Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 76

Tổng truy cập: 1499297

BIÊN GIỚI

BIÊN GIỚI

 

Về bác ái yêu thương, chúng ta đã nghe hoặc nói nhiều rồi, nhưng chắc chắn không bao giờ nói đủ, nói hết hay nghe đủ, nghe hết, mà còn phải nói nhiều và nghe nhiều nữa. Nhưng nghe nói hay hiểu biết luật yêu thương thôi thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động yêu thương thật sự. Bởi vì, nếu Kinh Thánh nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”, thì chúng ta có thể nói: tình thương không có việc làm là tình thương dỏm, tình thương đầu môi chót lưỡi, tình thương nước bọt, tình thương chết.

Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng khẳng định rõ ràng về yêu cầu đó. Chúa công nhận và khen người thông luật đã trả lời rất đúng luật và rất thuộc luật yêu thương. Nhưng còn thi hành thì sao? Có lẽ ông cũng đã thi hành, nhưng chưa thi hành đúng hoặc chưa thi hành đầy đủ khi ông hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?”. Chúa không trả lời mà đưa ra một câu chuyện để giải thích.

Qua câu chuyện này, chúng ta đều biết ai là người thân cận của người bị nạn. Đúng, người Samari chứ không phải hai người tư tế và Lêvi, vì người Samari đã biết thể hiện tình thương. Trong khi trên thực tế, hai người tư tế và Lêvi thật sự là người thân cận của người bị nạn, vì cùng là người Do thái, đồng hương, đồng chủng, đồng đạo với người bị nạn, nhưng vì không biết thể hiện tình thương nên không còn là người anh em hay thân cận gì nữa. Trái lại, người Samari có một mối thù truyền kiếp, không đội trời chung với người Do thái, đáng lý ra ông ta phải tránh né nạn nhân, vì không có liên hệ ràng buộc nào, không cùng chủng tộc, không cùng tôn giáo, không cùng nghề nghiệp, xứ sở. Nhưng ông ta đã trở nên anh em, trở nên người thân cận của nạn nhân chỉ vì tình thương. Tình thương xoá bỏ mọi hàng rào ngăn cách. Trước mắt ông, đó là một người cần tình thương để sống và ông đã ra tay cứu giúp.

Như vậy, giới luật yêu thương không những đòi hỏi việc làm cụ thể mà còn đòi hỏi phải thể hiện đối với mọi hạng người: bất cứ ai, bất kể quốc tịch, huyết thống, đảng phái, màu da, cho dù là kẻ thù, mà gặp khó khăn, đều kêu gọi chúng ta giúp đỡ, tỏ tình thương. Nói khác đi, luật yêu thương đòi hỏi bật tung hết mọi thứ ranh giới đã bóp nghẹt nghĩa cử yêu thương, bất cứ hình thức nào cũng phải bật tung hết, để tất cả mọi người đều đối xử với nhau trên một căn bản chung duy nhất là con người mà thôi.

Chúng ta thường có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: tốt và xấu, bạn và thù. Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán hận sâu sắc. Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc phân biệt đó: những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng: là anh em của nhau.

Là con cái Chúa, chúng ta phải có cái nhìn đó, chúng ta phải thể hiện tình yêu thương đối với bất cứ ai đang cần được chúng ta giúp đỡ. Họ là anh em của chúng ta, họ là người thân cận của chúng ta. Có người ở ngay sát nhà chúng ta nhưng họ không cần được giúp đỡ, đó chưa phải là người thân cận. Trái lại, có một người đâu đâu xa lạ mà họ cần sự giúp đỡ của chúng ta, và chúng ta có khả năng giúp đỡ, họ chính là người thân cận của chúng ta.

Cách đây ít lâu có người đã đặt vấn đề như sau: những người lái xe trên đường sẽ mau mắn dừng lại để giúp đỡ hạng phụ nữ nào đang gặp khó khăn dọc đường: một phụ nữ mang bầu hay một bà cụ già gầy yếu? Một cô hippy choai choai, một chị phụ nữ đứng đắn hay một cô gái ăn mặc hở hang? Câu hỏi này đã được một tạp chí giải đáp bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm trên con đường số 1 thuộc tiểu bang Florida của Mỹ, với sự cộng tác của cô Sally Mullins, một kịch sĩ 22 tuổi. Cô Sally lần lượt hoá trang thành 5 vai phụ nữ khác nhau bị hư xe dọc đường và đang chờ đợi sự giúp đỡ của người đi đường. Kết quả của cuộc thử nghiệm như sau:

Đầu tiên với bộ y phục màu đen trang nhã, mang dáng dấp của một nữ viên chức nhà nước, cô đứng bên cạnh chiếc xe hơi với cốp xe đã được nhấc lên, dấu hiệu xe cộ đang bị hư. Cô đợi đúng một phút rưỡi thì chiếc xe hơi thứ 12 đã dừng lại và sẵn sàng giúp đỡ cô. Người lái xe là một thanh niên khoảng 30 tuổi.

Kế đến, với kiểu hoá trang thành một phụ nữ mang bầu, cô Sally đứng bên cạnh xe và lần này cô phải chờ đến hai phút rưỡi và phải chờ tới chiếc xe thứ 50 mới dừng lại. Chủ xe là một cặp vợ chồng.

Tiếp đến, trong vai một bà cụ gầy yếu, cô Sally phải chờ đến năm phút và phải chờ tới chiếc xe thứ 100, đó là xe của một đôi nam nữ sinh viên dừng lại hỏi thăm và sẵn sàng giúp đỡ.

Sau đó, trong y phục của một cô gái hippy choai choai, quần din bó sát và áo chim cò, thì kết quả thật là tồi tệ: không một ai chịu dừng xe lại giúp cô.

Cuối cùng, khi nữ diễn viên khoác trên người một chiếc áo mi ni bó sát người, cô chỉ vừa bước ra khỏi xe và chưa kịp mở cốp xe lên như những lần trước, thì đã có một thanh niên hào hoa dừng xe lại phía sau và xin được giúp đỡ. Bài báo trên kết luận bằng câu hỏi: nếu bạn gặp một hoàn cảnh tương tự, bạn sẽ tình nguyện giúp hạng người nào trong số năm loại phụ nữ nói trên để xứng đáng là một môn đệ của Chúa?

Hôm nay chúng ta cũng rất nên đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi”. Chúng ta cần tìm cho được ai là người Chúa muốn chúng ta giúp đỡ? Chúng ta cần soi mình vào tấm gương lời Chúa hôm nay xem chúng ta đã thể hiện đức ái phổ quát được tới đâu? Hay ngược lại, chúng ta đã vô tình hoặc cố ý dựng thêm những hàng rào bất công và vô lý để khép kín chính mình hay án ngữ người khác thể hiện tình yêu thương chăng?

 

74.Chúa Nhật 15 Thường Niên

(Suy niệm của Jaime L. Waters - Nhóm Sao Biển chuyển ngữ từ  America Magazine)

CHÚNG TA LÀ AI TRONG CÂU CHUYỆN NGƯỜI SAMARI TỐT LÀNH?

Trong bài Tin mừng Chúa nhật 15 Thường niên, chúng ta được nghe dụ ngôn người Samari tốt lành. Trình thuật phong phú này thúc đẩy chúng ta suy gẫm về cách thức đối xử với nhau. Khi kể câu chuyện, Chúa Giêsu nhấn mạnh sự cần thiết của việc quan tâm đến tất cả mọi người, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương. Câu chuyện là một lời nhắc nhở hãy nên giống Thiên Chúa bằng cách bày tỏ lòng thương xót và trắc ẩn, cũng như nhắc lại sứ điệp Tin mừng về lòng mến liên kết mật thiết với hành động. Giống như sứ vụ của Chúa Giêsu tập trung vào việc chăm sóc và chữa lành, người Samari nhân hậu đã thể hiện lòng thương xót bằng cách chăm sóc một người đang gặp hoạn nạn.

 “Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu” (Lc 10, 34)

Ý hướng của câu chuyện đã rõ ràng, nhưng dụ ngôn này cung cấp thêm những cách thức khác để suy gẫm. Hãy xem xét tất cả các nhân vật trong câu chuyện. Một người vô danh bị ‘đánh nhừ tử’ và bỏ mặc ‘nửa sống nửa chết’. Một nhóm cướp xâm phạm quyền được sống của một con người, gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản và tâm lý. Có ba người đã gặp người đang trong cảnh hoạn nạn cùng cực. Hai nhà lãnh đạo tôn giáo không giúp đỡ, không tỏ ra thương xót nạn nhân và tiếp tục hành trình. Một người ngoài cộng đoàn bước vào và đề nghị hỗ trợ, nhờ chủ nhà trọ chăm sóc để nạn nhân hồi phục.

Các dụ ngôn của Chúa Giêsu mời gọi người nghe suy nghĩ về hành động của họ và so sánh chính họ với các nhân vật hoặc yếu tố trong câu chuyện để suy ngẫm và thăng tiến đời sống thiêng liêng rồi biến thành hành động trong thế giới. Mục tiêu là cố gắng trở nên giống như người Samari, tự nguyện giúp đỡ bất cứ ai đang cần, nhưng có lẽ điều đáng để chúng ta suy nghĩ là khi chúng ta có nhiều điểm chung với những kẻ gây tội ác hoặc người phải đau khổ vì tội ác đó.

Bọn cướp làm nhục, lột sạch, đánh đập và lấy hết mọi thứ của nạn nhân. Họ lấy đi những gì không phải của mình và xâm phạm nạn nhân vì lợi ích cá nhân. Có rất nhiều điểm tương đồng có thể được rút ra trong bối cảnh hiện nay của chúng ta về cách thức mà con người, công ty và quốc gia đã và đang kiếm lợi từ việc bóc lột người khác. Trong khi dụ ngôn tập trung vào cách thức phản ứng trước những gì vi phạm, chúng ta cũng phải lên tiếng và lên án những kẻ vi phạm và hành động để ngăn chặn đau khổ xảy ra.

Chúng ta cũng nên xem xét đầy đủ hơn những thiệt hại đã xảy ra làm con người đau khổ. Những nhóm dân dễ bị tổn thương và bị gạt ra bên lề cũng như các cộng đoàn thiếu khả năng tiếp cận nguồn lực tài chính và sự quan tâm của chính quyền thường là những người chịu nhiều thiệt hại nhất. Cũng giống như người Samari, chúng ta cần hành động bằng cách tích cực tỏ bày lòng thương xót qua việc phục vụ, bài Tin mừng hôm nay có thể truyền cảm hứng cho chúng ta để hỗ trợ và trao quyền cho các cộng đoàn còn đang gặp  khốn khó như một cách thức khác để sống sự quan tâm và thương xót đối với tha nhân.

 

75.Yêu thương

Tôi xin hỏi các bạn: “Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay là không muốn một ai yêu thương tôi cả?” Chắc chắn là không có ai dám khẳng định như vậy cả. Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại nơi từng con người, nhưng vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là: tôi yêu ai? Yêu với một thái độ như thế nào? Và tôi yêu để làm gì? Những câu hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm riêng của mỗi người.

Hôm nay, qua trang Tin Mừng thánh Luca tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một quan niệm mới về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời sống người Kitô hữu và được đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta: Mến Chúa và Yêu Người. Chúa Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối tương quan của người Kitô hữu với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nơi người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau để người Kitô hữu ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến Chúa và yêu thương anh em cũng đã viết: “Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu anh em mình là kẻ nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy”.

Cũng như người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha nhân thì rất nhiều xét trên mối tương quan, qua mỗi quan điểm… từ đó anh ta bối rối khi xác định cho mình người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi cũng vậy.

Qua dụ ngôn người Samaria tốt lành, Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân cận, nhưng Ngài đã giúp ta nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó không chỉ là những người thân quen “cùng hội cùng thuyền”, cũng không chỉ là những người cùng tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng là những người đang gặp khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể nói khi đến gần ai – không có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến người đó thành thân cận của chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho tình yêu đối với tha nhân không?

Người Việt chúng ta có câu: “Thương người như thể thương thân”. Hay như một nhạc phẩm đã diễn tả: “Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu”. Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa Giêsu: yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không lý lẽ và không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không ngần ngại đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao điều phiền toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí có thể bị thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính toán: khi dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không ngần ngại nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc những đồng tiền để lo cho người bị nạn.

Yêu tha nhân như chính mình, sứ điệp Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi cái tôi của mình, phục vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn chính bản thân mình, để người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.

Chuyện người Samaria tốt lành ngày xưa có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày hôm nay nữa không? Thưa nó vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông luật, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy để được sự sống đời đời”. Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày là chứng từ sống động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút người khác đến với Thiên Chúa.

Cha sở giáo xứ Taejou (Nam Hàn) – cha Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới chết ở ngoài chợ, các bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền mua hòm để lo hậu sự cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem ông ta đến nhà thờ để cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức thánh lễ và đưa ông ta đi chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham dự. Mấy ngày sau, cha xứ có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số thì có hai ông lão đến gặp và nói: “Sự bác ái và kính trọng của người Công giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội Công giáo đã làm cách nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng tôi muốn xin trở lại đạo”. Và cha Cluny kết luận: “Thật tuyệt diệu! Các bạn trẻ trong xứ đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt của người ngoại giáo và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo”.

Ngày nay, một xã hội đang có nhiều con người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống chết không ra chết, luôn là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của các bạn đang có, tình yêu của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.

“Hãy đi và làm như vậy”. Sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi ngày một việc làm cụ thể trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho dù một cữ chỉ nhỏ của chúng ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương cho thế giới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 16 vừa qua rằng: “Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ ba”. Chúng ta hãy cùng trở nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là một; tình yêu tha nhân bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ người ngoại bang hay kẻ thù.

 

home Mục lục Lưu trữ