mục lục Lưu trữ