Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 70
Tổng truy cập: 1743786
TỪ BỎ VÌ YÊU CHÚA
TỪ BỎ VÌ YÊU CHÚA
Ngày 04/09/2016, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức giáo Hoàng Phanxicô long trọng tuyên phong Chân Phước Teresa Calcutta lên bậc hiển Thánh, vì chưng, trong tâm hồn Thánh Teresa Calcutta luôn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bừng cháy tình yêu thương xót thôi thúc Thánh Nữ một điều duy nhất là bỏ tất cả theo Chúa và "Đem tình yêu thương xót của Thầy đến cho người khốn khổ nhất trong xã hội". Vâng, đúng thế, Mẹ Teresa sinh ngày 26/8/1910 tại Nước Albanie (An-ba-ni). Ðủ 18 tuổi, Mẹ Teresa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto (Lo-rê-tô) ở Ái Nhỉ Lan. Năm 1928, Sơ Teresa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ. Không lâu sau đó, Sơ Teresa đến Calcutta, thủ đô Bengal (Ben-ga), Ấn Ðộ, để dạy học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Teresa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối, các trẻ em bơ vơ và người khuyết tật trên đường phố, Sơ Teresa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người bệnh tật, nghèo đói khốn khổ. Và năm 1948, Mẹ Teresa, với chiếc áo dòng cũ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Năm 1952 Mẹ Teresa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Teresa đã biến nó trở thành Hội Quán cho những người nghèo đói đau khổ, bệnh tật. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ.
Mẹ Thánh Teresa Calculta đã nên thánh được là nhờ thi hành Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay một cách triệt để nhất, hùng hồn nhất: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi”. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn, chọn lựa giữa tốt xấu, trắng đen của thiện ác. Nhà đạo thường nhắc đến 3 thù là Ma quỷ, thế gian và xác thịt. Ma quỷ có thể thắng lướt, thế gian có thể rời xa, nhưng thân xác thì luôn gắn bó đến hơi thở cuối đời, cùng với nhu cầu và những đòi hỏi không ngừng của nó. Nhà Phật đã chỉ ra tam độc của Tham, Sân Si. Còn các đạo vẫn thường nói về Danh, Lợi. Danh vọng, quyền lực, sắc dục luôn là những vấn nạn của muôn thuở nhân sinh. Nhưng chúng ta phải vượt qua được những cám dỗ bằng sự từ bỏ mình vì hạnh phúc cho chính mình và tha nhân theo mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu.
Cụ thể, chúng ta nhớ những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa: cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn (xác thịt): "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!" (Lc 4, 3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa. Rồi, cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi" (Đnl 6, 13). Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng "Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá" để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Nên hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi là vậy.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta vì như lời Ngài đã nói được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì. Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết từ bỏ tội lỗi từ bên trong ra bên ngoài hầu “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để chúng ta thờ phượng Người. Chúng ta đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người chúng ta bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo để chỉ vì yêu Chúa và mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. Amen.
17. Sống mầu nhiệm Thập Giá – Cố Lm. Hồng Phúc
Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phía cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các tiên tri”. Bỗng nhưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thỉ sống lại”. Mấy lúc gần đây, lời tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bầy tỏ rõ ràng những gì sắp xẩy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.
Nhưng khi Ngài vừa tiết lộ tất cả sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Phêrô. Phêrô không hiểu nổi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn của Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay Con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải để cứu vãn nhân loại. Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc Tử nạn của Ngài.
Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).
Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là cả Thầy, cả môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác tôi những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1, 24).
Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận thánh giá.
Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.
18. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Sau khi nghe Phê-rô tuyên xưng: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về số phận của Ngài: “Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ…, sẽ bị giết…”
Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong quyển sách “Cuộc đời Chúa Giêsu”, nói: “Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết”. Ngài đến trong trần gian không phải để tạo một vương quốc cho Ngài, để hưởng thụ như các vua chúa trần gian. Ngài đến để cứu vớt trần gian để “ban mạng sống cho thế gian.”
Phê-rô, có lẽ đã không hiểu một cách rõ ràng những lời Thầy nói, lên tiếng: “Thưa Thầy, không thể như thế được! Thầy không thể như vậy đâu!” Có lẽ Phê-rô chỉ nhớ hai từ thôi: đau khổ và bị giết.
Hành động của Phê-rô cũng dễ hiểu. Theo ông, Thầy là một vị tôn sư cao cả, Thầy làm những việc phi thường và… Thầy lại là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà ông vừa mới tuyên xưng. Vậy thì Thầy làm sao có thể bị giết được! Thầy sẽ đạt đến đỉnh cao của vinh quang. Đó là cái nhìn thực tế của ông. Đi theo Thầy, sau này ông cũng sẽ được hưởng quyền tước nào đó.
Một lần nào đó, Phê-rô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy, thì sao?” Nghĩa là chúng con sẽ nhận được những lợi lộc nào.
Những người theo Chúa nửa vời thường mang tâm trạng thực dụng đó.
Phản ứng của Chúa Giêsu thật bất ngờ và mạnh mẽ: “Santan, lui ra!”
Satan ở đây được hiểu theo nghĩa “chướng ngại.”
Tại sao Chúa lại tỏ ra cứng rắn như thế? Ngài giải thích: “Anh làm cho Thầy vấp phạm, vì anh không hiểu biết những điều thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết về những gì thuộc về loài người.”
Đối với Chúa Giêsu, Ý Chúa Cha là trên hết, dù biết rằng ý Cha sẽ đưa Ngài đến khổ nạn và cái chết, nhưng Ngài sẽ trung thành đến cùng. Vì thế, khi Phê-rô can gián Ngài, Ngài tỏ ra hết sức nhgiêm khắc. Thái độ cương quyết của Ngài là một bài học cho mỗi người chúng ta. Sống đạo chính là “hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa” chứ không theo ý chúng ta, nghĩa là đi vào quỹ đạo của Thiên Chúa, những gì đi ngược lại là Satan.
Sự cương quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, phải dứt khoát rõ ràng, không thể “làm tôi hai chủ”, không bắt cá hai tay.
Chúng ta luôn được đặt trước hai chọn lựa: Chúa hay thế gian. Phải dứt khoát không khoan nhượng.
Giữ đạo không chỉ chấp nhận một số luật lệ, một số bổn phận đạo đức, mà chọn một người chính là Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống: “Dưới gầm trời nầy không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Diễn từ của Phê-rô trước công nghị. Cvtđ 4,12).
Sự chọn lựa này quyết định tất cả cuộc đời chúng ta, tương lai của chúng ta.
Giữ đạo chính là chọn Chúa và theo Chúa. Theo Chúa, tức là cảm nghĩ như Chúa, nói năng như Chúa, hành động như Chúa.
Và Chúa Giêsu đã nêu lên những điều kiện đó: “Ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta.”
Bỏ mình , thường được hiểu là chết. Một chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến… Người Công giáo hiểu theo một nghĩa thiêng liêng. Bỏ mình là từ bỏ những gì là của mình để theo ý Chúa: bỏ những ý muốn riêng, những mơ mộng, chương trình, ý muốn thống trị của mình để sống theo ý Chúa. Hơn thế nữa, bỏ mình là trao quyền quyết định về vận mạng của mình cho Chúa: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu: Ngài đã bỏ mình như thế nào. Chúng ta có thể trả lời ngay: Ngài đã hoàn toàn bỏ mình. Nhập thể, xuống thế làm người, phải chăng đó là bỏ mình trọn vẹn?
Đó là giai đoạn khởi đầu. Các Kitô hữu đầu tiên đã hiểu điều đó một cách rõ ràng và thánh Phao-lô đã ghi lại một ca khúc xưa: “Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”
Chúng ta hiểu như thế nào?
Ngài đã bỏ mình triệt để. Thiên Chúa là Đấng vô hình, toàn năng hằng hữu, Ngài đã mang lấy thân phận con người. Có thể nói, Ngài đã rơi vào một vực thẳm không thể tưởng được. Chúng ta không thể hiểu được sự bỏ mình thẳm sâu của Ngài. Cuộc đời trần thế của Ngài cũng là một bỏ mình triền miên. “Ngài còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”. (Pl 2,6-8).
Vâng lời chính là từ bỏ ý riêng của mình để “thực thi ý Cha”. “Lương thực của Thầy là làm theo ý của Cha Thầy”.
Cuộc đời của Ngài chỉ có một nội dung: vâng phục.
Hãy nhìn Chúa Giêsu để thấy sự khác biệt giữa chúng ta với Ngài. Ngài đã vâng phục vì yêu mến Chúa Cha. Chúng ta vâng phục Ngài vì yêu mến hay vì một lý do nào khác? Hay chỉ vì không thể làm gì khác?
Theo Ngài là bỏ mình, là yêu Ngài hơn cả chính mình, là yêu đến quên mình. Sự vâng phục chỉ có nghĩa khi vâng phục vì tình yêu. Bỏ mình là yêu mến trọn vẹn. Chúng ta yêu mến Chúa được bao nhiêu phần trăm? Nếu tỷ lệ tình yêu của chúng ta thấp, làm sao bỏ mình? Vì yêu mới có thể bỏ mình. Hai người yêu nhau thực tình và tha thiết mới có can đảm lo cho người mình yêu. Tình yêu của chúng ta với Chúa được bao nhiêu? Sâu đậm đến độ nào? Chúng ta lo cho Chúa những gì? Chúng ta dám bỏ thì giờ, công khó (và nếu cần cả tiền bạc) để lo cho Chúa được yêu thương hơn không?
Điều kiện thứ hai Chúa Giêsu nêu lên là vác thập giá.
Lúc Chúa Giêsu nói đến điều nầy, Ngài chưa chịu tử nạn, Ngài chưa vác thập giá. Khi nói đến vác thập giá Ngài nghĩ gì?
Ngài liên tưởng đến cuộc tử nạn của Ngài mà Ngài vừa nói đến chăng? Hay đây chỉ là một điều các Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào và thánh Mat-thêu đã ghi lại?
Nếu Ngài nói đến vác thập giá có thể hiểu như thế nào?
Có thể hiểu là chấp nhận mọi đau khổ dù nó đến từ đâu; là chấp nhận thân phận yếu đuối của mình, là chấp nhận mọi nhục nhã và cả cái chết đau thương vì Chúa: “ Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.”
Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trên con đường thập giá. Cuộc sống trần gian của Ngài, phải chăng là một cuộc “vác thập giá” liên tục, từ khi mới sinh ra cho đến đỉnh đồi Can-vê?
Con người chỉ muốn sống nhàn hạ, không đau khổ. Chúa Giêsu hướng chúng ta về tương lai, một tương lai duy nhất là hạnh phúc trong Nước Tình Yêu của Chúa Cha. Hạnh phúc vững bền đó chỉ có khi chúng ta dám bỏ đi tất cả thế gian, liều mạng vì yêu mến Ngài, “cho không tất cả.”
Chúng ta dám tin vào Ngài đến nỗi “khóc lóc, hãy như không khóc, vui mừng như không vui, mua sắm như không có gì cả…” (1Cr 7,30-31).
Các thánh đều hiểu điều đó. Các ngài đã tin Chúa vô điều kiện. Các thánh tử đạo là những bằng chứng mạnh mẽ nhất. Các ngài đã dám chịu mọi cực hình và đã trung thành đến cùng.
Còn chúng ta?
Chúng ta đang sống trong một thế giới giàu có, đầy tiện nghi, chúng ta dám “bỏ mình, vác thập giá” như Chúa không?
Chúng ta sống cho thế gian hay sống cho Chúa?
Con đường Chúa đi không có tiện nghi mà chỉ có thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”
Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta vào hạnh phúc của Ngài, chúng ta còn do dự sao?
Ngài không chỉ mời gọi. Ngài đến trên bàn thờ nầy. Ngài đến với chúng ta, tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta đến mức nào.
Ngài hoàn toàn bỏ mình vì chúng ta, đến nỗi trở nên của ăn cho chúng ta, bồi dưỡng nâng đỡ chúng ta, sống trong chúng ta…
Hãy nghe tiếng gọi tha thiết của Ngài và can đảm bước theo Ngài.
Hôm nay, Ngài đến dưới hình thức khiêm nhu, nhỏ bé, nhưng Ngài sẽ đến trong “vinh quang, cùng với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả công cho mỗi người”, những người dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
19. Mất và được
(Trích từ ‘tinmung.net’)
Có câu chuyện kể như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.
Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.
Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
20. Con đường ba (chữ) “phải”
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Có lẽ một số người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện mà Khái Hưng và Nhất Linh, trụ cột trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đầu bán thế kỷ 20 đã kể về đôi vợ chồng nghèo tên Thức và Lạc, Hai người phải đi vớt củi kiếm sống. Chẳng may gặp dòng nước lũ xoáy, cuốn luôn bè chìm. Người chồng cố dìu vợ vào bờ, nhưng rất khó khăn, có nguy cơ chết cả hai. Người vợ chợt nghĩ tới thằng Bò, cái Bé, cái Nhớn đang trông ngóng bố mẹ trở về, nên đã từ từ buông tay ra không bám lấy chồng nữa để chồng có thể đủ sức bơi vào bờ một mình, còn mình thì chìm dần, chìm dần rồi mất hút.
Đầu đề của truyện ngắn này là: “Anh Phải Sống.” Anh phải sống, đồng nghĩa với Em phải chết!
Trong cuộc sống hằng ngày, khi chỉ có một con đường để đi, chỉ có một lối để thoát, chỉ có một giải pháp duy nhất, thì ta vẫn thường dùng chữ phải, chứ không dùng “có thể, có lẽ”. Anh phải đi. Em phải chết. Con phải lấy anh ta. Anh phải yêu em. Không còn con đường nào khác.
Hôm nay trong lúc quan trọng, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu hé mở cho các tông đồ biết con đường mà Chúa Giêsu phải đi, con đường ba chữ PHẢI. Chúa phải chịu đau khổ, phải bị loại bỏ, cuối cùng Ngài sẽ phải bị giết chết.
Trước khi chúng ta tìm hiểu con đường ba chữ PHẢI, tại sao Chúa phải đi con đường đó, chúng ta thử hỏi xem có thể có con đường nào khác không?
1. Có thể có con đường nào khác không?
Tông đồ Phêrô khi nghe Thầy mình loan báo con đường ba chữ phải này, thì kéo Chúa Giêsu ra nói nhỏ: Thầy không thể như thế đâu. Còn lý lẽ của loài người lúc nào cũng muốn gào to lên rằng: Chẳng lẽ không có con đường nào khác nhẹ nhõm hơn, dễ dàng hơn để cứu độ trần gian sao? Nếu để tạo dựng nên vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật, Thiên Chúa chỉ phán một lời là có mọi sự, thì tại sao để cứu chuộc, để hồi phục, Ngài không dùng con đường quyền phép đó: chỉ phán một lời mọi sự đâu vào đó.
Hoặc nếu cần, thì sai phái các thiên sứ Kerubim, Seraphim, hay cao hơn nữa, ra lệnh cho các Tổng lãnh Thiên sứ Micae, Gabriel, Raphael xuống trần gian để cứu chuộc. Vượt lên trên đó, Thiên Chúa đã chọn một con đường cực kỳ diệu là đích thân hoá mình làm người để xuống trần. Vậy là chưa quá đủ sao, mà lại còn phải chận bớt khoảng rộng để đi vào con đường quá hẹp hòi, gai góc là phải chịu đau khổ nhiều, phải bị loại bỏ, phải bị giết. Thiên Chúa quyền phép vô cùng, toàn năng vô song muốn gì được nấy, lại nhân từ vô cùng, sao lại để Con của mình cũng là Thiên Chúa phải đi vào con đường khó hiểu như vậy, con đường chẳng có vẻ nhân từ chút nào, chứ chưa nói là con đường của Đấng nhân từ vô cùng.
Cũng vì vậy mà các Tông đồ vấp phạm vì con đường này, còn Phêrô, thì kéo Đức Giêsu về phía mình, một cử chỉ sỗ sàng song thành thực của một dân chài bộc trực như muốn ân cần săn đón, giữ gìn và giật người bạn, người thầy của mình khỏi hiểm nguy, kèm theo lời nói: Thầy đâu thể như thế được! Nhưng Đức Giêsu đã nổi xung thiên về lời nói đó của Phêrô bằng cách đuổi Phêrô đi cũng bằng một lời như khi đuổi ma quỉ cám dỗ trong sa mạc: Satan, hãy xéo đi!
Vậy con đường Đức Giêsu đi là con đường ba chữ PHẢI, chứ không phải con đường “có thể” để thay đổi, để can gián. Và vì nhất thiết phải đi con đường dẫn tới cái chết do người ta giết, nên ta thử tìm hiểu ý nghĩa con đường Chúa đi đó.
2. Tại sao Chúa phải đi con đường ba chữ “Phải” đó?
Trả lời dễ dàng nhất là chúng ta không trả lời được. Hay nói cách khác: ta không hiểu nổi tại sao Chúa phải đi con đường đó. Chữ PHẢI đây không phải là tất yếu của định mệnh: như nghèo thì phải khổ. Bệnh thì phải đau. Đói thì phải rách. Không học thì phải dốt. Nhưng PHẢI ở đây là điều cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa, ăn khớp với chương trình của Ngài trên nhân loại, mà chương trình và tư tưởng của Ngài thì vượt xa ý nghĩ của con người. Sách Isaia (55, 6-9) ghi: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Cách xa nhau như vậy làm sao ta hiểu nổi kế đồ của Thiên Chúa? Khi la Phêrô là Satan, hỡi Satan hãy xéo đi, thì Chúa cũng nói như vậy: vì ngươi chẳng hiểu biết gì những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ biết những gì thuộc về loài người.
Nhưng mà, chúng ta có Chúa Thánh Thần, có Chúa Phục sinh. Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta, còn Chúa Phục sinh giải thích cho ta như xưa Chúa Phục Sinh đã giải thích cho hai môn đồ trên đường Emmau (Lc 24,25): “Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó chịu chết rồi mới vào nơi vinh hiển sao?” Vậy thì Chúa Phục Sinh đã giải thích và Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho ta hiểu phần nào, tại sao Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết.
Càng dày lịch sử, càng lắm giải thích. Cho đến nay người ta ghi nhận ít là bốn giải thích này để trả lời cho câu hỏi Tại sao. Tại sao Chúa phải đi con đường đau khổ và chết? Mỗi giải thích là một cours thần học, nhưng chúng ta chỉ lấy kết luận thôi.
1) Chân lý được khẳng đình rõ nhất là bằng cái chết. Dùng cái chết để chứng minh, thì lời chứng đó hùng hồn nhất (Các thánh Tử đạo sẵn sàng chết để chứng minh Đạo mình theo là Đạo thật; vợ chàng Trương trầm mình chết để chứng minh mình ở nhà không phản bội chồng; các võ sĩ đạo Nhật sẵn sàng chết vì danh dự để chứng minh sự thật).
2) Chúa đi con đường đó không phải để đau khổ, để chết nhưng để diễn tả tình yêu cho đến cùng, “Không có tình yêu nào lớn hơn là chết vì người mình yêu.” Mà Thiên Chúa là Tình yêu, yêu cho đến cùng! Cha mẹ đau khổ vì con, cha mẹ sẵn sàng chết vì con, không phải vì cha mẹ muốn đau khổ, muốn chết, mà là muốn biểu lộ tình yêu đối với con mình. Thiên Chúa là cha là mẹ.
3) Đức Kitô chết để làm giá chuộc cho chúng ta. Người mang thương tích để anh em được chữa lành. Người đã chết – để anh em được sống (x. 1Pr 2, 23-24). Thánh Phaolô nói: Anh em được chuộc bằng giá rất cao: giá máu Con Chúa. Chứng tỏ loài người chúng ta rất có giá, chứ nếu không, chỉ cần giọt mồ hôi của Con Chúa cũng đủ, đâu cần đổ tới giọt máu cuối cùng!
4) Để lại một mẫu mực cho chúng ta. Nếu Đức Kitô không đau khổ, không chết thì khi con người chúng ta bản tính là hay chết, thân phận là lưu đày đau khổ, chúng ta biết nhìn vào ai, soi vào gương nào để tiến bước khi gặp chết chóc khổ đau.
Cũng chính vì vậy mà trong Bài Tin Mừng hôm nay, sau khi vạch con đường ba chữ phải, Chúa Giêsu thêm: “Ai muốn đi sau tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo.”
Trong kinh Tin Kính chúng ta sắp xướng đây, chúng ta hãy cùng tuyên xưng, Đức Giêsu phải đi con đường thập giá và phải chết thời Phongxiô Philatô. Lời chúng ta tuyên xưng cũng là lời nhắc nhở, khuyến khích, nâng đỡ, an ủi chúng ta khi chúng ta bước theo con đường ba chữ phải của Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 03 MÙA VỌNG (13/12/2025) .: NIỀM VUI THẬP GIÁ (13/12/2025) .: NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG (13/12/2025) .: THẦY CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN? (13/12/2025) .: ĐẤNG PHẢI ĐẾN ĐÃ ĐẾN (13/12/2025) .: VỌNG VÀ HY VỌNG (13/12/2025) .: GIỌNG NÓI CHÚA GIÊSU (13/12/2025) .: HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE (13/12/2025) .: ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ (13/12/2025) .: HÃY VUI LUÔN TRONG CHÚA, ĐẤNG CỨU ĐỘ TA (13/12/2025) .: ĐỨC KITÔ NGÀI LÀ AI? (13/12/2025) .: HÃY VUI LÊN ĐẤNG ĐEM LẠI HẠNH PHÚC ĐANG ĐẾN (13/12/2025) .: VUI MỪNG VÀ KIÊN NHẪN (13/12/2025) .: MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG (13/12/2025) .: CÒN PHẢI ĐỢI AI? (13/12/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam