Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 27

Tổng truy cập: 1562281

MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ "HÃY TỈNH THỨC

MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ "HÃY TỈNH THỨC"

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Tin Mừng Lc 12: 35-40 Muốn Được Cứu Độ Hãy Tỉnh Thức - Đức Giêsu muốn nhắc cho chúng ta một sự thật, đó là: ngày Chúa đến không ai biết.

Trên các trang mạng truyền thông, chúng ta thấy: đêm ngày 14 tháng 7 năm 2016 vừa qua, nhân lễ quốc khánh của đất nước Pháp, tại thành phố Nice đã xảy ra một cuộc khủng bố bất ngờ nhắm vào người dân vô tội. Tên khủng bố đã lái xe cách điên cuồng khi đâm vào những người đang lưu thông trên đường. Không dừng lại ở đó, hắn còn dùng súng và bắn vào đám đông, khiến cho 84 người chết và nhiều người khác bị thương, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em.

Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự. Sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.

Như vậy, sự sống, sự chết của mỗi người không ai biết trước. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, nhà thơ Nguyễn Khuyến khi nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng” để được cứu độ.

1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ

Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc”, vì ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình. Bởi lẽ, ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời. Sang Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.

Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế, khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.

Hãy “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khua là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.

Qua lời dạy trên, Đức Giêsu muốn nhắc cho chúng ta một sự thật, đó là: ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khuya. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi: “hãy tỉnh thức”; “hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.

2. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta

Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức cám dỗ con người như sau:

“Còn lâu mới chết. Cuộc sống còn dài. Vì thế, không vội gì phải gấp rút. Cứ ăn chơi thỏa thích cho bõ một đời. Đợi khi gần chết rồi ăn năn trở lại!”.

Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… Họ viện vào lý do là mình còn trẻ, khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân… Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng … Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế “tỉnh thức”.

Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật... Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương; là sám hối, canh tân; là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành. Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.

Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với mình bất cứ lúc nào, ở đâu…ta đều thấy an vui, thanh thoát vì đã chuẩn bị.

Như vậy, cái chết đối với người tỉnh thức thì chẳng khác gì một “cõi đi về” .

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.

 

79.Sẵn sàng đợi chủ về

(Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt)

1. Trong dụ ngôn người đày tớ tỉnh thức, nếu để sang một bên c.37b người ta sẽ có một câu chuyện thuần nhất. Quá nửa đêm chủ trở về nhà. Nhưng ở đây, không phải chỉ mình ông gác cổng thức nhưng mọi đầy tớ đều đợi chủ mình. Họ đứng trong sân, giữa cửa lớn bên ngoài nhà. Họ phải vén áo lên để mở cửa cho nhanh khi chũ gõ và còn cầm đèn để dọi lối đi cho chủ. Chắc chắn chủ không đòi hỏi, nhưng những điều ấy nói lên sự kính trọng và lòng tận tụy yêu mến. Và chủ nhận biết lòng trung thành và sẽ tưởng thưởng.

Nhưng một chi tiết của dụ ngôn đã làm người ta chú ý và quay về lối chú giải ẩn dụ (interprétation). Để đón chủ về có cần đem tất cả gia nhân ra đón không? Chủ nhân phải chăng là một nhân vật quan trọng? Dù là một nhân vật lớn, chỉ cần một vài tha nhân phục vụ không đủ sao? Người ta sẽ nghĩ gì về ông chủ đòi một toán đầy tớ phải có mặt ở đó, áo quần chỉnh tề, khi ông về chỉ để mở cửa cho ông? (dụ ngôn tương tự với Mc 13,33-37 nhưng chỉ có một người gác cổng thôi).

Chỉ có một giải pháp cho vấn nạn ấy: dụ ngôn đi quá thực tại. Bức tranh mà dụ ngôn đưa ra không phải là một trang sử, đó chỉ là một ẩn dụ một cảnh trong thế giới bên kia. Mọi tôi tớ đều phải có mặt lúc chủ về, vì mọi Kitô hữu, mọi người, đều được triệu tập một cách công khai khi Con Người quang lâm.

Nhưng câu 37b còn đi xa hơn: “Quả thật, tôi nói cho các ông, chủ sẽ thắt lưng, đặt họ ngồi bàn tiệc và đi lại hầu hạ họ”. Câu này không phải là một diễn từ bằng ngụ ngôn, không dựa trên một sự kiện có thực, nhưng trên sự kiện có thể xảy ra. Đàng khác Chúa Giêsu mô tả ông chủ, dù là người công bình, đã cư xử thế nào với tôi tớ mình trong cuộc sống thường ngày: “Ai trong các anh, có tên đày tớ cày ruộng về mà nói với nó rằng: mau lại đây ngồi xuống dùng bữa đi?” (Lc 17,7-8). Ở đây ông chủ làm trái lại: mời các gia nhân ngồi bàn và chính ông phục dịch họ. Hình ảnh thật là mâu thuẫn, nó phát sinh từ một văn mạch riêng và không ăn khớp gì với dụ ngôn cả. Nó là một câu trong phần tuyển tập các lời Chúa Giêsu nói để mạc khải mầu nhiệm đời Ngài, mầu nhiệm sẽ được biểu lộ trong cái chết của Ngài.

Lc đã đặt câu sau đây trong khung cảnh bữa tiệc ly để soi sáng ý nghĩa bữa tiệc ly: “Ai là người lớn nhất: người ngồi bàn hay kẻ hầu hạ? Phải chăng là người ngồi bàn? Nhưng tôi, tôi ở giữa các anh như là người hầu hạ” (Lc 22,27). Trong những câu Chúa Giêsu nói mà Lc đã ghi lại, câu Chúa Giêsu nói hầu hạ các tông đồ, đi trước câu Ngài đi hứa cho các môn đệ được ăn uống nơi bàn tiệc Ngài, khi Nước Thiên Chúa đến và vương quốc thiên sai được thành lập (22,30; 22,18). Đó là cách trình bày bữa tiệc cánh chung (Mt 8,11) được cụ thể hóa trong bàn tiệc mà Chúa vinh hiển sẽ cùng ăn với các gia nhân Ngài.

Từ những yếu tố đó, hình thức và ý nghĩa lời nói trong dụ ngôn sẽ dễ hiểu hơn. Ông chủ trở về nhà, cho các gia nhân ngồi bàn và sẽ phục vụ họ. Dĩ nhiên, diễn tiến câu chuyện lại trục trặc vì câu ấy. Chủ nhà đã ăn tiệc; lại tổ chức một bữa tiệc khác vào nửa đêm, như vậy thật là thiếu mạch lạc. Nhưng những điều đó không trở ngại gì, vì câu chuyện đã trong hiểu theo lối ẩn dụ; và hướng đến các giá trị thiêng liêng.

2. Các nhà chú giải hơi lúng túng, khi cắt nghĩa chi tiết dụ ngôn người ăn trộm (c.39-40). Một vài tác giả (Jéremias, Dodd, BJ) có một vài vụ trộm cắp xảy ra mới đây mà cả làng còn nói đến, và Chúa Giêsu dùng biến cố hấp dẫn ấy để dạy cử tọa về tai họa ghê gớm (quang lâm) sắp đến. Lối chú giải ấy dựa trên một động từ ở thì conditionnelle irréelle. Ý nghĩa dụ ngôn bấy giờ sẽ là: nếu chủ nhà biết…, ông đã không để trộm vào nhà. Điều kiện không thực ấy (cette condition irréelle) giả thiết rằng, chủ nhà thực sự không biết nhà mình sẽ bị trộm và như thế ông không phòng gì cả. Nhưng cách chú giải ấy liền vấp phải câu kết sau: “Các anh cũng vậy, các anh hãy sẵn sàng…” Người ta không hiểu tại sao câu hết này áp dụng cho dụ ngôn vì câu này giả thiết chủ nhà đã không tỉnh thức.

Một lối chú giải khác cho rằng dụ ngôn cũng như lời tuyên bố một luật chung nào đó, bao trùm cả hiện tại lẫn tương lai. Nếu chủ nhà biết…ông sẽ tỉnh thức. Nhưng kiểu chú giải kia vẫn làm cho dụ ngôn không thể tránh khỏi khó khăn mà câu kết nêu lên. Cả các môn đệ, họ cũng không biết khi nào Con Người đến. Nhưng trái với chủ nhà là không tỉnh thức, vì ông biết giờ nào kẻ trộm có thể đến, còn các môn đệ lại phải tỉnh thức. Đây là điểm gợi ý để giải đáp các khó khăn trên: không những chủ nhà không biết giờ nào kẻ trộm có thể đến, nhưng ông cũng không biết kẻ trộm có đến không? Chính vì điều đó mà lập trường các môn đệ khác nhau. Nếu họ không biết thời gian đích xác Con Người đến, thì ít nhất là ngay bây giờ họ xác tín là Ngài sẽ đến. Vì các môn đệ biết, nên phải tỉnh thức (hình như đó là ý nghĩa của “cả cho các anh nữa” cũng như ông chủ nhà sẽ thức, nếu ông biết, thì các anh, các anh phải tỉnh thức, vì các anh đã biết). Nhưng phải thú nhận rằng lối chú giải này gây phiền phức cho bản văn lắm, bản văn nhấn mạnh lúc kẻ trộm đến (hay là quang lâm) hơn là sự bất ngờ. Vì chưa có một lối chú giải nào hay hơn, nên tạm thời tôi chấp nhận lối chú giải này.

Nhưng có một điều chắc chắn là khi nghe dụ ngôn, đừng ẩn dụ hóa câu chuyện. Tên trộm là lối ẩn dụ không mấy xứng hợp với Thiên Chúa. Vì thế dụ ngôn không ví Thiên Chúa như là người ăn trộm, nhưng so sánh sự xuất hiện ấy đều bất ngờ, đó là điểm tương tự duy nhất giữa hai người.

Dụ ngôn thứ 3 là dụ ngôn về người quản lý trung thành và người quản lý bất trung (c.42-48), dĩ nhiên trong thực tế, người đày tớ ấy không thể vừa trung thành, nhận phần thưởng làm quản lý tất cả tài sản của chủ, rồi liền sau đó được coi như một đày tớ bất trung và chịu hình phạt. Vậy có hai bức tranh khác nhau, nhưng liên hệ với nhau rất đậm đà nên nhà dụ ngôn chỉ nói đến một tên đầy tớ thôi.

Trong trường hợp thứ nhất, những hình ảnh không đi ra ngoài bình diện tự nhiên. Người đầy tớ trung toàn bổn phận mình đối với đồng bạn và nhận nơi chủ một chức vụ cao cả hơn ở trần gian này.

Trường hợp thứ hai, nhà dụ ngôn đem chúng ta đi quá bình diện tự nhiên. Tên đầy tớ thất thường bị truất phế và bị xếp hàng “bất trung” “không tin”.

Chúng ta đang đứng trước một dụ ngôn giải ca (casuistique) trình bày một nhân vật tưởng tượng, có thể đặt trong trường hợp này hoặc trường hợp kia và có thể gánh lấy họa phúc này hay họa phúc kia.

Dụ ngôn dạy ta một bài học rõ ràng; do vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra (c.41), dĩ nhiên mọi dụ ngôn đều có tính cách ẩn dụ (allégorique), và áp dụng cách chính xác cho các vị thủ lãnh cộng đoàn Kitô hữu. Môn đệ coi sóc các linh hồn và Thiên Chúa thình lình đến mà thấy ông kiện toàn bổn phận của mình, thì sẽ được trọng thưởng. Kẻ nào có nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn, mà lợi dụng quyền thế và trác táng, quên mất sự phán xét của Thiên Chúa có thể đến cách bất chợt, sẽ bị bắt quả tang và đày xuống hỏa ngục.

KẾT LUẬN

Thái độ căn bản của người Kitô hữu khi đợi Thiên Chúa đến vào giờ cuối cùng (thời cuối cùng có thể đến thình lình vào bất cứ giờ nào trong ngày hay đêm) là phải tỉnh thức và trung thành. Người mà Thiên Chúa thấy trong thái độ ấy sẽ được trọng thưởng, bằng không sẽ bị phạt. Số phận đời đời của ta đã định sẵn do quyết định của ta rồi: chúng ta là những người đày tớ biết tỉnh thức hay là những tên quản lý trung thành?

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Con tim của con người thường gắn liền với những cái họ liều lĩnh. Ai sống cho Thiên Chúa thì gắn liền với Thiên Chúa; ai từ chối nhiều sự vì Nước Thiên Chúa thì sẽ được nước ấy. Kẻ nào có kho tàng và của cải trên trời, thì con tim và mọi ước muốn đều hướng về trời. Kẻ nào tạo dựng kho tàng trên trời bằng cách bố thí, Nước Thiên Chúa sẽ ở trong cuộc đời của họ.

2. Nghi thức cột áo của người Do thái trong lễ vượt qua (Xac 12,11), phù hợp với quan niệm Thánh kinh nói về sự cứu rỗi mà Thiên Chúa đã thực hiện: Thiên Chúa khởi xướng công cuộc cứu độ, nhưng luôn đòi con người tiếp tục, vì sự cứu độ là làm con người trở nên khác và sống điều Thiên Chúa dạy. Chúa Giêsu cũng lưu tâm đến trực giác căn bản này: Ngài bảo ban đêm cũng phải bận y phục như ban ngày, nghĩa là tươm tất, sẵn sàng hoạt động, đèn thắp sáng để thấy rõ. Bóng tối bao trùm các người khác và họ ngủ mê. Còn chúng ta là môn đệ Ngài, phải luôn tỉnh thức. Ánh sáng đã được thắp lên, chúng ta phải giữ nó để sống trong những giờ đen tối nhất của cuộc đời chúng ta.

3. Thi hành xong sứ mệnh, Chúa Giêsu ra đi, để chúng ta sống tự do. Ngài từ chối đánh thức ta dậy, Ngài để chúng ta lãnh lấy trách nhiệm. Ngài gây niềm tin cho ta. Chúng ta không được ngã lòng, không được ngã lòng, không được đánh lừa chính mình. Vì Ngài sẽ đến, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng mở cửa khi Ngài gõ.

4. Dĩ nhiên việc Đức Kitô trở lại phù hợp với việc phán xét cuối cùng của chúng ta và của toàn thể nhân loại, nhưng cũng phù hợp với mỗi một giây phút của cuộc sống chúng ta, cuộc sống ấy sẽ cho thấy chúng ta trung thành hay bất tín, trưởng thành hay còn ấu trĩ đối với Thiên Chúa cũng như đối với chính mình. Thánh Phaolô mô tả ở thì hiện tại: “người ta gieo gì thì gặt nấy” (Gal 6,7), và Chúa Giêsu còn khẳng định ở chỗ khác: “Mọi cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu” (Mt 7,17-18). Khi Đức Kitô trở lại là để mỗi người chúng ta cụ thể hóa chân lý đó. Hãy hiểu rằng chúng ta không bao giờ biết giờ Ngài trở lại: chính chúng ta không được quyền xét xử chúng ta, việc tốt cũng như việc xấu (1Cor 4,3-5) và chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền phán xét. Chúng ta chỉ có thể làm việc này là trung thành vô điều kiện trong việc tỉnh thức, chu toàn những trách nhiệm của người đày tớ.

5. Nếu Đức Kitô cho chúng ta dấn thân trong việc phục vụ Ngài, không phải là biến chúng ta trở nên những tên nô lệ. Trái lại khi đảo lộn các mưu đồ và giai cấp của chúng ta, Ngài đã trở nên người đầu tiên phục vụ chúng ta. “Tôi ở giữa các anh như là người phục dịch” (Lc 22,27). Sau khi mạc khải sự cao cả hay hạnh phúc của việc phục vụ, người ta không ngạc nhiên vào giờ Ngài trở lại, vì Ngài thật là Chúa và Chủ (Gio 13,14), Ngài thắt lưng và phục dịch chúng ta như đã làm trước khi thụ nạn (Gio 13,4-5). Đã phục vụ, đã được phục vụ và yêu nhau theo gương Ngài, chúng ta đạt tới phẩm giá và hạnh phúc của Ngài. Khoảng cách trước đây giữa chủ và đày tớ giờ đây đã xóa tan, vì chính Ngài đã quyết như thế: “Các anh là bạn hữu, nếu các anh đã làm những gì tôi đòi hỏi các anh. Tôi không gọi các anh là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm; tôi gọi các anh là bạn hữu, vì tất cả những gì tôi đã học biết nơi Cha tôi, tôi đã dạy lại cho các anh” (Gio 15,14-15). Thật là hạnh phúc cho chúng ta khi việc chúng ta phục vụ đưa đến tình bạn, và tình bạn đưa đến vâng lời, và vâng lời là mối thông giao trực tiếp với Thiên Chúa.

 

80.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)

“CANH THỨC CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN TRONG SỰ TÍN THÁC”

Dẫn vào Phụng Vụ trong Thánh Lễ hôm nay cho cộng đoàn chúng ta nghe bài Tin Mừng khá dài với nhiều ý tưởng có khi trùng lắp và cũng khó xác định được thời gian. Có thể Thánh Luca đã gom lại những lời giảng dạy của Chúa Giêsu ở nhiều nơi và nhiều thời gian khác nhau. Các nhà chú giải quen gọi phần này là “hành trình giảng thuyết”. Giáo huấn của Lời Chúa trong Chúa nhật trước nhắc nhở người môn đệ đang khi sống ở trần gian đừng quên nghĩ đến tương lai và định mệnh cuối cùng của mình. Còn Lời Chúa hôm nay rõ ràng muốn tiếp tục giáo huấn chúng ta theo phương hướng ấy. Ý nghĩa chung của toàn bài Lời Chúa hôm nay là phải dành tất cả tài năng, tiền bạc và sức lực cho Nước Chúa mà việc biểu hiện là “tỉnh táo”: Trong việc dùng của cải thì khôn khéo, trong việc trông chờ thì tỉnh thức.

I. Giáo huấn của Chúa Giêsu về canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa đến.

Sau khi Đức Giêsu giảng dạy dân chúng về vấn đề: đừng ham mê của cải, hãy tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, hãy tích trữ của cải cho đời sau, thì ở đây Chúa nhắn nhủ phải thực hiện điều giáo huấn đó để luôn luôn sẵn sàng cho giờ từ giã cõi đời bước vào sự sống đời sau.

Bắt đầu bài giáo huấn về việc sẵn sàng và tỉnh thức để đợi chủ đi ăn cưới về, Chúa Giêsu, thoạt đầu nói với tất cả môn đệ, tức là với hết thảy mọi người tin Chúa. Phần sau Chúa nói riêng với các Tông Đồ, tức là những người có trách nhiệm trong Hội Thánh.

Với tất cả mọi người, Đức Giêsu có lời khuyên khích lệ âu yếm, Ngài nói: “Đừng sợ hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha anh em đã khấng ban Nước Trời cho anh em”. Lời nói vắn tắt nhưng rất thâm thuý. Hình ảnh đoàn chiên rất gần gũi với thính giả Do Thái quen cảnh sống du mục, chăn chiên (x. St 48,15; Ds 4,10; Ed 34…). Chính Chúa Giêsu dùng hình ảnh này ở đây khi nói với các môn đệ cách dịu dàng, thân thương đầy trìu mến, vì quả thực các môn đệ còn quá bé nhỏ về tầm cỡ, về số người, về quyền thế, về văn hoá. Vì thế, Người hiểu rồi đây họ sẽ phải đương đầu, đối diện với những khó khăn thử thách, kể cả những bách hại. Tuy vậy, họ không phải sợ vì có Chúa ở cùng, có Nước Trời làm sở hữu và nhất là “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 15,33). Đây là mạc khải có ý nghĩa định hướng và khai sinh niềm hy vọng. Khi khơi lên niềm hy vọng đó, Chúa Giêsu đã trang bị cho “đoàn con bé nhỏ” đón nhận mọi nghịch cảnh, đương đầu với sự dữ để dấn bước trên con đường thập giá của Con Thiên Chúa. Những ai tin như thế sẽ thấy bình an và vững vàng trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Tuy nhiên, đức tin không phải chỉ là cái nhìn bình an mà còn là khởi điểm và là động lực. Chính niềm tin vào Lời Chúa thúc giục Abraham lên đường và giúp ông cất bước cho đến suốt cuộc đời. Abraham vì thế trở thành mẫu gương sống động của đức tin và được gọi là “cha của những người tin”. Cũng chính trong niềm tin đã khiến con cái Abraham tập họp trong đêm xuất hành vượt qua, như sách Khôn Ngoan gợi lại việc Thiên Chúa giải phóng dân Israel một cách kỳ diệu khỏi ách nô lệ của Ai Cập và đưa họ vào đất hứa, thực hiện những lời đã hứa với các tổ phụ của họ từ ngàn xưa (bđ 1). Cũng chính trong niềm tin ấy mời gọi chúng ta cũng đi vào hành động theo như giáo huấn của Chúa. Từ chìa khoá của đoạn Tin Mừng là “tỉnh thức”, Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh khác nhau để giáo huấn các môn đệ về việc hãy sẵn sàng và tỉnh thức qua hai dụ ngôn để minh hoạ, đó là dụ ngôn “Người đầy tớ” và dụ ngôn “Người quản gia trung thành”.

Trước tiên, trong dụ ngôn “Người đầy tớ” Chúa nói với tất cả các môn đệ là hãy xắn áo đai lưng cho gọn và đèn chong cho sáng, tức là cả đêm ngày luôn ở tư thế làm việc và sẵn sàng. Người Do Thái mặc áo dài lụng thụng, nên khi làm việc vừa phải xắn lên và vừa phải đai lại. Đó cũng là thái độ Chúa đòi dân Chúa khi ăn lễ vượt qua (Xh 12,11). Nó diễn tả ý nghĩa là sẵn sàng lên đường. Còn khi bảo “Hãy chong đèn cho sáng” để diễn tả tư thế người lữ hành đang mong đợi, và khao khát chăm chú vào việc đón Chúa đến. Ở đây Chúa tự ví mình như người chủ đi ăn cưới, chẳng biết lúc nào về, thường vào thời điểm khuya khoắt và bất ngờ không đoán trước được, giống như chúng ta không biết kẻ trộm đến vào lúc nào. Thế nên, người tôi tớ phải kiên trì và trung thành trong tư thế sẵn sàng chờ đợi ông chủ để khi chủ về thì mở cửa ngay cho chủ, và như thế tôi tớ Chúa sẽ được phần thưởng bội hậu.

Câu chuyện sau đây là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa về việc “sẵn sàng và tỉnh thức”.

Những nhà khảo cổ đã đào bới được thành phố Vesure xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột, người ta thấy những trạng thái trái ngược nhau:

- Có người chết khi đang nhậu nhẹt.

- Có người đang đánh nhau để giành một số tiền.

- Nhưng hình ảnh đẹp nhất là một người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay với tư thế sẵn sàng.

II. Tỉnh thức và sẵn sàng để chu toàn trách nhiệm trong ánh sáng đức tin

Thắt lưng cho gọn, chong đèn cháy sáng là biểu thị thái độ và cách sống của người biết tỉnh thức và sẵn sàng luôn làm việc và chu toàn trách nhiệm của mình trong ánh sáng đức tin. Một đức tin như vậy mới sống động và tích cực, giống như đức tin của Abraham và của cộng đồng dân Chúa được trình thuật trong các bài đọc Sách Thánh hôm nay.

Trong dụ ngôn “người quản lý trung thành”, là những người có trách nhiệm trong Hội Thánh, Chúa Giêsu muốn căn dặn qua câu trả lời cho Phêrô là họ phải tỏ ra là người quản lý trung thực và khôn ngoan. Không những phải tỉnh thức và sẵn sàng đợi chủ trở về, mà trong khi chờ đợi còn phải phục vụ tôi trai tớ gái cho tươm tất đầy đủ, biết xả kỷ yêu thương, chứ không trục lợi gắt gỏng tàn ác… Kẻ biết ý chủ mà không thi hành sẽ bị loại bỏ và coi như phường bất tín, tức là ra khỏi sản nghiệp dành cho những người có niềm tin. Còn ai hiểu ý chủ ít hơn sẽ không bị phạt nặng bằng.

Chúa đã giáo huấn người môn đệ phải tỉnh thức và sẵn sàng để chu toàn trách nhiệm chờ đón Chúa đến. Như thế đã đủ cho cho chúng ta suy gẫm. Người luôn trung tín giữ mọi điều Người đã hứa, không lời hứa nào đầy đủ hạnh phúc hơn lời Người đã nói với chúng ta trong đức tin. Chính khi gọi chúng ta tin Người, Người đã hứa ban cho chúng ta mọi sự. Abraham đã nhận thấy như vậy và đã tin, vì tin ông đã có một đời sống tích cực như thế. Con cái Itrael cũng đã tin Lời Chúa như thế và đã thi hành chỉ thị của Người. Họ đã được Người đưa vào hứa địa nơi chảy sữa và mật.

Câu chuyện sau đây minh hoạ cho lời giáo huấn của Chúa về việc cần chu toàn trách nhiệm trong khi chờ đợi Chúa đến.

Người ta thuật lại rằng: Một ngày nọ vào năm 1780, bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut (Mỹ) bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã tới ngày tận thế. Khi ấy hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều nghị viên yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể trở về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không, nếu không thì không cần hoãn họp, còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên chúng ta bắt đầu họp”. (Drin Kwater thuật)

III. Tỉnh thức và sẵn sàng là cung cách sống đức tin của Kitô hữu

Niềm tin Kitô giáo cho chúng ta thấy cùng đích đời người là về sống trong Chúa ngang qua cái chết. Nhưng chết cách nào, ở đâu và bao giờ thì không ai có thể lường trước được. Chính vì thế để được hưởng tôn nhan Chúa, được sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh sau khi chết, đòi hỏi Kitô hữu phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Cung cách này được thể hiện trong cách ăn nết ở hàng ngày, được diễn tả qua thái độ, nếp nghĩ và việc làm của Kitô hữu. Do đó, có thể coi tỉnh thức và sẵn sàng là cung cách sống của Kitô hữu nên nó chi phối và thúc đẩy mỗi người biết sống và làm việc với tinh thần luôn cảnh tỉnh và phản tỉnh để khỏi rơi vào sự mê ngủ tâm linh, chạy theo những giá trị trần thế mà quên đi cứu cánh và mục đích đời Kitô hữu là được sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa.

Để đạt được sự sống vĩnh hằng ấy, người Kitô hữu phải sống tốt đẹp và chu toàn công việc và trách nhiệm được giao phó. Với các hình ảnh dụ ngôn; người tôi tớ thắt lưng, cầm đèn cháy sáng chờ chủ về; người quản lý trung thành trong công việc của mình, giáo huấn của Chúa Giêsu rõ ràng cho chúng ta biết phải làm gì để tỉnh thức và sẵn sàng, đó là chu toàn tốt nhất công việc của mình trong ánh sáng đức tin: từ trách nhiệm gia đình, ngoài xã hội đến bổn phận trong Giáo Hội với tinh thần phục vụ, càng phục vụ họ càng nhận ra Nước Chúa đang đến; càng phục vụ họ càng nên giống Chúa trong tư cách Vương giả của Ngài. Như thế, sự tỉnh thức của người Kitô hữu là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, và đó cũng chính là hạnh phúc đích thực. Thánh Phaolô miêu tả thái độ đó như sau: “… vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày, chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ”.

Ngày nay khoa học, thông tin, và ý thức hệ về con người, về cuộc sống giúp chúng ta hiểu ý Chúa hơn và cũng giúp ta thực hiện lời giáo huấn của Ngài hơn, nên trách nhiệm của chúng ta càng cao hơn. Vì thế, tỉnh táo với các biến cố chung quanh và với các nhu cầu của tha nhân hẳn phải là thái độ của các quản gia trung tín, khôn ngoan trong Giáo Hội, gia đình và xã hội.

Như thế, một Giáo Hội đang ở trong tư thế lữ hành mong đợi Chúa lại đến thì việc đầu tiên phải là một Giáo Hội trong tâm thức sẵn sàng, lên đường, sống vai trò của một Giáo Hội thừa sai. Để thực hiện một cách nào đó dễ dàng, Giáo Hội phải có một lối sống thanh bần, không bám víu lợi lộc trần gian.

Lời Chúa đối với các Kitô hữu hôm nay chính là lời cảnh tỉnh mọi người hãy coi lại cách sống đức tin của mình. Có phải vì quá bận rộn với công ăn việc làm mà quên bổn phận sống niềm tin Kitô giáo, hoặc quá ham mê chạy theo những đam mê phù phiếm của danh lợi, của dòng chảy vật chất mà quên đi những giá trị của Tin Mừng.

Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh thể phát huy nơi chúng con tư cách của kẻ đã chịu phép rửa, đã nhận nến sáng trong tay, vừa để đánh dấu ngày cuộc đời chúng con bước vào sự sáng, vừa để nhắc nhở chúng con luôn sống nên con cái sự sáng. Xin Chúa ban ơn đỡ nâng, dìu dắt chúng con suốt thời gian đợi Chúa trở lại, để chúng con luôn là những người tỉnh thức và trung tín cho đến ngày hân hoan gặp Chúa trong Nước Trời.

 

home Mục lục Lưu trữ