Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 76
Tổng truy cập: 1499297
TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN VỚI BẤT CỨ AI GẶP NẠN
THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU, TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN VỚI BẤT CỨ AI GẶP NẠN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một giới luật yêu thương
Đức Giêsu đã lên đường đi Giêrusalem, nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em mình. Lúc đó có môt người thông luật đặt câu hỏi này để thử Người: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? ". Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: "Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? ". Giống như một cậu học sinh trả lời cho "người mà ông ta muốn thử tầm hiểu biết và tính chính thống về đạo lý, vị thông luật bắt đầu trích dẫn lệnh truyền của sách Đệ Nhị Luật 6,4, mà mọi người Do Thái đạo đức đọc mỗi ngày hai lần trong kinh Shema: "ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi". Và ông liền đọc tiếp Luật của sách Lêvi 19,l8: "Và người thân cận như chính mình ". Trích dẫn câu Kinh Thánh ấy hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Người vừa "khen ngợi câu trả lời, lại vừa khuyên nhủ vị thông luật hãy thực thi giới luật yêu thương theo hai chiều kích ấy. "Làm" như vậy sẽ cho phép ông nhận được "sự sống đời đời " làm gia nghiệp, điều ông đã thắc mắc qua câu hỏi ban đầu.
2. Để đem ra thực hành
" Cuộc đối thoại ngay sau đó được chuyển sang một câu hỏi mới của vị thông luật, "muốn chứng tỏ mình là người công chính ": "Những ai là người thân cận của tôi? ". Ta càng hiểu rõ hơn tại sao có câu hỏi đó, nếu ta biết rằng có một vài khoản trong Lề Luật tương phản với nhau; trong một vài trường hợp - như phần tiếp theo của bản văn Tin Mừng sẽ cho thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu người thân cận xem ra loại trừ nhau.
Đức Giêsu tránh trả lời trực tiếp, để khỏi sa vào cái "mớ bòng bong " của khoa giải các nố luật. Người nêu ra cho nhà thông luật ấy một dụ ngôn... mở ra cho giới luật yêu thương tha nhân một lãnh vực không giới hạn.
Sự kiện xảy ra trên quãng đường dốc rất thuận lợi cho đạo tặc phục kích; con đường sa mạc (dài 25 cây số) từ Giêrusalem đến Giêricô là nơi thấp hơn kinh đô đến 1090 mét.
Ngoài tên đạo tặc và người chủ quán, ba nhân vật hết sức điển hình là một "thầy tư tế’, rồi một "thầy Lêvi ". Cả hai là khách qua đường, sau cùng là "người Samaria ". Cả ba người đều bất ngờ gặp "người bị kẻ cướp trấn lột đánh nhừ tử, rồi bỏ lại nửa sống nữa chết ở bên đường"; ta không biết thân thế trong đạo ngoài đời của người đó ra sao. Lối hành văn theo một khuôn mẫu định sẵn của dụ ngôn càng làm nổi bật nét giống nhau và khác nhau trong cách xử sự của các nhân vật.
- Người đầu tiên đi trên đường này là một "thầy tư tế”, người của phụng tự, người của Đền Thờ. Ông trông thấy kẻ bị thương, nhưng ông cũng nhớ đến lệnh cấm trong sách Dân Số 19, 11 - 13, 16: "Ai chạm vào xác chết... vào một người bị ám sát…một người chết, sẽ mắc dơ trong cả ngày, ông quên mất lời Chúa trong sách ngôn sứ Ôsê 6,6: " Ta muốn lòng nhân từ chứ.không muốn hy lễ ". Ông "tránh qua bên kia mà đi ".
- Sau đó tình cờ có thầy Lêvi, một nhân vật tượng trưng cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, ông "cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi ", chắc hẳn cũng vì những lý do vừa nói.
- Sau cùng, "một người Samaria đi đường " cũng tới chỗ ấy H. Cousin nêu rõ: "Người này là một người lạc giáo, chỉ cộng nhận bộ Luật viết, là Ngũ Kinh, mà phi bác Luật truyền khẩu. Dưới con mắt của vị thông luật, hẳn đó là người hoàn toàn đối chọi với hai vị tôi tớ đáng kính của Đền Thờ." ("L'evangile de Luc", Centurion, tr. 158).
"Vậy trong khi hai vị kia tránh xa người mà họ coi như một xác chết, và có thể khiến họ thành ra dơ, thì người Samaria "chạnh lòng thương " - giống như chính Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của bà goá Naim ở 7,13 – khi thấy bà đau khổ. Trong khi hai vị giáo sĩ kia, vì tôn trọng luật về thanh tẩy đã tách rời lòng mến Thiên Chúa với lòng yêu tha nhân, và... đã tránh qua bên kia đường, thì người Samaria lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc ". Bằng hành động, ông đã chứng tỏ, ông hiểu rõ ý Thiên Chúa mà ngôn sứ Ôsê đã diễn tả, hơn những vị đại diện Do Thái giáo chính thống kia nhiều.
R. Meynet còn lưu ý thêm: "Không ai là người ngoại" trong số ba ứng viên cứu nạn kia, nhưng cả ba đều có đạo và tuân giữ luật. Nhưng thầy tư tế, và thầy Lêvi đứng về phía quân cướp...; vì cũng như bọn đó, các ông bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết, các ông còn mang tội không cứu giúp người bị nạn. Còn người Samaria, là quân lạc đạo bị người Do Thái khinh miệt và khai trừ, thì lại yêu người bị thương như chính mình: ông hy sinh bản thân, hy sinh vật cỡi, hy sinh tiền bạc " ("L'Evangile de Luc. ánalyse rhétorique", cuốn 2, trg 126).
3. Trở nên người thân cận với bất cứ ai gặp nạn.
Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đổi ngược lại câu hỏi, mà vị thông luật đã đặt ra hồi nảy: "Vậy ai là người thân cận của tôi?". Đức Giêsu hỏi lại ông ta: "Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? "
Không do dự, vị tiến sĩ luật đáp rất chính xác: " Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy ". Như vậy, theo ông, không cần biết ai là người thân cận của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách nào để trở nên người thân cận, người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ. H. Cousin giải thích: "Hỏi ai là người thân cận của mình, vị thông luật tự đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề. Người thân cận là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng xót thương".
- Đến lúc này, Đức Giêsu chỉ cần kêu mời người đối thoại, hãy chứng tỏ tình thương huynh đệ nhưng-không, vô vị lợi, thực tế, giống như người Samaria lạc đạo " ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy! "
Chúa nhật XIII, chúng ta đã theo chân Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Hôm nay, chúng ta hiểu rằng con đường lên Giêrusalem phải qua tình thương huynh đệ, là luật vượt trên mọi luật.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Hãy là người thân cận của mọi người.
Mọi người đều biết dụ ngôn người Samaria cho ta chứng kiến một sự đảo ngược. Câu hỏi được đặt ra lúc đầu là: "Ai là người thân cận của tôi? " Cuối cùng lại trở thành "Ai đã là người thân cân với kẻ bị rơi vào tay bọn cướp? ".
Sự đảo ngược này mang đầy ý nghĩa và nhiều đòi buộc mới mẻ. Thật vậy, chỉ định trước ai, là đối tượng của lòng xót thương nơi ta, thiết tưởng là thuận tiện hơn đấy. Hãy để ý xem sinh tử sở hữu: "của tôi " (thân cận của tôi) được đặt ở chỗ nào. Người ta đã chỉ trích khá nhiều công việc từ thiện của một vài mệnh phụ, chuyên làm việc từ thiện, các bà ấy có khách hàng của các bà (xin tạm gọi vậy). Người thân cận không phải' một khách hàng, cũng không phải cơ hội để ta thực hành nhân đức. Người thân cận là người cải hoá ta, người bắt ta trở về với mình để kiến tạo ta nên một người thực sự gần gũi.
Trở nên gần gũi không dễ dàng đâu. Cần phải có trái tim, nếu không sẽ trở thành giả tạo. Cũng cần phải có sự sáng suốt và nhất là sự tế nhị cao độ đến nỗi có thể cho đó là một chút nhẹ dạ. Điều đẹp đẽ nhất trong cử chỉ của người Samaria là tính vô-vị-lợi của ông; ông không màng tới một lời cám ơn.
Có những người khiến người khác phải mang nặng quyền lực của họ. Nhưng kẻ đặt trên vai người khác gánh nặng bác ái từ thiện của họ, thiết tưởng còn trầm trọng hơn. Chỉ có bác thật sự khi nó giải thoát, khi nó khiến tôi trở nên người gần gũi, nên người anh em vì vốn chẳng ai mắc nợ ai điều gì. Hoàn toàn nhưng không.
2. Được mời gọi “hãy làm như vậy”, cùng với vị thông luật.
Sao lại trách cứ vị tư tế thánh thiện và vị "phó tế" nhiệt thành này? Họ là những người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bởi vì "ai chạm vào xác chết (...), hoặc một người bị ám sát, một người chết (....) sẽ mắc dơ trong 7 ngày " (Ds 19, 11-13. 16)... Trong trường hợp đó vị tư tế hoặc thầy Lêvi không được làm việc phượng tự.
Những người giữ luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng tôn kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Người. Thiên Chúa ở đó kìa, Người ẩn mình dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường.
Đấy không phải lúc tra ván xem nạn nhân thuộc tôn giáo nào, quốc tịch nào, chủng tộc hoặc ngôn ngữ nào, cũng không phải là lúc nhút nhát ẩn mình sau tấm bình phong truyền thống để được an toàn. Việc đạo đức và lòng sùng kính chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời phải nhường chỗ cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái bày tỏ ra trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể tình yêu chân thành của ta đối với Chúa.
Kết cục có hậu, cái bẫy đã không hoạt động và viên tiến sĩ luật đã hiểu ra bài học thực hành. Ông ấy, và sau ông, cả chúng ta nữa, đều được mời gọi hãy làm như vậy. Không phải Lề Luật có thể cứu độ, cũng không phải các nghi thức và việc tuân hành luật, nhưng chính là việc hoán cải tâm hồn và Tình Yêu được phục vụ trước hết.
Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu, không cần tìm xem ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào để "trở nên người thân cận của ai đó? ", là biết "chạnh lòng thương" biết gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo.
Khi cử hành tiệc Thánh Thể, ta đã nhận biết và tiếp đón Chúa (Lời Chúa và Bánh), thì khi ra về, hãy cố gắng đừng giả bộ không nhận ra hoặc lẩn tránh Chúa khi ta gặp Người bên vệ đường.
58.Ai là người thân cận của tôi?
(Suy niệm của Lm. Vũ Phan Long)
Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi.
1. NGỮ CẢNH
Đức Giêsu vừa mới đặt đối lập các môn đệ như là “những người bé mọn” với “các bậc khôn ngoan thông thái” (10,21); Người tuyên bố rằng các môn đệ có phúc vì được thấy được nghe nhiều điều mà các ngôn sứ và vua chúa không được (10,23-24). Nay tác giả Lc tiếp tục phần tường thuật hành trình lên Giêrusalem bằng cách giới thiệu một trong các vị thông thái để ông này hỏi Đức Giêsu và trắc nghiệm giáo huấn của Người (10,25-28). Mối phúc được công bố trên các môn đệ nay được nối tiếp bằng một đoạn văn mang tính khuyến thiện nói về sự sống đời đời và tình yêu đối với Thiên Chúa và người thân cận. Sau đó, do vị thông luật còn cật vấn, Đức Giêsu đã kể Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37) để minh hoạ đòi hỏi của tình yêu.
2. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần chính:
1) Điều kiện để được sống đời đời (10,25-28):- Người thông luật đặt câu hỏi (c. 25),
- Đức Giêsu trả lời bằng câu hỏi (c.26),
- Người thông luật trả lời bằng cách trích Kinh Thánh (c. 27),
- Đức Giêsu xác nhận (c. 28);
2) Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37):
- Người thông luật cật vấn (c. 29),
- Đức Giêsu kể dụ ngôn để đưa tới câu hỏi (cc. 30-36),
- Người thông luật trả lời (c. 37a),
- Đức Giêsu xác nhận (c. 37b).
3. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Thử (25): Động từ ekpeirazein, “test”, để diễn tả một thái độ thù nghịch. Chính câu hỏi về người thân cận mới là cái bẫy giăng ra cho Đức Giêsu.
- Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi (27): Trước tiên, vị thông luật trích Đnl 6,5 theo bản LXX. Đây là phần mở đầu của kinh Shema, tức là lời tuyên xưng đức tin mà người Do Thái đọc mỗi ngày hai lần.
Các phương diện của con người được nói đến ở đây phải được hiểu theo nghĩa Cựu Ước: kardia, “tim, lòng”, là những phản ứng cảm xúc nhanh nhạy của con người; psychê, “linh hồn”, là sinh lực và khả năng nhận thức; ischys, “sức lực”, là chiều hướng bản năng, và dianoia, “trí khôn”, là khả năng trí tuệ và lên kế hoạch. Tổng hợp lại, các phương diện này muốn diễn tả toàn thể con người.
- yêu mến người thân cận như chính mình (27): Câu đáp thứ hai này trích Lv 19,18b (vẫn theo bản LXX), nhưng nối với câu trước như một đơn vị duy nhất. Không có chỗ nào trong Cựu Ước liên kết hai điều này với nhau cả. Chính Đức Giêsu đã xác nhận cách làm này, và như thế Người đã đơn giản hoá mà cũng là đào sâu 613 qui định của Lề Luật.
Trong sách Lêvi, “người thân cận” ở thế song đối với “những con cái của dân ngươi”, nghĩa là người Ít-ra-en. Ở Lv 19,34, tình yêu có mở rộng đến cả “ngoại kiều” (gêr) trong xứ (x. Đnl 19,10), nhưng không mở ra với những người khác, chẳng hạn các gôyým, “các dân [ngoại]”.
- Cứ làm như vậy là sẽ được sống (28): nghĩa là được sống đời đời. Chỉ người nào đưa điều răn yêu thương ra thực hành thì mới đạt được sự sống. Động từ zêsê (“anh sẽ được sống”) rất có thể gợi đến Lv 18,5 là câu có lời hứa ban sự sống cho ai vâng phục các quy tắc và quyết định của Đức Chúa. Như thế, những lời Đức Giêsu nói đã thêm vào một lời khuyên cho lệnh truyền của Lề Luật vì lệnh truyền này vẫn còn có tính lý thuyết. Và đây chính là bài giáo lý tác giả Lc nhắm gửi đến cho độc giả Kitô hữu.
- từ Giêrusalem xuống Giêrikhô (30): Theo sử gia Gioxép (J.W. 4.8,3 § 474), còn đường này dài khoảng 150 stadia (khoảng mười tám dặm, một dặm [stadion] dài khoảng 185m) đi qua vùng “sa mạc và lởm chởm đá”. Giêrikhô, “thành phố chà là” (2 Sb 28,15), nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoặc các sĩ quan, binh lính Rôma. Thành này không phải là Giêrikhô thời Cựu Ước (= Tell es-Sultan), mà là thành được Hêrôđê Cả thiết lập khoảng một dặm rưỡi về phía nam trên bờ tây của cánh đồng Giođan.
- một thầy tư tế (31): Rất có thể thầy đã xong thời gian phục dịch tại Đền Thờ Giêrusalem, nay đang đi về nhà. Truyền thống kinh sư sau này cho biết Giêrikhô là nơi có một số tư tế cư ngụ.
- một thầy Lêvi (32): Tên này lúc đầu chỉ một thành viên của chi họ Lêvi, tức một con cháu của người con thứ ba của Giacóp (St 29,34). Trong Cựu Ước, danh hiệu “thầy Lêvi” thường được dùng để gọi những người không thuộc dòng dõi Aharon, nhưng được giao cho làm những việc lặt vặt liên hệ đến việc phụng tự và các nghi thức ở Đền Thờ.
- người Samari (33; x. 9,52): tức dân cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào khoảng năm 870 tr CHÚA GIÊSU. Sau này, tên gọi “người Samari” (hl. Samaritês) trở thành một tên gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và người Do Thái được giải thích khác nhau tuỳ mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa người Do Thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722 tr CHÚA GIÊSU và đưa những người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đả phá những người Do Thái hồi hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây một đền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy-lạp (đền này đã bị phá huỷ dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tr CHÚA GIÊSU).
- chạnh lòng thương (33): Động từ splanchnizesthai có nghĩa là “đau lòng, lòng quặn thắt”.
4. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Điều kiện để được sống đời đời (25-28)
Chuyện xảy ra khi một vị thông luật hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Ông quan tâm đến sự sống đời đời. Ông xác tín rằng ông phải làm điều gì đó để có sự sống này, chứ sự sống đời đời không từ trời rơi xuống. Câu hỏi này đi xa hơn những mối bận tâm và lợi lộc hằng ngày. Câu hỏi này giả thiết là mọi sự không chấm dứt với cái chết, nhưng có một sự sống đời đời, không hề mai một, một sự sống vượt thắng cái chết. Với mối bận tâm có ý thức và với tinh thần trách nhiệm, vị thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì để cuộc sống bên kia cái chết không trở thành cho tôi một hoàn cảnh bị phạt, nhưng là một sự sống vĩnh cửu đầy niềm vui?”.
Giống như Đức Giêsu, vị thông luật cũng đi từ tiền giả định là có một sự sống đời đời. Ông hoàn toàn đồng ý là để đạt được sự sống ấy, dứt khoát phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận trong cuộc sống hiện tại. Đức Giêsu đã đánh giá là ông trả lời đúng và đề nghị cứ làm như thế.
* Dụ ngôn người Samari nhân hậu (29-37)
Cảm thấy bị nhục vì phải tự tìm câu trả lời, vị thông luật chuyển sang bình diện suy lý: “Ai là người thân cận của tôi? Ai thuộc về khối những người mà tôi phải yêu thương như chính mình tôi?”. Dường như ông xác tín rằng phải có những giới hạn trong số những người mà ông phải yêu thương. Đối với người Do Thái, chỉ người đồng hương mới được coi như là người thân cận, và người ta mới phải yêu thương và giúp đỡ. Vẫn tỏ ra mình làm chủ cuộc tranh luận, Đức Giêsu coi câu hỏi của vị thông luật là quan trọng, và vì nhắm phục vụ công cuộc cứu độ các linh hồn, Người trả lời bằng dụ ngôn “Người Samari nhân hậu”.
Con đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô băng qua sa mạc. Cho đến cuối thế kỷ XX, đây là một con đường không an toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô danh, không rõ địa vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là một tình cảnh hết sức quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy cần được giúp đỡ, và ai giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm đó dở sống dở chết, nhưng đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm đến sự an toàn và sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn. Lối xử sự của người Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người đang nằm trên đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương, ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu, rượu, con lừa, bạc).
Đức Giêsu đã cố tình chọn một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hề có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về đức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân chính.
Đức Giêsu cho thấy rằng trong vấn đề yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời. Vị thông luật hỏi: “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”. Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: “Ai đã tỏ ra là [ai đã trở thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu hoàn toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (c. 25).
+ Kết luận
Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó, đời sống ta mới trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ Đức Giêsu đã đưa được ông về bình diện những thực tại sống động và đặt ông trước một chọn lựa: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).
5. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Có một thái độ ngược lại với thái độ của vị thông luật: “Tôi chẳng hề quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế nào. Tôi đang có khá nhiều chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không muốn nặng lòng với những mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta không biết được gì chắc chắn. Tôi tìm cách thoả mãn các nỗi niềm chờ mong của tôi trong đời sống hiện tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời có thể có”. Một thái độ như thế đã bị Đức Giêsu đánh giá là “ngu” (Lc 12,13-21). Người ta không thể giải quyết một câu hỏi bằng cách nhắm mắt lại và không muốn chấp nhận nó. Người ta tránh trả lời một cách có trách nhiệm câu hỏi về sự sống đời đời, bằng cách nói rằng người ta không muốn dính dáng gì đến nó. Ngược lại đối với Đức Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định. Bởi vì nếu không có sự sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc người ta xử sự thế nào trên con đường đưa tới Giêrikhô cũng chẳng quan trọng gì. Chẳng bao lâu người ta sẽ quên đi mọi sự. Sẽ chẳng có ai cật vấn tôi và tôi sẽ chẳng phải trả lẽ với ai cả. Nhưng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa không phải là chuyện xa lạ với thế giới; trách nhiệm này đưa tới trung tâm của đời sống hiện tại của chúng ta và qui định hình thức của đời sống này. Nó qui định điều gì là đúng và điều gì là sai trên đường đưa tới Giêrikhô. Không có trách nhiệm này, chỉ còn một vấn đề duy nhất là làm thế nào sống càng lâu càng tốt và sống càng thoải mái càng tốt.
2. Ta không thể nói: “Người thân cận của tôi có thể còn là người bà con đời thứ ba; người cư ngụ cùng đường phố với tôi; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với tôi; người có thiện cảm với tôi, v.v.”. Đức Giêsu không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu thương đối với người khác. Tôi không được suy nghĩ khởi đi từ chính bản thân: “Tôi còn buộc phải làm cho ai điều gì? Tôi [còn] phải giúp đỡ ai? Kể từ điểm đó, chuyện ấy không còn dính dáng đến tôi nữa?”. Không phải là bậc họ hàng hoặc mối thiện cảm sẽ qui định ai là người thân cận của tôi, nhưng là tình trạng cần được giúp đỡ thực sự trong đó người kia đang lâm vào. Bất cứ ai xuất hiện trên đường tôi đi, mà đang ở trong tình trạng quẫn bách, đều là người thân cận mà tôi phải yêu thương và giúp đỡ.
3. Muốn thực sự giúp đỡ người lâm nạn, người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên tĩnh cũng như chương trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình nữa. Nhưng đấy chính là thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến sự sống đời đời. Như thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra được rằng ai đang thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay trên đường đời, vẫn còn có vô số “kẻ cướp”, nên sẽ còn vô số người rơi vào tay “kẻ cướp”, nằm trên đường ta đi, và chờ đợi ta trợ giúp.
4. Câu hỏi về sự sống đời đời đưa thẳng vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về lộ trình chúng ta theo hằng ngày, sao cho lộ trình này trở thành hành trình đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Muốn thế, cần biết không vội vàng lo cho bản thân và lo cho những dự phóng riêng tư, nhưng biết dừng lại để mau mắn giúp đỡ những ai ở bên vệ đường đang cần được cứu giúp.
5. Đức mến phải phát xuất từ lòng của từng con người, phải thiết thực và hữu hiệu. Người Samari đã dừng lại, băng bó vết thương, thanh toán mọi chi phí cho chủ quán. Ông không cần tìm hiểu xem đây phải chăng là một người Do Thái, tức một kẻ thù không đội trời chung. Ông chỉ cần biết đây là một người đáng thương cần được cứu giúp, và ông đã cứu giúp.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN (12/07/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN (12/07/2025) .: MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN (12/07/2025) .: BIÊN GIỚI (12/07/2025) .: ƠN TA ĐỦ CHO CON (12/07/2025) .: LỀ LUẬT VÀ BÁC ÁI (12/07/2025) .: ÔNG HÃY ĐI! VÀ CŨNG HÃY LÀM NHƯ VẬY (12/07/2025) .: HÃY CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT (12/07/2025) .: LỀ LUẬT CỦA ĐỨC KITÔ (12/07/2025) .: BỆNH VÔ CẢM (12/07/2025) .: AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI hay TÔI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA AI? (12/07/2025) .: YÊU NGƯỜI (12/07/2025) .: ÔNG HOÀNG HẠNH PHÚC (12/07/2025) .: PHỤC VỤ NÂNG CAO GIÁ TRỊ CON NGƯỜI (12/07/2025) .: AI LÀ NGƯỜI ANH EM CỦA TÔI (12/07/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam