Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 22

Tổng truy cập: 1562275

CÁCH TIẾP CẬN NHỮNG HÌNH ẢNH KHÓ HIỂU TRONG KINH THÁNH

CÁCH TIẾP CẬN NHỮNG HÌNH ẢNH KHÓ HIỂU TRONG KINH THÁNH

Khi đọc Kinh thánh, chúng ta phải sẵn lòng tiếp cận các bản văn một cách chu đáo và cẩn thận, cũng như nhận ra những bản văn khó hiểu. Bài Tin mừng Chúa nhật XIX Thường niên hôm nay sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh ông chủ-nô lệ để mô tả bản chất mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nơi một trong các dụ ngôn, chúng ta bắt gặp cảnh một nô lệ đánh đập các nô lệ khác hay một ông chủ đánh một nô lệ. Mặc dù ngôn ngữ này có thể được một số độc giả đồng thuận, nhưng việc so sánh Thiên Chúa với ông chủ của các đầy tớ gây khó chịu và vẽ nên tương quan dựa trên sợ hãi và lạm dụng hơn là tình yêu.

Đọc trong bối cảnh tàn bạo của việc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương cũng làm cho các bản văn như bài Tin mừng hôm nay trở nên đáng lo ngại, mặc dù có những khác biệt và lý lẽ đối với chế độ nô lệ trong suốt lịch sử. Chế độ nô lệ ở châu Mỹ dựa trên chủng tộc và quan niệm sai lầm về tính ưu việt của người da trắng. Chế độ nô lệ ở Israel cổ đại đôi khi là một cách tạm thời để thu hồi các khoản nợ (được gọi là nô lệ thế thân). Nó cũng có thể là tình trạng vĩnh viễn của những thương vong do chiến tranh. Trong Tân ước, viết vào thời đế quốc Rôma, chế độ nô lệ là việc bình thường, điều này giúp giải thích sự phổ biến của các hình ảnh và ẩn dụ về chế độ nô lệ trong Tân ước. Dù có những lý lẽ khác nhau, việc một người sở hữu người khác khiến mọi hình thức nô lệ trở nên vô đạo đức.

Sách bài đọc đưa ra hai lựa chọn để tranh luận về bài Tin mừng hôm nay, chọn đọc bài ngắn hơn sẽ giúp lược bỏ một số câu khó hiểu. Bài đọc ngắn có thể được ưu tiên lựa chọn vì lý do này. Ngoài ra, sách bài đọc dịch từ doulos trong tiếng Hy Lạp là “đầy tớ” thay vì “nô lệ”, điều này làm dịu đi một số khía cạnh phi nhân bản trong bản văn.

Bài Tin mừng hôm nay có những gợi ý cánh chung, khi Chúa Giêsu cảnh báo các môn đệ về sự phán xét sắp đến đối với những hành động của họ. Ngài đề cao sự cần thiết chú ý tiên liệu, trông đợi và chuẩn bị chu đáo cho tương lai. Những dụ ngôn truyền tải các chủ đề này bằng cách vẽ ra những cảnh huống hàng ngày để dạy bảo về tầm quan trọng của việc tỉnh thức và sẵn sàng. Ngay cả với những văn bản khó như vậy, chúng ta có thể tìm thấy một số nguyên tắc đáng giá cần được ưu tiên hơn là những hình ảnh gây xúc phạm. Đây có thể là một thực hành giá trị để khai triển chính hình ảnh của chúng ta khi dạy những nguyên tắc quan trọng này.

Bài đọc ngắn hay dài đều có hình ảnh ông chủ phục vụ đầy tớ mà chúng ta không nên bỏ qua: “Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con: chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng”.

Trong một văn bản đầy sự bất bình đẳng và khuất phục, chúng ta bắt gặp một sự đảo ngược của hình ảnh nô lệ điển hình. Thánh Luca mô tả người chủ phục vụ những nô lệ đã luôn tỉnh thức và sẵn sàng, thưởng công cho thái độ đáng mong ước và điều chỉnh lại ý nghĩa của việc lãnh đạo và quyền lực. Hình ảnh người chủ phục vụ là lời nhắc nhở rằng những ai có chức quyền không nên lợi dụng địa vị của mình. Thay vào đó, quyền lực này đòi hỏi họ phục vụ những người phục vụ họ.

Khi gặp bài Tin mừng khó như hôm nay, chúng ta có thể nắm bắt những khía cạnh của tầm nhìn về lãnh đạo. Kết thúc của bài đọc dài nhắc lại điểm này: “đã giao phó cho ai nhiều thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn”. Khi suy ngẫm về cuộc sống và cố gắng sống chu đáo và chuẩn bị như bài Tin mừng mời gọi, chúng ta cũng nên xem xét những ứng dụng của lãnh đạo phục vụ cùng những cách thức có thể thực hiện nguyên tắc này trong cuộc sống.

 

75.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long)

TỈNH THỨC ĐỂ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA

1.- Ngữ cảnh

Cuộc hành trình lên Giêrusalem đang tiếp diễn. Đến Lc 12,22, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các môn đệ trong đám đông. Đề tài của những lời Người nói nhắm đến các của cải trần thế (12,22-32). Có thể nói phân đoạn 12,22-32 là bài bình luận Dụ ngôn Ông phú hộ. Bản văn Phụng vụ đọc hôm nay giữ lại c. 32: ta thấy Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé” và trấn an họ. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống hiệp nhất với nhau.

Lời khuyến khích ngỏ với các môn đệ lại được tiếp nối bằng mộtlời khuyên triệt để về cách sử dụng của cải trần thế hầu có được một kho báu trên trời (12,33-34).

Sau đó, trong bản văn Lc, Đức Giêsu thay đổi đề tài. Từ mối quan tâm đến các của cải trần thế, Người chuyển sang đề tài sự tỉnh thức và trung thành (12,35-46). Sự tỉnh thức và trung thành liên hệ với kho báu trên trời và ý nghĩa của cuộc sống ở chỗ chính những thái độ này giúp đạt tới kho báu ấy. Để nêu bật đề tài sự tín nhiệm và trung thành, Đức Giêsu lại nói đến biện pháp được đề ra để xử những tôi tớ không chu toàn nhiệm vụ.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34);

2) Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (12,35-48):

a) Dụ ngôn 1 (cc. 35-38),

c) Dụ ngôn 2 (cc. 39-40),

d) Dụ ngôn 3 (cc. 41-48).

3.- Vài điểm chú giải

- đoàn chiên nhỏ bé (32): Hình ảnh này có thể là mộtgợi ý tới Is 41,14 LXX. Ở c. 32, có mộtsự đối lập giữa cộng đoàn nhỏ bé gồm các môn đệ Đức Giêsu và ân huệ lớn nhất Thiên Chúa hứa ban cho họ (“Nước của Người”).

- Hãy bán tài sản của mình đi (33): Xem Lc 18,22; Mt 19,21. Lý do của hành vi này được diễn tả ở 12,21, hầu trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa”.

- bố thí (33): Xem Lc 11,41; Tb 4,7-11; Hc 35,2.

- một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời (33): Xem Lc 16,9c; 18,22e.

- Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó (34): Câu này có nghĩa là: Nếu anh em đặt kho tàng của anh em trên trời, thì lòng (trái tim) của anh em cũng sẽ hướng về những sự trên trời.

- Anh em hãy thắt lưng cho gọn (35): Lời huấn thị này có thể gợi tới lệnh được ban cho con cái Israel khi cử hành lễ Vượt Qua đầu tiên (Xh 12,11.22-23). Nhưng sau này, ở trong Cựu Ước, công thức trở thành một lời huấn dụ quen thuộc về sự sẵn sàng hoặc về việc phục vụ (x. 1 V 18,46; 2 V 4,29; 9,1; G 38,3; 40,7).

- thắp đèn cho sẵn (35): Xem Lc 8,16; 11,33. Hình ảnh các đèn cháy sáng nói lên sự tỉnh thức.

- canh hai hoặc canh ba (38): Đây là cách chia thời gian của đêm (từ 6g chiều đến 6g sáng) theo người Rôma: thành bốn khoảng (“canh”, phylakai) đều nhau (6-9, 9-12, 12-3, 3-6); mà cũng có thể là cách chia của người Hy-lạp và Do-thái: thành ba canh (6-10, 10-2, 2-6). Theo Cv, tác giả Lc dường như xác định bốn canh (Cv 12,4).

- khoét vách nhà mình (39): Các vách nhà Paléttina được trét đất, nên trộm có thể khoét thủng.

- ông sẽ loại hắn ra (46): dịch sát là “ông sẽ xẻ đôi hắn ra” (dichotomeô, “xẻ đôi, cắt đôi; trừng phạt dữ tợn”). Có lẽ sự trừng phạt này liên hệ đến hai đòi hỏi nơi người quản lý, “trung tín và khôn ngoan”.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34)

Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé”. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống liên kết và hiệp nhất. Đức Giêsu trấn an họ: “Đừng sợ!”, cho dù họ chỉ là mộtnhóm bé nhỏ. Điều này khiến độc giả nhớ lại những đoạn tóm rất lý tưởng về đời sống của cộng đoàn tiên khởi trong sách Cv (2,42-47; 4,32-35).

Sau đó, Đức Giêsu nêu ra mộtcách sử dụng triệt để các của cải vật chất. Các môn đệ phải “bán” chúng đi và cho đi như “của bố thí”. Chỉ bằng cách đó, họ mới sắm được cho mình “những túi tiền” không hề cũ rách và tích lũy được “một kho tàng” không thể hao hụt ở trên trời. Đức Giêsu sẽ trở lại với đề tài này ở 16,13.

Trong bài Lc 12,13-21, chúng ta đọc truyện Nhà phú hộ. Ông này phạm hai sai lầm: ông đã không làm giàu cho mình “trước mắt Thiên Chúa” và ông để cho cái chết bắt chợt ông. Đức Giêsu đã giải thích cho các môn đệ cách trở nên giàu có trước mắt Thiên Chúa: chia sẻ những gì mình có với những người kém may mắn hơn. Còn để tránh bị cái chết bắt chợt, Người kể ba câu truyện (cc. 35-38; cc. 39-40; cc. 41-48).

* Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (35-48)

Sự ẩn mình và vẻ bề ngoài vắng mặt hoàn toàn của Thiên Chúa luôn luôn là mộtgánh nặng và mộtthử thách cho các tín hữu. Thiên Chúa có vẻ xa vời và yếu đuối. Từ đó, chúng ta sống buông thả, vô trách nhiệm. Với các dụ ngôn sau đây, Đức Giêsu gây ý thức cho các môn đệ về những mối nguy đang rình rập họ, và cho thấy là Người vẫn đang có đó, Người biết và Người sẽ ban thưởng.

Yếu tố chung của các dụ ngôn là sự vắng mặt của ông chủ. Các bản văn này dạy các tôi tớ biết phải làm gì khi ông chủ đi vắng. Bổn phận dầu tiên của họ là tỉnh thức và sẵn sàng. Theo phong tục thời ấy, ai đã tháo dây lưng và cởi áo khoác, là ngưng làm việc để đi nghỉ. Còn ai thắt áo khoác bằng dây lưng thì sẵn sàng làm việc hoặc sẵn sàng lên đường. Với ngọn đèn cháy sáng, người ta có thể làm mộtcông việc đột xuất ngay ban đêm. Như thế, người ta được yêu cầu là phải sẵn sàng mọi giờ. Đoạn văn kế tiếp so sánh chuyện Chúa đến cũng đột xuất và bất ngờ như là việc trọm đến; nghĩa là không có lúc nào mà ta không phải sẵn sàng tính sổ với Người.

Các dụ ngôn đặc biệt cho thấy rằng giữa người đi vắng và những người có mặt có mộttương quan bậc trên – lệ thuộc. Những người hiện diện không phải là những chủ nhân tự do của chính mình. Họ phải điều chỉnh cách sống và cư xử theo ý của ông chủ. Để cho quan hệ giữa ông chủ và các tôi tớ không bị buông lỏng, các dụ ngôn yêu cầu phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là luôn ra sức quy hướng về Chúa. Cho dù Người có xa cách theo tầm nhìn, Người vẫn phải luôn ở trong tim các tôi tớ.

Bản văn lại cho thấy phản ứng lạ lùng của ông chủ khi trở về mà thấy các tôi tớ sống như vậy. Ông sẽ thế chỗ họ. Ông đảm nhận nhiệm vụ tôi tớ và xử với họ như với các ông chủ: cho họ ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ. Cách xử sự của ông chủ khiến các môn đệ Đức Giêsu hiểu rằng ông chủ đánh giá cao cách sống của họ, ông thât sự vui mừng và ông diễn tả ra lòng biết ơn đối với họ. Dĩ nhiên ông vẫn là ông chủ – nhưng chính vì thế, việc phục dịch của ông mới đáng kể – và họ vẫn là các tôi tớ – nhưng chính vì thế, vinh dự ông chủ ban cho họ thật là to lớn. Nhưng ta thấy rằng tương quan chủ–nô này không có gì là bất nhân và phi ngã cả. Ông chủ ước mong các tôi tớ của ông liên kết bền vững với ông theo cách riêng tư và thân tình và ông biết đánh giá cách sống này theo cách rất riêng tư. Các tôi tớ phải luôn mang ông chủ vắng mặt trong tim và phải để cho ý muốn của ông luôn hướng dẫn mình. Nhưng họ cũng có thể tin chắc rằng ông chủ cũng dành trái tim cho họ.

Tất cả các tôi tớ đều phải tỉnh thức khi ông chủ trở về. Nhưng sau câu hỏi của Phêrô, ta thấy có những tôi tớ có mộttrách nhiệm đặc biệt. Ông chủ đã giao cho những người này mộtnhiệm vụ điều hành và lãnh đạo các tôi tớ khác. Điều này hàm chứa mộtnguy cơ đặc biệt và do đó, họ có trách nhiệm đặc biệt. Họ chỉ là những người quản lý, chứ không phải là những lãnh đạo theo đúng lý. Họ phải trung thành làm theo những bố trí của ông chủ và phải tỏ ra bén nhạy. Họ phải coi sóc và phục vụ các tôi tớ khác. Họ không được tìm cách thoát ra khỏi dây liên kết với ông chủ vắng mặt, nhưng phải sống dây liên kết này mộtcách đặc biệt mạnh mẽ. Nếu họ lạm dụng địa vị và cư xử với các bạn cách độc tài, họ sẽ bị trừng phạt đặc biệt (“xẻ đôi”); còn nếu họ tỏ ra trung tín, ông chủ sẽ bày tỏ lòng biết ơn và sự tín nhiệm của ông đối với họ.

+ Kết luận

Chính vì Chúa Cha đã sẵn sàng ban sự sống đời đời (Nước Ngài) cho chúng ta, chúng ta phải biết cách sống theo chiều hướng đó. Vì thế Đức Giêsu dạy chúng ta vừa phải biết sử dụng của cải vừa phải biết điều hành cuộc sống của chúng ta theo chiều hướng đó. Đức Giêsu chính là Đấng đến bày tỏ cho chúng ta biết ý muốn đó của Thiên Chúa và giúp chúng ta thi hành. Rồi ngày nào đó, Người sẽ thay mặt Thiên Chúa đến kiểm chứng về cách sống của chúng ta. Đến đây chúng ta phải ghi khắc rằng không thể nào phủ nhận dây liên kết với Đức Giêsu và sự trung thành phải có đối với nhiệm vụ Người đã giao phó. Các đòi hỏi trong các dụ ngôn thật ra không phải là những mệnh lệnh độc đoán. Chúng cho thấy những điều dứt khoát phải làm, phải sống, để chuẩn bị đón Chúa đến và sống với Người, để đi vào hiệp thông trọn vẹn với Người.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Mãi mãi Giáo Hội của Đức Kitô là một “đoàn chiên bé nhỏ”. Do đó, Giáo Hội phải luôn tin tưởng vào Vị Mục Tử của mình là Đức Kitô cũng như vào Chúa Cha. Sự tin tưởng đó phải được diễn tả ra bằng việc kiên trì sử dụng của cải vật chất mà tậu cho mình kho tàng đích thực trên trời.

2. Những con người, những tương quan, những sức mạnh thiên nhiên, các bệnh tật, các biến cố trong lịch sử… can thiệp dứt khoát vào cuộc sống của chúng ta và tìm cách chế ngự chúng ta. Đứng trước những sức mạnh và thế lực mà chúng ta cảm nhận rất rõ ấy, Thiên Chúa dường như ở xa và lại yếu đuối nữa. Chúng ta dám có thể cảm thấy mệt mỏi; dây liên kết chúng ta với Ngài ngày càng nên mong manh hơn, ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống chúng ta hơn. Chúng ta rất có thể để sang mộtbên nhiệm vụ mà Ngài đã giao phó cho ta và xử sự vô trách nhiệm theo tính ngẫu hứng. Hôm nay, Đức Giêsu lưu ý về những mối nguy ấy và cho biết Người sẽ ban gì cho những ai tỉnh thức và trung thành.

3. Tục ngữ có câu: “Xa mặt, cách lòng”. Chúng ta luôn cần có sự hiện diện của người khác, cần liên tục gặp gỡ người khác, để có mộttương quan bền chặt và sống động với người ấy. Để sống trong tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, chúng ta phải luôn hướng về Người bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Cuộc sống của chúng ta phải luôn là mộtnỗ lực quy hướng về Người. Người có “xa mặt”, nhưng Người vẫn ở với “lòng” chúng ta; trái tim chúng ta phải “đầy” Người.

4. Hôm nay, bằng nhiều cách, Chúa Giêsu vẫn hiện diện: trong bánh và rượu là Mình và Máu Người; trong Lời Người; trong những người túng quẫn (x. Mt 25,31-46); trong mọi con người mà Người đã nắn đúc nên theo hình ảnh Người, mà càng ngày họ càng nên như thế do gặp gỡ sống động với Người. Chúng ta có thể và phải sống gắn bó mật thiết với Người. Khi đó, chúng ta đang tỉnh thức và sẵn sàng.

5. Chúa Giêsu không bắt chúng ta gắn bó với Người như những tên nô lệ, dù tư cách chúng ta đúng là như thế. Sự gắn bó với Người sẽ đưa tới niềm vui và hạnh phúc Người ban cho sau này. Người muốn chúng ta sống theo ý Người chỉ là để ban cho chúng ta tất cả.

6. Các thủ lãnh của cộng đoàn cũng được mời gọi suy nghĩ về cách mình đang chu toàn trách nhiệm. Các ngài phải “trung tín và khôn ngoan” trong khi thi hành bổn phận: Chúa Giêsu đã đặt các ngài lên coi sóc những người ở dưới quyền của Chúa để phục vụ họ. Đây là mộttrách nhiệm nặng nề vì đòi hỏi luôn luôn đúng giờ và trung tín; nếu họ lạm quyền, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Chúng ta cầu nguyện nhiều cho các ngài.

 

76.Hãy sẵn sàng

(Suy niệm của William Barclay)

Qua dụ ngôn phú nông khờ dại Chúa cảnh cáo các môn đệ đừng để cho tâm trí bận bịu với việc lo làm giàu cách ích kỷ, rồi phải đặt niềm tin nơi Chúa quan phòng mà quên đi lo âu về cơm ăn áo mặc hàng ngày, nhưng phải quan tâm hết sức về Nước Thiên Chúa sẽ hiện ra khi gặp Ngài trở lại.

Về những biến cố trước khi Ngài trở lại, cùng những tình hình và hậu quả của sự trở lại ấy, Ngài sẽ dạy họ rõ ràng hơn trước khi Ngài qua đời; ở đây Ngài chỉ dạy họ giữ thái độ canh thức, ngụ ý rằng nếu lúc nào tâm trí họ cũng hướng về sự trở lại của Chúa, thì họ sẽ ở ngoài vòng cương tỏa của trần thế, của lo âu, để cần mẫn phục vụ Ngài.

Ngài minh họa thái độ canh thức ấy bằng dụ ngôn ông chủ trở về và kẻ trộm đến. Trong dụ ngôn đầu: ông chủ đi dự tiệc cưới, tôi tớ ở nhà ăn mặc tươm tất, chong đèn thức đợi, sẵn sàng đợi ông chủ về. Về đến nhà, ông hân hoan thấy họ kiên tâm như vậy, ông biểu lộ niềm vui bằng cách cho họ đồng bàn trong bữa tiệc họ đã dọn cho ông.

Dụ ngôn thứ hai biểu lộ chân lý việc đến bất ngờ của kẻ trộm. Trộm đến không bao giờ báo trước, nên chỉ còn một cách là lúc nào cũng rình chờ hắn đến. Chúa thêm: “Cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

Tại đây cũng như nhiều chỗ khác, Chúa cho biết còn lâu nữa Ngài mới trở lại. Thời gian Ngài vắng mặt sẽ như một đêm dài, còn nhiều điều cần phải được biểu lộ, còn nhiều điều cần thiết trước khi Ngài trở lại. Thế nhưng họ không phải chờ đợi trong bồn chồn lo âu, hoặc ngày Ngài đến đã gần kề, nhưng chỉ cần họ đứng tại vị trí của bổn phận, trung thành thi hành công việc đã được trao phó cho.

Chúng ta có thể dựa vào thái độ canh thức, chú tâm đến sự trở lại của Chúa, mà đón định tư cách của các giáo sư và những người lãnh đạo Giáo Hội. Đó là động lực khiến Phêrô đưa ra câu hỏi. Ông hỏi rằng mọi người sẽ cùng hưởng phước hạnh về sự của Chúa ngang nhau hay những người như các tông đồ, đã phục vụ Chúa nhiều hơn sẽ lãnh phần thưởng lớn hơn. Chúa trả lời cho thấy đặc quyền lớn bao nhiêu thì thử thách lớn về trách nhiệm nặng hơn.

Như vậy đoạn Kinh Thánh này có hai ý nghĩa: nghĩa hẹp chỉ sự trở lại của Chúa vào ngày thế mạt, nghĩa rộng chỉ về thời điểm mà mỗi người chúng ta được gọi trình diện Thiên Chúa. Có lời khen ngợi là dành cho người đầy tớ biết sẵn sàng. Chiếc áo dài lướt thướt của Đông phương gây trở ngại khi làm việc. Vì thế để làm việc, người ta vén áo cao lên, buộc vào thắt lưng để hoạt động thoải mái. Chiếc đèn ở Đông phương chỉ là một sợi tim (bấc) thả trên một đĩa dầu. Tim đèn phải luôn luôn được cắt tỉa và đèn phải luôn luôn đầy dầu, nếu không đèn sẽ tắt. Không ai có thể nói ngày giờ nào cõi đời đời sẽ xâm nhập vào thời gian và khi nào tiếng gọi của Chúa sẽ đến.

Vậy chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta trong tình trạng thế nào?

1. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta lúc đã chu toàn bổn phận của mình.

Biết bao người trong chúng ta có đời sống dở dang, có những việc chưa làm và những việc mới làm một nửa. Có những việc bỏ bê và có những việc chưa bắt đầu. Các bậc vĩ nhân bao giờ cũng nghĩ đến bổn phận phải làm trọn. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Con đã làm xong công việc mà Cha đã trao ban cho con”. (Ga 17,4). Không ai được coi thường, bỏ bê công tác mà mình phải chu toàn, hay có thể hoàn tất trước khi đêm đến.

2. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang sống hòa thuận cùng mọi người.

Thật đáng sợ nếu ta lìa khỏi thế gian này mà lòng còn cay đắng với một người nào. Không ai được để cho mặt trời lặn trên cơn giận của mình (Ep 4,26), nhất là khi mặt trời lặn lần cuối cùng trong đời mình, và ai có thể biết được ngày nào mình nhìn thấy mặt trời lặn lần cuối.

3. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang bình an với chính Ngài.

Trong giờ cuối cùng, chúng ta cảm thấy mình sắp phải gặp một người xa lạ, một kẻ thù, hay sắp được nằm yên trong vòng tay êm ái của Cha lành, đó là tất cả sự khác biệt.

Trong phần thứ hai của đoạn Kinh Thánh này, Chúa Giêsu cho biết thế nào là người quản gia khôn ngoan và không khôn ngoan. Bên Đông phương, người quản gia có quyền hạn rất rộng. Bản thân là nô lệ, nhưng anh ta có quyền điều khiển các nô lệ khác. Một quản gia tín nhiệm được coi sóc mọi việc trong nhà và điều hành gia tài của mình. Người quản gia không khôn ngoan đã phạm hai lỗi lầm:

1. Anh ta nói: “Ta sẽ làm theo ý thích của ta trong khi chủ ta đi vắng”, vì anh ta quên rằng ngày tính sổ phải đến. Chúng ta thường chia đời sống ra nhiều phần. Trong phần này của đời sống thì chúng ta nhớ Chúa hiện diện, trong phần khác thì chúng ta chẳng nghĩ đến Chúa chút nào. Chúng ta có khuynh hướng vạch một đường ranh giới giữa những hoạt động thiêng liêng và những hoạt động thế tục. Nhưng nếu hiểu rõ Kitô giáo là gì? Chúng ta hẳn biết rằng không có phần nào trong đời sống chúng ta khuất mắt của Chúa được. Chúng ta đang làm việc và sống động mãi dưới cái nhìn thấu suốt của Chủ Lớn của chúng ta.

2. Anh ta nói: “Ta có đủ thời giờ sắp xếp mọi công việc trước khi chủ đến”. Không có gì nguy hiểm cho bằng cảm tưởng là chúng ta có đủ thời giờ. Chính Chúa Giêsu phán: “Ta phải làm công việc của Đấng đã sai Ta đang khi còn ban ngày, đêm đến thì không ai còn làm việc được nữa” (Ga 9,4). Một trong những chữ rất nguy hiểm trong đời sống con người là chữ “ngày mai”.

Đoạn Kinh Thánh chấm dứt với lời cảnh cáo rằng sự nguy hiểu biết và đặc ân bao giờ cũng mang theo trách nhiệm. Tội trở nên nặng gấp đôi cho người nào hiểu biết mà cứ phạm. Thất bại sẽ đáng trách gấp đôi cho người nào có điều kiện để thành công mà lại không chịu lợi dụng các điều kiện ấy.

 

home Mục lục Lưu trữ