Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 58

Tổng truy cập: 1447373

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐƯỢC DIỄN TẢ QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐƯỢC DIỄN TẢ QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI

Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu thương con người qua những trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống chung quanh chúng ta.

Thay đổi con người, để có thể lãnh nhận hồng ân

Naaman trước khi xuống tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: “đi tắm bảy lần ở sông Jordan, thì sẽ được sạch”. Naaman nghĩ: “Nước sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở Jordan sao?” Và Naaman đã không muốn xuống tắm.

Naaman đòi người của Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy, nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.

Bao nhiêu yếu tố xảy đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái “quá thơ ngây” suýt gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước không được sạch dưới con mắt của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng được đan dệt bằng bao nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi người như hiện tại. Chúng ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa không?

Đức Giêsu- tình yêu của Thiên Chúa cho con người

Người phong cùi, theo luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách biệt với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ. Đức Giêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.

Đức Giêsu nói với những người phong cùi: “đi trình diện với các tư tế”. Luật Do Thái dạy những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong cùi được khỏi bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và được cứu độ.

Chỉ có mỗi người ngoại trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. “Chín người kia đâu? Không phải cả mười người được khỏi sao?” Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh phong cùi, còn người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn được nhiều ơn thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình, là một dấu chỉ của người đang sống hạnh phúc.

Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín

“Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”. Đi theo Đức Giêsu, đòi chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác thịt. Không chiều theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách chết cho thế gian, cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín: nếu chúng ta chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài.

“Nếu chúng ta chối Ngài, Ngài cũng chối chúng ta”. Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta cứng lòng và cố tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm khác được. Thiên đàng không thể có đối với người không muốn “lên thiên đàng”. Về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn con người ở trong tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ “lên thiên đàng” nhưng Ngài không buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài phải chịu vì Ngài đã cho con người tự do.

“Nếu chúng ta bất trung, thì Ngài vẫn trung thành”. Nếu vì yếu đuối, chúng ta bất trung, thì Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với Ngài. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải, mỗi khi con người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài qua trung gian thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại, đã là hồng ân của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Xin bạn cho một vài thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người qua các trung gian!
  2. Đức Giêsu có là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người không? Xin bạn chia sẻ quan điểm lập trường của bạn.
  3. Với kinh nghiệm bản thân, thay đổi bản thân nên có thể đón nhận hồng ân, hay, đón nhận hồng ân nên thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm!

 

  1. Làm một điều tốt

Xa xưa, một chiếc tầu bị đắm chìm trong một Ngũ Biển Hồ. Những đội cấp cứu được đưa đến để cứu vớt, gồm cả một nhóm học sinh tại Đại Học Northwestern. Một học sinh, anh Edward Spenser, đã giải cứu 16 người trong chiếc tàu đắm chìm đó. Khi anh được khiêng ra khỏi hiện trường sau khi đã kiệt sức, anh chỉ còn nói, “Tôi có làm tốt không? Bạn có nghĩ là tôi đã làm hết sức tôi chưa?” Nhiền năm sau, trong một cuộc hiệp hội cùng các bạn ra trường, một trong những người diễn thuyết đã nhắc nhớ lại hành vi anh hùng này. Thì có người kêu lên rằng Edward Spenser đang hiện diện trong những khán giả. Ông Spenser đã được mời tiến lên trước mọi người. Già nua và tóc bạc, ông tiến lên khán đài trong khi mọi khán giả đứng lên vỗ tay tán thưởng ông. Người diễn thuyết hỏi ông sự kiện nào ông nhớ nhất trong biến cố đấy. Ông đáp, “Chỉ có một việc là trong số 16 hay 17 người tôi đã cứu vớt, không một ai đã cám ơn tôi.”

Dân Cựu Ước trong Sách Xuất Hành đã nhận thấy những việc quyền uy về Quyền Lực và Ân Sủng và Tình Yêu của Thiên Chúa đã mời gọi họ đáp trả với lòng biết ơn đặc biệt và rõ ràng. Họ biết rõ rằng nó thật là không đủ khi chỉ cảm thấy biết ơn mà thôi. Những cảm nghiệm chỉ là hão huyền, tạm bợ, thường là bề ngoài, và thường hay sai lầm. Họ biết rõ rằng nó thật là không đủ khi chỉ biết nói về lòng biết ơn mà thôi. Nói vô tích sự! Vì tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ trong cuộc chạy loạn khỏi Ai-cập và trong cuộc hành trình về đất hứa. Những người này biết rằng họ cần phải biểu lộ lòng biết ơn trong một hình thức rõ ràng.

Một trong những hình thức rõ ràng để họ biểu lộ lòng biết ơn chính là mang những lễ vật đến nơi thờ phượng mà hiến dâng lên Thiên Chúa. Một hình thức khác, họ dùng những khả năng của họ, kinh nghiệm của họ, những tài năng của họ, kiến thức của họ, để làm một điều gì đẹp mà nói lên “Lời Cảm Tạ” đến Thiên Chúa.

Mariam chị của Môi-sen muốn có một cách thức tỏ lòng biết ơn một cách đặc biệt và rõ ràng vì Ơn Giải Cứu của Thiên Chúa. Bà đã sáng tác một bài ca, bà đã cầm lấy đàn và bắt đầu ca hát nhảy múa: “Hãy hát mừng Thiên Chúa, vì Ngài là niềm hỉ hoan mừng vui chiến thắng.” Chính “Bài Ca Mariam” là một phần quan trọng không chỉ trong lịch sử nhưng còn là vì nó giúp cho chúng ta biết rằng một trong những phương thức biểu lộ lòng biết ơn chính là làm một điều gì đẹp cho Thiên Chúa.

Và tiếp đến Tân Ước. Thiên Chúa đang hành động với quyền uy và yêu mến. Giờ đây Ngài hành động qua việc sai Đức Kitô đến. Và Chính Đức Kitô này là Đấng Duy Nhất mà chúng ta thấy và cảm nghiệm được trọn vẹn sự sống của chúng ta là những con người. Chính Đức Kitô này là Đấng Duy Nhất mà chúng ta nối theo trong cuộc thám hiểm tìm kiếm chúng ta thật sự là ai và cái gì mới chính là cuộc sống của chúng ta thật sự. Chính Đức Kitô là Gương Mẫu tuyệt hảo về cái gì là con người hoàn hảo, trở nên con người trọn vẹn nghĩa là gì, trở nên con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta nghĩa là gì. Và Cộng Đồng Tân Ước đã cảm nghiệm chính Biến Cố Kitô này với một lòng vui sướng tràn đầy và trao ban, và như thế họ đặt để hoàn toàn con người của họ và biểu lộ đó. Họ đã dùng tài năng của họ để tạo nên một sự gì tuyệt đẹp và dâng nó lên Thiên Chúa như là dấu chỉ và biểu chứng lời ca tụng và cảm tạ.

Không gương sáng nào hơn gương của Thánh Luca, tác giả của bài Phúc Âm hôm nay! Phúc Âm theo Thánh Luca là một bài ca ngợi và cảm tạ. Ông đã dùng kiến thức và kinh nghiệm mà ông có để trao ban cho thế giới một Tin Mừng thật hay.

“Lòng biết ơn chính là ký ức của con tim.” Trong bài giáo huấn hôm nay, Chúa Giêsu trên đường đi đến Giêsusalem khi Ngài gặp 10 người phong cùi. Chúng ta sẽ liền khám phá rằng 9 người trong bọn họ có một ký ức thật là ngắn ngủi. Khi 10 người gặp Chúa Giêsu, họ van nài, “Lạy Ngài Giêsu, xin thương đến chúng tôi” (Lk. 17:13). Họ nài nỉ xin Chúa Giêsu chữa họ khỏi căn bệnh khủng khiếp của họ. Và nằm trong lời van nài ơn cứu chữa nhân từ thông thường này chứa ẩn một đức tin thông thường — đức tin mà Chúa Giêsu Nagiarét, danh tiếng Ngài được truyền lan đến ngay cả cộng đồng cô lập của người cùi, có quyền lực làm phép lạ chữa họ khỏi bệnh. Niềm tin của họ đã không bị lầm lạc. Chúa Giêsu nói với họ, “Hãy đi trình diện với các tư tế,” và lập tức họ được lành sạch. Trong khi các người cùi bị dồn ép sống biệt lập, họ cần phải có chứng nhận chính thức của các tư tế cho sự lành sạch của họ trước khi có thể trở lại cuộc sống như những người thường. Do đó, chín người phong cùi đi thẳng đến đền thờ. Chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn với Chúa, khi anh nhận ra mình đã được lành sạch. “Lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa,” anh sấp mình xuống chân Chúa Giêsu và cảm tạ Ngài. Chúa Giêsu nói với anh, “Hãy đứng dậy mà về; đức tin anh đã làm cho anh lành mạnh” (Lk. 17:19). Bản dịch khác dịch rằng, “Đức tin anh đã làm cho anh được trọn vẹn” hay “Đức tin anh đang là ơn cứu độ anh.”

Cả 10 người cùi có niền tin vào quyền làm phép lạ của Chúa Giêsu. Thế nhưng Thánh Luca tỏ rõ rằng Chúa Giêsu nói những lời của ơn cứu độ với chỉ một người trong bọn họ. Rõ ràng, tác giả Tân Ước muốn nói cho chúng ta biết rằng những nguyên liệu của lời ca tụng và cảm tạ là trung tâm điểm của đức tin chân chính. Không có chúng, những việc bày tỏ đức tin của chúng ta thì chỉ là hời hợt.

Trong khi dùng chính những tài năng mà Thiên Chúa ban để tạo nên một sự việc tuyệt đẹp cho Thiên Chúa, các bạn hoạ nên một bức ảnh. Các bạn phổ ra một bài thơ. Các bạn sáng tác một bài hát. Các bạn sửa chữa một sự gì đã bị hư hỏng. Các bạn cất lên một căn nhà. Các bạn trồng lên một khóm hồng. Các bạn sửa soạn một bữa ăn ngon. Ai trong chúng ta cũng có một vài những khả năng, và chúng ta có thể làm những gì chúng ta có thể để làm vinh danh Thiên Chúa. Mỗi một người trong chúng ta có thể làm một cái gì đó hiển nhiên như là những phương tiện để đưa chính con người của chúng ta vào việc bày tỏ lời ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa. Nó trở nên một phần trong cách thức sống của chúng ta hầu thông mở máng chuyển Ân sủng triền miên.

Mỗi một người chúng ta có thể làm việc này: trước khi tuần lễ chấm dứt, đời sống của các bạn sẽ chạm đến nhiều người. Trong tinh thần của Chúa Giêsu Kitô, các bạn có thể tạo nên những mối dây liên kết tốt lành, và nhận ra niềm thành tín của người khác, và mời gọi với những tài năng đặc biệt của họ. Và các bạn có thể dâng những mối dây liên kết này như là những dấu chỉ hữu hình của lời ca tụng và cảm tạ của các bạn lên Thiên Chúa.

 

  1. Suy niệm của nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

(c.12) Người bị bệnh phong có vết thương nơi mình thì không được sạch sẽ hoặc thánh thiện. Vì thế họ bị tách riêng ra với những người thánh thiện trong các thành phố và bị cấm tham gia việc thờ phượng Thiên Chúa trong đền thánh.

(c.13) Đây là trường hợp duy nhất trong Luca mà tước hiệu “Lạy Thầy Giêsu” được dùng trên miệng những người không phải là môn đệ của Chúa Giêsu.

(c.14) Chúa Giêsu là Đấng từ Thiên Chuá đã đi ngang qua ranh giới ngăn cách sự sạch sẽ với sự ô uế để trả laị cho người ô uế đời sống cộng đoàn nhân loại.

(c.15) Chỉ có người phong hủi Samaritan mới nhận biết những gì thật sự xảy ra cho mình. Từ đó anh hiểu được không những anh được chữa lành mà anh tìm thấy được sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Sự việc anh quay trở laị gặp Chúa Giêsu cho thấy sự hoán cải của anh.

(c.17) Chỉ có một người phong hủi quay trở lại. Mặc dầu là một dân ngoại, anh cảm tạ đã nhận được món quà Chúa Giêsu ban cho. Việc đó cho thấy anh đã nhận thức được Thiên Chúa là trung tâm cuả món quà.

(c.18) Người phong hủi Samaritan ca ngợi Thiên Chúa qua việc làm của Chúa Giêsu. Những gì đã hứa, đã được lập lại, nay được hoàn thiện nơi Chúa Giêsu: sự cứu rỗi của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi dân tộc.

(c.19) Chúa đã chữa lành mười người phong hủi. Chỉ duy nhất với người phong hủi trở lại tạ ơn Ngàị mà Chúa nói “Lòng tin cuả anh đã cứu chữa anh”. Ơn cứu rỗi mà người phong hủi có được rõ ràng hơn hẳn sự chữa lành thân xác của anh. Chúa Giêsu mong muốn chín người phong hủi kia trở lại không phải cho họ thấy sự thất vọng của Ngài, nhưng vì Chúa muốn ban phát thêm cho họ.

Một Điểm Chính

Ca ngợi Thiên Chúa là một cách để nói lên lời tạ ơn Ngài. Lòng biết ơn là một việc làm của đức tin. Sự cứu rỗi mà người phong hủi nhận được rõ ràng có giá trị hơn sự chữa lành thân xác của anh.

Suy Niệm

Câu chuyện mười người phong hủi gợi lên câu hỏi “Taị sao chín người phong hủi kia không quay trở lại cảm tạ và ngợi khen Chúa?” Bạn hãy trở về với chính lòng mình để trả lời câu hỏi này.

Lòng tạ ơn là điểm nổi bật trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Bạn có thể thấy được niềm vui và ơn cứu rỗi mà người phong hủi Samaritan có được. Có khi nào bạn cảm nhận được niềm vui và sự cứu rỗi mỗi khi nói lên lời cảm tạ hoặc ca ngợi Thiên Chúa không?

Ca ngợi Thiên Chúa là một cách noí lên lời cảm tạ. Lòng biết ơn của Đức Mẹ thật phi thường, “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh người thật chí thánh chí tôn”, là một gương sáng để noi theo. Bạn có thường ca ngợi Thiên Chúa về những gì Ngài ban cho bạn không, ngay cả những gì bạn ghi ơn và những gì bạn không mong xảy đến cho bạn?

 

  1. Suy niệm của Đinh ngọc Thiệu

Câu hỏi gợi ý:

  1. Ý nghĩa các bài đọc hôm nay?
  2. Ơn cứu độ của Chúa: Một ân huệ nhưng không.
  3. Chúng ta phải làm thế nào để được lãnh nhận ơn Ngài?

Suy tư gợi ý:

Chủ đề các bài đọc hôm nay: Các bài đọc hôm nay giới thiệu cho chúng ta: Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, Ngài luôn cứu giúp những ai kêu cầu Ngài.

Bài sách các vua quyển thứ 2 kể kại câu chuyện ông Na-a-man được chữa lành bệnh phong hủi: Ông là tướng quân có thần thế và uy tín trước mặt Ben-Hađat vua Aram. Nghe biết ở Samari có Người của Thiên Chúa chữa được mọi thứ bệnh, Na-a-man đã ra đi cùng với đoàn tuỳ tùng, mang theo nhiều lễ vật và thư giới thiệu của nhà vua. Ông đến với vua Israel và xin được chữa bệnh. Đọc thư xong, vua Israel đã xé áo mình ra mà nói:”Ta đâu phải vị thần cầm quyền sinh tử mà ông ấy lại sai người này đền nhờ ta chữa khỏi bệnh phong hủi? … phải chăng ông ấy muốn sinh sự với ta?” Nghe biết câu chuyện, ngôn sứ Elisa liền sai người đến nói với vua:”Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi”. Ông Na-a-man cùng đoàn tuỳ tùng lại ra đi và đến đứng trước cửa nhà vị ngôn sứ. Elisa sai người ra nói với Na-a-man: “Ông hãy đi tắm 7 lần trong sông Gióc-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước …” Thấy mình được tiếp đón, chữa trị quá sơ sài như vậy, Na-a-man nổi giận và nhất định ra về. Các tôi tớ của ông cố sức nài nỉ, sau cùng ông đã thuận theo và xuống dìm mình 7 lần trong sông Gióc-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt của ông trở nên như da thịt một trẻ thơ. Ông đã được sạch. Hết sức mừng rỡ, ông cùng với đoàn tuỳ tùng trở lại gặp ngôn sứ Elisa và đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa của Israel. Ông đã dâng lễ vật tạơn, nhưng Elisa nhất mực từ chối.

Tin Mừng Thánh Lu-ca: Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong hủi đến xin Ngài cứu chữa. Chúa bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế,và đang khi đi thì họ được sạch. Trong số họ có một người đã trở lại lớn tiếng tôn vinh, sấp mình dưới chân Chúa mà tạ ơn Ngài.

Trong thư gửi cho Timôthêô, Thánh Phao-lô, người tù của Đức Kitô, đã nêu tấm gương hy sinh quên mình vì phần rỗi của anh em. Ngài hô hào mọi người cộng tác vào công việc đem Tin Mừng Cứu Rỗi đến với lương dân noi gương Chúa Kitô:” Nếu ta cùng chết với người ta sẽ cùng sống với người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài …” (2 Tm 2, 11-12).

Ơn cứu độ của Thiên Chúa: Một ơn huệ nhưng không.

Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, Ngài muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ơn Chúa ban không phải do công lao gì của chúng ta nhưng chỉ vì tình yêu bao la của Ngài: Mười người phong hủi kia là những người bần cùng bệnh tật, bị xã hội xa lánh ruồng bỏ. Ho-tay trắng- không có món quà nào để dâng lên Thiên húa nhưng chỉ với lời cầu xin chân thành, Ngài đã động lòng thương chữa lành họ. Tướng quân Na-a-man, một người quyền quý ra đi chữa bệnh đem theo đoàn tuỳ tùng với 300 ký bạc, 60 ký vàng. Có lẽ ông định bụng khi được chữa lành sẽ hậu tạ sao cho cân xứng, nhưng Người của Thiên Chúa chữa lành ông đã không nhận một lễ vật nào. Ơn cứu độ của Chúa đổ tràn như mưa tuôn, như ánh sáng mặt trời chan hoà khắp chốn. Ngài đợi sẵn ngoài cửa và sẵn sàng ban phát ơn huệ cho những ai kêu cầu Ngài.

Ta phải làm thế nào để lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa?

Mười người phong hủi chắc chắn sẽ không khỏi bệnh nếu không làm theo lời dạy:” Hãy đi trình diện với các thầy tư tế”. Và kỳ diệu thay, ngay trên đường đi họ đã được lành sạch. Còn tướng quân Na-a-man nếu cứ theo tính kiêu hãnh nóng nảy, không chịu dìm mình trong dòng sông Gióc-đan (mà theo ý ông cũng chẳng sạch sẽ hơn các con sông tại quê hương ông) thì làm sao khỏi bệnh được. Chính sự vâng lời và làm theo lời dạy của thiên Chúa mà Na-a-man và mười người phong hủi kia đã được chữa lành. Điều đó chứng tỏ Chúa muốn chúng ta tự nguyện cộng tác vào công việc cứu độ của Ngài. Ơn giải thoát của Chúa không chỉ nhằm cứu chúng ta thoát khỏi khổ đau, bệnh tật phần xác mà trên hết, Ngài muốn giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của tội lỗi,nguồn gốc của mọi điều ác,và ban cho chúng ta ơn cứu rỗi đời đời. Ngài ban ơn nhiều hơn những điều chúng ta mong đợi. Trong hai bài đọc Sách Các Vua và Tin Mừng Luca hôm nay có 11 người phong hủi được chữa lành, nhưng chỉ có 2 người được ơn nhận biết Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ. Đó là Na-a-man và một trong 10 người phong kia. Cả hai đã trở lại sấp mình tạ ơn Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ chính là mục đích tối hậu Thiên Chúa muốn dành cho mỗi người chúng ta: Ngài muốn cho tất cả mọi người sum họp thành một đoàn chiên dưới quyền một Chủ Chiên.

NGUYỆN

Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha vì Cha đã ban cho chúng con được diễm phúc tham dự vào vào công việc của Cha là đem Tin Mừng đến cho những anh chị em,những người chưa biết Cha. Xin cho chúng con biết loan truyền danh Cha bằng chính đời sống, lời cầu nguyện cùng với những hy sinh chia sẻ với những người xung quanh, đặc biệt với những anh chị đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.

 

  1. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Có thể tín nhiệm vào lương tâm của những người thường tỏ ra vô ơn với những ân nhân của mình không? Tại sao?
  2. Người Kitô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn những người khác không? Nếu không thì bạn nghĩ thế nào?
  3. Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta cần phải biết ơn những ai? Và phải làm những gì để tỏ lòng biết ơn đối với những người ấy?

Suy tư gợi ý:

  1. Làm ơn đừng nên nhớ, chịu ơn chớ nên quên

Bài đọc I đưa ra cho ta một hình ảnh rất đẹp. Tướng của Sy-ri là Na-a-man bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin ngôn sứ nhận cho. Còn ngôn sứ Ê-li-sa thì cương quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.

Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi hàm ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai.

Đức Giêsu cũng như các bậc cổ nhân xưa dạy ta thái độ nhớ và biết ơn đối với những người hy sinh cho ta, những người làm những điều tốt lành cho ta. Không phải chỉ nhớ và biết ơn, mà còn phải đền đáp lại ơn đó khi nào có thể. Nhưng đối với những người mà ta làm ơn cho, thì trái lại, không nên nhớ, cũng không nên đòi hỏi họ phải biết ơn hay trả ơn ta. Trang Tử, một triết gia Trung Hoa, khuyên ta nên “vô kỷ, vô công, vô danh” trong các việc làm của ta, nghĩa là không làm vì mình, làm rồi không cậy công, cũng không mong được khen ngợi, biết ơn.

  1. Suy nghĩ về lòng biết ơn

Một trong những nguyên nhân hay động lực quan trọng của tình yêu thương là lòng biết ơn. Không phải tình yêu thương nào cũng phát xuất và đặt nền móng trên lòng biết ơn: Thiên Chúa hay cha mẹ yêu thương ta không phải vì mang ơn ta. Nhưng rõ ràng là tình thương của ta đối với Thiên Chúa, cha mẹ và nhiều ân nhân khác phát sinh và đặt nền tảng trên lòng biết ơn. Thiên Chúa và cha mẹ yêu thương ta trước, sinh thành tạo dựng, nuôi dưỡng giáo dục ta. Tình thương đó, công ơn đó làm nẩy sinh nơi ta lòng biết ơn, khiến ta đáp lại tình thương đó bằng chính tình yêu thương của ta đối với các Ngài. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ lại là tiêu chuẩn nền tảng để đánh giá mọi thứ biết ơn khác. Một người vô ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ, thì khó mà biết ơn thật sự đối với người khác.

Khi làm ơn cho ai, giúp ai việc gì, mà về sau người đó vô ơn, tự nhiên ta cảm thầy buồn, có khi đau khổ. Khuynh hướng tự nhiên của mọi người là mong muốn hoặc đòi hỏi người thụ ơn mình phải biết ơn (mặc dù khi làm ơn cho ai, tính cao thượng đòi hỏi ta vượt khỏi khuynh hướng tự nhiên ấy). Do đó, lòng biết ơn là một đức tính rất cần thiết trong giao tế xã hội, trong tư cách một con người. Trong xã hội, tiếng “cám ơn” luôn luôn nở trên môi những con người có giáo dục, lịch thiệp, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn xuất phát từ đáy lòng luôn luôn làm vui lòng những người tốt bụng, khuyến khích họ tiếp tục thi ân làm phúc. Trong đời sống tâm linh, tinh thần hay tôn giáo, lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và các ân nhân cần phải được biểu lộ trong các kinh nguyện, lễ nghi, trong tâm tình và cử chỉ của các tín hữu.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 10 người được Đức Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Ngài. Và mỉa mai thay, người biết ơn đó lại là một người ngoại giáo! Điều này làm ta phải tự hỏi: người Kitô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn các tín đồ tôn giáo khác không? Nếu ta không tốt bằng họ hoặc không hơn họ, thì việc ta nỗ lực truyền giáo cho họ quả thật có phần nào nực cười! Việc Đức Giêsu – với tư cách là thầy dạy về tâm linh – đã trách móc 9 người vô ơn kia không biết tạ ơn Thiên Chúa cho thấy: rõ ràng là lòng biết ơn không thể nào thiếu được trong đời sống tu đức, đời sống hướng về sự toàn thiện. Không những thế, nó có thể là căn bản cho một lương tâm đứng đắn. Một người vô ơn, thường xuyên vô ơn, khó có thể có một lương tâm tế nhị và đúng đắn. Nhưng mỉa mai thay, biết bao người mang danh theo Chúa lại tỏ ra vô ơn với những người làm ơn cho mình nhiều hơn người thường!

  1. Biết ơn ai? – Bốn trọng ân trong đời sống con người

Trong Phật giáo, có bốn trọng ân mà người Phật tử thường được các sư tăng nhắc nhở, nhất là vào dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch): ơn cha mẹ, ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn tổ quốc xã hội, và ơn thầy bạn. Chúng ta thử khai triển bốn trọng ân ấy trong chiều hướng Kitô giáo.

  • Ơn cha mẹ: Cha mẹ trước tiên của chúng ta là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tạo dựng và sinh thành chúng ta, cho ta sự sống siêu nhiên lẫn tự nhiên, đồng thời ban cho ta đủ mọi ơn để duy trì và phát triển sự sống ấy. Kế đến là cha mẹ ruột thịt của ta, là người sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta nên người. Công ơn của cha mẹ ta to lớn biết bao! Ca dao có câu: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Người trần gian mà ta phải biết ơn nhất là cha mẹ.
  • Ơn tam bảo: là công ơn của những người đã đem lại cho ta đời sống tâm linh, làm cho đời sống tâm linh ta phát triển và trở nên phong phú.

– Người đầu tiên mà ta phải nói tới là Đức Giêsu, Đấng chủ chốt đem lại đời sống tâm linh cũng là vị Thầy lớn nhất về đời sống này cho mọi người Kitô hữu. Ngài cũng là Đấng cứu chuộc để ta có lại đời sống thần linh, siêu nhiên của Thiên Chúa đã bị mất từ thời nguyên tổ, trước khi ta sinh ra. Bên cạnh Đức Giêsu có Mẹ của Ngài là Đức Maria. Theo niềm tin của người Công giáo, tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban, đều nhờ Mẹ và qua tay Mẹ.

– Kế đến là Lời Chúa, hay Kinh Thánh và Tin Mừng, là phương tiện hữu hiệu nhất Thiên Chúa dùng để soi sáng cho ta đi đúng đường, hầu phát triển đời sống thần linh và tâm linh của ta. Ta cần phải biết ơn bằng cách năng đem ra suy gẫm để thực hành những gì Lời Chúa chỉ dạy.

– Giáo Hội các cấp (toàn cầu, địa phương, giáo xứ, cộng đoàn cơ bản), là yếu tố nhân sự để tiếp nối công trình của Đức Giêsu, đồng thời là môi trường đào tạo và nuôi dưỡng đời sống tâm linh của ta. Nói một cách cụ thể hơn đó là các tông đồ, các vị chủ chăn các cấp mà gần nhất là cha xứ, những người dạy dỗ ta về mặt tâm linh (các nhà thần học, tu đức, các giáo lý viên, các huynh trưởng hội đoàn, v.v…)

Đó là Tam Bảo của Kitô giáo, là các đại ân nhân của chúng ta, mà chúng ta phải luôn luôn yêu mến và tỏ lòng biết ơn.

  • Ơn tổ quốc và xã hội: Chúng ta không chỉ sống trong gia đình và Giáo Hội, mà còn sống trong lòng quốc gia dân tộc nữa. Quốc gia xã hội đã tạo cho chúng ta những điều kiện dễ dàng để có một đời sống ấm no, yên vui, hạnh phúc, một cách bao trùm, tổng quát, vượt khỏi khả năng hạn hẹp của cha mẹ, gia đình ta. Chúng ta được sống trong an vui, là do công sức của biết bao người đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc, đã vắt óc ra để đưa ra những chính sách sáng suốt hầu phát triển xã hội về kinh tế, văn hóa, v.v… làm cho đời sống của ta tươi đẹp. Để thấy được công lao của quốc gia xã hội, ta thử tưởng tượng nếu mình sống một mình trong rừng, ta sẽ thấy thiếu thốn và không được bảo vệ như thế nào!
  • Ơn thầy bạn: Trong đời sống của ta, ta còn biết bao người phải mang ơn, trước hết là những vị thầy đem lại cho ta đời sống tri thức, những người giáo dục ta nên người. Sau là những bà con thân thuộc, bạn bè, những người quen biết… Biết bao người đã vô tình hoặc cố ý làm ơn cho ta trong tất cả mọi lãnh vực mà ta có thể biết hoặc không biết. Chúng ta có bổn phận phải biết ơn và tìm cách trả ơn những người ấy.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức được rằng lòng biết ơn chính là thước đo của tình yêu đối với Thiên Chúa, nhân loại, Giáo Hội, xã hội, và tha nhân, và cũng là tiêu chuẩn đánh giá lương tâm và tư cách một con người. Xin giúp con ý thức được những hồng ân mà Chúa ban cho con từng giây từng phút, để con nhận ra được hạnh phúc Chúa ban hầu cảm tạ Chúa. Xin cho con luôn nhạy bén nhận ra tình thương, sự hy sinh, những ơn huệ, những cử chỉ yêu thương của những người chung quanh đối với con, để con cảm thấy hạnh phúc vì được yêu thương, đồng thời biết đáp trả bằng chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của con. Xin cho con biết luôn cầu nguyện và mong ước những sự tốt lành cho các ân nhân của con. Amen.

 

  1. Suy niệm 2 của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Tại sao ta lại phải biết ơn Thiên Chúa? Ngài đã làm ơn cho ta thế nào? Biết ơn Thiên Chúa thì có lợi hay có hại cho ta? Lợi hại thế nào?
  2. Ý thức được hồng ân bao la Thiên Chúa ban cho ta, thì thái độ hay hành động biết ơn thích hợp nhất của ta là gì?
  3. Khi làm ơn cho ai, ta có nên mong họ biết ơn hay đền ơn không? Mong họ biết ơn ta có lợi bằng không mong họ biết ơn không? Tại sao?

Suy tư gợi ý:

  1. Lòng biết ơn đối với con người

Một trong những đức tính căn bản cần có của con người là biết ơn người làm ơn cho mình. Khi có ai giúp mình hay hy sinh cho mình, dù là chuyện nhỏ, thì người có lòng biết ơn luôn luôn nở trên môi hai chữ “cám ơn”. Nếu là chuyện lớn thì người chịu ơn cần có một hành động cụ thể nào đó để biểu lộ lòng biết ơn, cho dù người làm ơn chẳng hề mong muốn. Chẳng hạn một lễ vật nho nhỏ làm quà, hoặc đền ơn khi có dịp… Nếu không thể đền đáp công ơn người thi ân (chẳng hạn vì không biết người ấy là ai, hay vì ơn đó lớn quá không thể đền đáp được, hay vì người làm ơn nhất định không nhận sự đền đáp…) thì ta có thể trả ơn ấy cho những người nghèo khổ hơn, những người có nhu cầu cần được ta giúp đỡ, hy sinh. Điều quan trọng là những hành động ấy phải phát xuất từ lòng biết ơn có thật từ đáy tâm hồn. Khi làm ơn cho ai, người càng cao thượng thì càng không cầu mong được biết ơn hay báo đáp, và không hề trách móc khi bị vô ơn. Chính những người cao thượng này xứng đáng được ta biết ơn hơn ai hết, cho dù ta không thể trả ơn cho họ, vì chính họ mới là người yêu thương ta một cách vô vị lợi và là người làm ơn cho ta cách đúng nghĩa nhất. Người ít cao thượng hơn, khi làm ơn cho ta thì cầu ta báo đáp. Như thế, hành động làm ơn ấy có nhiều điều giống như sự cho vay: cho vay thì có quyền đòi trả. Những người này ta cần trả ơn hơn là biết ơn.

  1. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa

Nếu ta phải biết ơn những người đã làm ơn cho ta, thì ta càng phải biết ơn Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta, ban cho ta tất cả mọi thứ trên đời. Tất cả những gì ta có hay nhận được từ bất kỳ ai đều phát xuất từ Thiên Chúa, đều do Ngài xếp đặt để chúng đến với ta. Đúng như Gioan Tẩy Giả nói: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3,27). Do đó, Ngài là người làm ơn cho ta nhiều nhất, và ban cho ta những ơn vĩ đại nhất. Vì thế, lòng biết ơn của ta đối với Ngài phải là lớn lao nhất. Mặc dù khi ban ơn cho ta, Thiên Chúa không cần và không cầu ta đáp lại, nhưng chính vì vậy ta càng phải biết ơn Ngài nhiều hơn nữa. Thánh Phaolô khuyên: “Chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người” (Dt 12,28). Cách biết ơn tốt nhất đối với Thiên Chúa là kính sợ và phụng thờ Ngài. Và cách phụng thờ Ngài tốt nhất chính là cố gắng trở nên giống Ngài, nghĩa là sống yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc tha nhân, vì bản chất của Ngài là tình yêu (x.1Ga 4,8.16).

  1. Lòng biết ơn Thiên Chúa giúp con người sống hạnh phúc

Lòng biết ơn của ta đối với Thiên Chúa không thêm gì hay ích lợi gì cho Thiên Chúa, mà chỉ ích lợi cho ta. Chắc chắn Thiên Chúa không vì ta biết ơn hay không biết ơn mà yêu thương ta nhiều hơn hay ít đi giống như cách hành xử thường tình hẹp hòi của người đời. Đối với Thiên Chúa, tất cả mọi người đều được Ngài yêu thương như nhau, dù là thánh thiện hay tội lỗi, dù là biết ơn hay vô ơn đối với Ngài. Tuy nhiên, cách hành xử của Ngài đối với mỗi người đều khác nhau vì lợi ích riêng của mỗi người và mọi người. Theo đòi hỏi của sự công bằng và hợp lý thì người biết ơn xứng đáng được Ngài ban nhiều ơn hơn, và người không biết ơn thì đáng bị Ngài ban ơn ít đi, cho dù tình thương của Ngài vẫn luôn chan hòa và đồng đều đối với mọi người.

Theo luật tâm lý tự nhiên, người ta sở dĩ biết ơn là vì ý thức mình nhận ơn, được yêu thương, được ưu đãi, nên cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc. Cũng vậy, khi ý thức mình nhận được từ Thiên Chúa quá nhiều hồng ân một cách nhưng không (nào là được sinh ra làm người, làm con cái Thiên Chúa, nào là có cha mẹ, có anh em bạn bè, nào là có sức khỏe, có học vấn, nhà cửa, của cải, được nhiều may mắn…), đương nhiên ta cảm thấy hạnh phúc. Tâm lý tự nhiên và sự hợp lý đòi hỏi một khi “đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không như vậy” (Mt 10,8). Do đó, cách hành xử của người biết ơn thường trở nên dễ chịu, dễ thương, hài hòa, vui vẻ, quảng đại, thích chia sẻ, nên dễ được mọi người yêu mến, giúp đỡ, ban tặng.

Vì thế, người có lòng biết ơn thì đã hạnh phúc lại được hạnh phúc hơn, đã có lại có thêm, đã được nhiều lại càng được nhiều hơn, đúng như lời Đức Giêsu: “Phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa” (Mt 25,29a), (từ “có” trong nhóm từ “phàm ai đã có” nên hiểu là “ý thức rằng mình có, mình được Thiên Chúa ban, nên biết ơn Ngài”). Còn người vô ơn thường không ý thức được những ơn mình nhận, nên vẫn cảm thấy thiếu thốn, không hài lòng với những gì đang có, tự cho rằng mình bị bạc đãi nên sinh bất mãn, bực bội, khó tính, rồi trở nên tính toán, so đo, nên ít được quí mến, giúp đỡ hay ban tặng. Từ đó dễ sinh ghen tị, buồn phiền, mất bình an và đau khổ. Do đó, người vô ơn đã có ít (vì cho rằng mình được ít) lại càng bị mất đi, đúng như lời Đức Giêsu: “Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (Mt 25,29b).

  1. Thái độ cần có khi nhận được ơn là biết tiếp tục cho đi

Người có lòng biết ơn – đối với Thiên Chúa cũng như đối với con người – thường nhận được nhiều ơn hơn nữa. Nhưng khi nhận được nhiều ơn như vậy, Thiên Chúa không muốn ta chỉ giữ khư khư những ơn ấy cho một mình ta, mà muốn ta tiếp tục ban phát, thi ân cho tha nhân. Đức Giêsu nói: “Anh em đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không như vậy” (Mt 10,8). Người biết cho đi giống như một cái hồ lớn: nó nhận được nước từ các sông ngòi, và nó cũng ban phát nước của nó cho những sông ngòi khác. Vì thế, nước của nó luôn luôn xanh trong, mát mẻ. Nó cho đi nhưng nhờ đó lại tiếp nhận được thêm. Còn ai chỉ biết nhận mà không biết cho đi, thì giống như một cái ao tù: nó giữ nước lại, không cho nước đi nên cũng không nhận được thêm nước nhiều nước khác, do đó nước của nó bị dơ bẩn, không trong sạch…

Nhưng khi cho đi, ta đừng nên coi những gì ta cho là của mình mà là của Thiên Chúa. Ta chỉ nên đóng vai một cái máng: cái máng thì nhận nước vào mình và tiếp tục cho chảy đi. Một cái máng tốt thì sẽ được sử dụng mãi để làm máng, nên nó sẽ không bao giờ thiếu nước, và cũng làm cho những hồ chứa hay những bình đựng luôn được đầy nước. Vì những gì ta nhận được và cho đi đều xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải của ta, nên ta cũng đừng mong ước hoặc đòi hỏi ai phải biết ơn ta. Như vậy, lòng ta mới luôn luôn được thanh thản, cho dẫu bị người đời vô ơn. Nếu ta mong hoặc đòi hỏi người khác biết ơn, thì ta rất dễ thất vọng và buồn tủi, vì người đời đa số thường vô ơn. Trong bài Tin Mừng, ta thấy: 10 người được Đức Giêsu chữa khỏi bệnh cùi – một hồng ân vô cùng lớn lao – thế mà chỉ có một người duy nhất tỏ ra biết ơn. Tỷ lệ số người biết ơn trong nhân loại hiện nay chắc hẳn không khá hơn tỷ lệ trên. Vậy, tốt nhất là chính chúng ta phải luôn đòi hỏi mình tâm tình biết ơn Thiên Chúa và tha nhân, nhưng lại không đòi hỏi ai phải biết ơn mình cả. Đó cũng là một hình thức “từ bỏ mình” mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi tất cả những ai theo Ngài.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con nhận ra ơn Cha ban trong từng giây phút đời sống con để con luôn luôn nhận ra hạnh phúc con đang có. Xin cho con luôn có tâm tình biết ơn và cảm tạ Cha trong mọi hơi thở cuộc đời con. Một khi con luôn luôn biết ơn Cha, thì con cũng sẽ luôn luôn biết ơn những người Cha đã dùng để tuôn ơn xuống cho con. Và khi con ý thức được hạnh phúc to lớn mà Cha vẫn ban cho con, thì cũng hãy giúp con luôn ban phát hạnh phúc ấy một cách quảng đại cho mọi người chung quanh con.

 

home Mục lục Lưu trữ