Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 31

Tổng truy cập: 1743738

LỜI KINH CỦA CHÚA - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

LỜI KINH CỦA CHÚA - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

Bi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích ca đời sng chúng ta, Đức Giêsu có th dy chúng ta cu nguyn cùng Thiên Chúa hơn bt c ai trước Người.

1.- Ngữ cảnh

Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.

Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Hoàn cảnh (11,1);

2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4);

3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):

- Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (cc. 5-8),

- Sáu khẳng định (cc. 9-10),

- Dụ ngôn Người cha và đứa con (cc. 11-13).

3.- Vài điểm chú giải

- Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy-lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).

Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé (G. Kittel, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. Jeremias, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W. Marchel, Abba, Père (Roma 1963, 1971). Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha (A. Pitta, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001) 298.). Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em.

Gọi Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do-thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song (Cf. Jeremias, Abba, 58-67). Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.

- xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hoá Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.

-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.

- ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.

- xin tha tội (4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.

- bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.

- anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia, “sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện” (Xem Bản dch Kinh Thánh Tân Ước ca Nhóm Phiên Dch CGKPV 1995). Nhưng giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou (Ở chủ-cách là autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho người quấy rầy.

- tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.

- anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.

- cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.

- thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.

- xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hoàn cảnh (1)

Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.

* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)

Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.

Trong lời kinh, chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực.

Đức Giêsu đã phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, là xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.

Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).

Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.

* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)

Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.

Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?

Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?

Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.

+ Kết luận

Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42; 23,34-46), bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là một lời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài quan hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.

2. Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.

3. Thiên Chúa không đẩy chúng ta vào cám dỗ với mục đích làm cho chúng ta rơi vào tội lỗi. Nhưng Ngài có thể thử thách chúng ta, có thể thử sự bền vững và chắc chắn của chúng ta. Với lời xin cuối cùng, chúng ta được mời gọi loại trừ mọi cao ngạo và tự phụ.

4. Như người bạn đến xin người láng giềng giúp cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng một lời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.

5. Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá. Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.

6. Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là một sự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài.

 

69.Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

GIÁO HUẤN VÀ CẦU NGUYỆN

Từ lời kinh ngợi khen Chúa Giêsu dâng lên Cha (10,21-22), chương 10 đã minh hoạ, bằng nhiều cách khác nhau, thái độ mà người môn đệ phải có đối với Thiên Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu cầu nguyện, rất thường được Luca nhắc đến, ở đây được dùng làm điểm xuất phát cho một lời yêu cầu. Giáo huấn Chúa Giêsu ban gồm ba phần: Kinh Lạy Cha, dụ ngôn người bạn quấy rầy và việc áp dụng dụ ngôn.

1. KINH LẠY CHA (11, 1-4)

Đây không phải là vấn đề cầu nguyện nói chung, cũng không phải cách thức cầu nguyện để lắng nghe một Đấng khác. Một môn đệ xin Chúa Giêsu một bản kinh để thêm vào những kinh chính thức của đời sống Do Thái và là lời kinh đặc điểm của nhóm các môn đệ giống như kinh mà chúng ta không biết rõ- vị Tẩy Giả dùng trong nhóm của ông. Ở Qumran, Luật Cộng đoàn của những người Esséniens có một thánh thi dùng cho nghi thức đón nhận những phần tử mới, vào dịp lễ Ngũ tuần (1QS, cột XI, hàng 2-15).

Bản Kinh Lạy Cha mà Luca có được ngắn hơn Mt 6,9-13; Nó gồm một lời khẩn cầu, hai ước mong và ba lời thỉnh nguyện. Trước hết, người môn đệ được mời gọi, được quyền xưng hô với Thiên Chúa bằng cách dùng cũng một ngôn ngữ mà Chúa Giêsu dùng trong lời nguyện của Ngài: “Lạy Cha” (x. 10,21); quan hệ thẳm sâu giữa họ với Chúa phải chăng đã không được mặc khải rồi sao (x.10,22)? Tiếp theo là hai lời ước nguyện cũng có trong kinh nguyện Do Thái Qaddish: sự hiển thánh tôn Danh (xin Thiên Chúa đích thân can thiệp và tự mặc khải như Thiên Chúa cách tỏ tường, xin Ngài tỏ mình ra!) và việc Vương quốc đến (xin Chúa thân hành đến và bày tỏ sự hiện diện cao cả và hoạt động của Ngài!). Dưới hai hình thức khác nhau, cũng một lời khẩn cầu thống thiết được nói lên: “Lạy Cha, xin hãy đến!”; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (c.2).

Chỉ trong giai đoạn hai các môn đệ mới nêu lên ba lời thỉnh cầu cho họ, với tư cách là cộng đoàn (việc dùng tiếng chúng con, các câu 3-4). Thỉnh cầu thứ nhất nói đến lương thực cho họ cần hằng ngày để sống trên đời. Ở đây có một ám chỉ về manna, thứ bánh từ trời đã nuôi dân Chúa trong cuộc xuất hành và, theo như sự mong đợi của người Do Thái, sẽ lại được ban làm thực phẩm cho cộng đoàn của thời đại cuối cùng. Trong Tin Mừng Luca, bánh sự sống này, các tín hữu được mời gọi kêu xin cho mỗi ngày. Thỉnh cầu thứ hai, xin Chúa đoái thương tha tội chúng ta! Đó là điều tuyệt đối cần thiết để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa đang đến, mà không bị chết ngay vì sự thánh thiện chói sáng của Ngài. Sự tha thứ của Chúa là một hồng ân nhưng không mà chẳng bao giờ có ai xứng đáng lãnh nhận; nhưng ít ra phải có khả năng để đón nhận. Mà từ chối tha thứ cho kẻ khác, phải chăng không là nguy cơ làm cho thiếu khả năng đón nhận được ơn Chúa tha tội? Một lời xin cuối cùng xin cho chúng ta khỏi bị cám dỗ chối bỏ, khước từ Chúa Giêsu Kitô (x. 8,12; 22,40).

Điều đáng ngạc nhiên nhất trong kinh Lạy Cha là: Khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, nó không nói một tiếng về Con mà Cha đã sai đến. Không nói gì đến Chúa Kitô ở đây là một trong những điều có ý nghĩa hơn cả: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha. Chúng ta cũng để ý một sự thinh lặng khác nữa. Trong khi mà lời kinh có tính phổ quát nhất trong các kinh nguyện của người Do Thái, kinh Qaddish, nhắc đến “nhà Israel”, đôi khi “thành Giêrusalem”, “Thánh điện” và “Đất” thánh, thì ở đây không có một ghi chú nào về địa lý. Các nơi Thánh không còn hiện hữu nữa; mọi dân tộc có đọc kinh này.

2. DỤ NGÔN NGƯỜI BẠN QUẤY RẦY (11, 5-8)

Qua dụ ngôn này thánh sử đưa ra ánh sáng một khía cạnh của kinh Lạy Cha: đó là một lời cầu nguyện xin ơn. Mà trong lĩnh vực này, phải biết tỏ ra kiên trì đối với Thiên Chúa, điều này rất quan trọng dưới cặp mắt của Luca, và ông sẽ lặp lại giáo huấn này ở 18,1tt bằng một dụ ngôn khác.

Vấn nạn ban đầu bắt buộc thính giả phải có một phương diện cá nhân, trong khi chính Chúa Giêsu sẽ nói rõ rệt về việc áp dụng dụ ngôn (xc.8). Toàn bộ trình thuật cho thấy rõ những tương quan của con người đối với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Sẽ sai lầm khi tách rời từng yếu tố và, chẳng hạn tưởng tượng rằng lời cầu nguyện của con người thức tỉnh Thiên Chúa hoặc là Thiên Chúa chỉ đáp lại để khỏi bị quấy rầy. Dụ ngôn nói đến ba nhân vật. Anh chàng lì lợm có hai người bạn không quen biết nhau. Nếu anh ta đến gõ cửa nhà một trong hai người vào giữa đêm tối để mượn bánh, có nghĩa là người kia ở xa vừa đến nhà anh ta bất ngờ và xin tạm trú. Người lữ hành này đi đường vào buổi chiều và một phần ban đêm để tránh cái nóng ban ngày. Hãy để ý: anh bạn mà người đang ngủ bị đánh thức dậy muốn đuổi khéo không xin gì cho anh ta cả, và chính anh ta mới là kẻ bị người khác đến bất ngờ gây rắc rối nhất! Anh ta kêu gọi nhân danh tình bạn để được ba ổ bánh, nhưng người kia từ chối giúp đỡ anh ta, không gọi anh ta là”bạn” và không muốn làm cho con cái phải thức giấc. Kết luận của Chúa Giêsu đi từ chính việc từ chối hành động vì tình bạn, hơn một lý do khác khiến người đang ngủ cho điều mà người kia cần: đó là tính cách lì lợm của kẻ đi xin. Sự kiên trì đã được trả giá.

3. ÁP DỤNG DỤ NGÔN (11, 9-13)

Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn một cách long trọng (c.9a) bằng cách mở rộng phạm vi của cầu nguyện kể trong dụ ngôn. Giáo huấn ở đây được lấy từ Nguồn các lời. Ngài mời gọi các môn đệ cầu nguyện (c.8) khởi đi từ một giả định về sự khôn ngoan nhân loại (c.9). “Tìm” là một từ được dùng trong Kinh Thánh để gợi lên sự cầu nguyện (x. Thánh vịnh 24,6; 27,8). Như cách làm của một hiền nhân, Chúa Giêsu gợi lên ba hình thức cầu xin: xin, tìm, gõ rồi kết quả của từng việc đó. Tuy nhiên Ngài không nhấn mạnh đến sự kiên trì của con người nhưng đến hồng ân của Thiên Chúa; ba động từ ở thể thụ động quy chiếu về hành động của Chúa: thì sẽ được ban cho anh em (chứ không phải “anh em sẽ nhận được”) thì sẽ mở cho (hai lần), con người phải tin cậy và Đấng cho và mở.

Hai minh hoạ được đưa ra để biện minh cho một lòng tin cậy như thế (c. 11-12). Như trong dụ ngôn, một câu hỏi hùng biện được dùng để trực tiếp chất vấn thính giả: Người cha nào trong anh em…? Từ liên hệ giữa bạn hữu mà dụ ngôn vừa mô tả Chúa Giêsu nói tới liên kết giữa một người cha với đứa con của ông. Cái lý luận tiên thiên, dẫn từ một cách cư xử mâu thuẫn với cách cư xử của kẻ có ý thức, dựa vào giống nhau bề ngoài giữa con rắn và và con cá, giữa con bò cạp và quả trứng. Và lại không có người cha nào trên đời làm con mình thất vọng khi chơi cái trò dối gạt đó. Phải chăng đó không là kinh nghiệm thường ngày của từng người?

Phải rút ra bài học (c.13) bằng cách giải thích việc so sánh giữa Cha trên trời và một người cha trần thế. Không thể có mức độ giống nhau giữa lòng nhân từ của Thiên Chúa và lòng tốt của cha mẹ trần gian. Như vậy, ta phải kết luận rằng những hồng ân của Ngài vô cùng cao quý hơn. Trong khi Nguồn các lời, mà thánh sử dùng cho các câu 9-13, khẳng định: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11), thì hồng ân tối hảo mà Chúa Cha ban cho con cái Ngài được Luca xác định rõ: đấy là Thánh Thần. Thực ra, Chúa Thánh Thần sẽ xuất hiện trong Công vụ, như một hồng ân đặc biệt của việc Thiên Chúa vào thời cuối cùng (Cv 2,33-38).

 

70.Chú giải của Noel Quesson

Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông

Khi nhìn thấy Người cầu nguyện... họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động... và, bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện lâu! Người là “vị thầy của sự cầu nguyện” không chỉ vì Người cho những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.

Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên... cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên... cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người... không Chúa, không Thầy... bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm...

Lạy Đức Giêsu, xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.

Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha…”

Dân Do Thái đã gọi Thiên Chúa bằng “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v...).

Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba”! “ba ơi”.., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Người là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17).

Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển...

Trong Kinh Thánh, “danh” là để biểu hiện ngôi vị…Sự “thánh thiện” là điều làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).

Vậy trước khi nói với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.

“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên... xin Cha chỉ cho chúng con biết Cha là Chúa Cha... vô cùng và tuyệt đối là “Cha”... một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15).

Triều Đại Cha mau đến...

Lời cầu xin thứ hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến 21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!

Chủ đề “Triều đại của Thiên Chúa” hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia 11,1-9, - 33,17-24 - 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua trần thế chỉ là các “đại diện”, vương quyền thuộc về một mình Thiên Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực sự trị vì.

Vào thời của Đức Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần”.

Đức Giêsu công bố rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng không phải một cách huy hoàng... như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 - 13,24-31,36-50).

Vì thế rõ ràng chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.

Ở đây chúng ta hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu. Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và... nhưng cứu chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến. Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ... trên nền tảng một sự thống nhất chung.

Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy

Trước hết, sau khi đã lấy các “dự án của Chúa Cha” làm dự án của chúng ta giờ đây chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho chúng ta ba điều: lương thực... sự tha thứ... sự tự do đối diện với cái chết...

Ở đây cũng vậy, Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Luca có lẽ sống với một cộng đoàn Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy... “ Lời cầu nguyện này rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Từ ngữ Hy Lạp “épiousios” mà người ta đã dịch là '“mà chúng con cần” chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm bánh cần dùng!”.

Lời cầu nguyện này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.

Lời cầu nguyện này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ “chúng con” mà chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền đọc “Kinh Lạy Cha” chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực... Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương thực với những người đang đói.

Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con

So với công thức của Mát-thêu, Luca đã xác định từ “lỗi” khi dịch ra bang từ “tội”: Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca đã thêm từ “tất cả”, để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.

Ôi! sự tha thứ ấy là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc 23,34 - 6,36; Mt 11,19-26,28 - 6,14-18 - 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh nguyện của tôi... tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho “tất cả những người đã có lỗi với tôi”. Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.

Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ

Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là “đánh mất Đức tin”, “bỏ rời Đức Giêsu”. Thử thách to lớn ấy đã khiến Đức Giêsu phải nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dữ… Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác, để chinh phục tự do... và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị “khuất phục”, bị trói buộc và tha hoá!

Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: `Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả'; mà người kia từ trong nhà lại đáp: `Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.'? Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Đây là kho tàng duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!

 

71.Chú giải của William Barclay

XIN DẠY CHÚNG CON CẦU NGUYỆN (11, 1-4)

Rapbi Do Thái thường dạy môn đệ một bài cầu nguyện đơn sơ. Gioan đã làm như thế cho môn đệ của ông và bây giờ các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến xin thầy mình dạy cầu nguyện. Đây là bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy, được Luca ghi lại. Bài này ngắn hơn bài của Matthêu nhưng cũng đầy đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện gì.

1. Nó bắt đầu bằng sự xưng nhận Thiên Chúa là Cha, lời mà mọi Kitô hữu thưa với Chúa (xem Gl 4,6; Rm 8,15; 1Phêrô 1-17). Chính lời đầu tiên này dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện, chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, song đến với một người hằng vui thích thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.

2. Trong tiếng Do Thái, chữ “tên” hay “danh” có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ “danh” gồm tất cả đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh Vịnh 9,10 nói: “Phàm ai biết Danh Ngài sẽ để lòng trông cậy nơi Ngài”. Câu đó có nghĩa sâu hơn chứ không biết tên Thiên Chúa là Giavê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu điều tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.

3. Chúng ta chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu đã dạy. Trước khi xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.

4. Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.

a. Nó bao trùm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin lương thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện xưa về manna trong đồng vắng (Xh 16,11-21). Dân Chúa chỉ được lượm manna đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.

b. Nó bao trùm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện, chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân đến trước Thiên Chúa vô cùng thánh thiện.

c. Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta chỉ có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban.

Có người nói: Bài cầu nguyện của Chúa có hai lợi ích lớn cho giờ cầu nguyện riêng của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta cầu nguyện một cách xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin Chúa.

CẦU XIN THÌ SẼ ĐƯỢC (11, 5-13)

Trong xứ Palestine, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên phương Đông, tiếp khách là một bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn nội trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ bị cũ đi và không ai muốn ăn.

Vị khách nói trên đã đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối, vì thức ăn đã hết, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dù đêm đã khuya, chủ nhà cũng đã đi tới nhà bạn vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên phương Đông, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng, cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu hiệu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người đi vay bánh đã không e ngại, ông gõ cửa và cứ gõ mãi.

Căn nhà nghèo ở xứ Palestine chỉ có một căn phòng với cửa sổ nhỏ. Nếu nhà bằng đất phủ che khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng đất. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và nằm cạnh nhau cho ấm. Khi một người thức dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Không lạ gì, trong cảnh đó, người vay bánh quyết tâm cứ gõ mãi, “gõ hoài không biết xấu hổ” –đó là ý nghĩa của từ Hy Lạp được dùng- cho tới khi chủ nhà đành dậy để cho người kia mọi nhu cầu, dù sao cả gia đình cũng bị quấy rối.

Chúa Giêsu nói: “Câu chuyện này dạy các ngươi về cầu nguyện”. Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa cho đến khi ép buộc được Chúa cực chẳng đã, đành ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng bách được Chúa trả lời chúng ta. Một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí, mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi một quyết tâm của người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào!” Chúa Giêsu phán “Nếu các ngươi vốn là xấu mà còn biết mình có bổn phận tiếp trợ nhu cầu cho con cái, huống chi Thiên Chúa”.

Điều này không làm chúng ta giảm bớt hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dù sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giựt các ơn huệ từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn để dành cho chúng ta. Không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời-cầu-nguyện-không-được-nhậm. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi. Dù Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.

 

72.Suy niệm của Lm. Đan Vinh

KINH LẠY CHA VÀ NHỮNG YẾU TỐ CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Theo đề nghị của môn đệ, Đức Giêsu đã dạy các ông Kinh Lạy Cha và 3 lời khuyên về sự cầu nguyện như sau: Một là lời cầu nguyện phải vừa tâm tình lại vừa ngắn gọn phong phú. Hai là phải kiên trì cầu xin. Ba là phải vững tâm và phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.

CHÚ THÍCH:

- C 1-2a: + Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia: Thánh Mat-thêu đặt Kinh Lạy Cha trong khung cảnh Bài giảng trên núi" (x. Mt 6,5-15). Còn ở đây thánh Lu-ca không nói về thời gian và nơi chốn của Kinh Lạy Cha, mà chỉ cho thấy có liên quan giữa gương cầu nguyện của Đức Giêsu với việc Người dạy môn đệ cầu nguyện.

- C 2b-4: + Lạy Cha: Lời xưng hô mở đầu đơn giản hơn trong Tin mừng Mát-thêu. Khi gọi Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu muốn dạy môn đệ khẩn cầu với Thiên Chúa như với một người Cha rất gần gũi thân thương. + Xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển: Xin cho Danh Cha được nhìn nhận là thánh, vì Cha là Đấng Thánh. Đây là lời ước nguyện cho hết mọi người được nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa. + Triều đại Cha mau đến: Triều đại ám chỉ Hội thánh trần thế hữu hình. Ở đây xin cho Hội thánh được lan truyền khắp nơi, cho Vương quốc của Thiên Chúa được mọi người đón nhận.- Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy: Xin Chúa ban thực phẩm cần dùng hằng ngày. Của ăn nuôi thể xác là cơm ăn áo mặc và của nuôi linh hồn là Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và Thánh Ý Chúa (x Ga 6,34). + Xin tha tội cho chúng con: Lu-ca đổi chữ "lỗi" trong Mát-thêu (x. Mt 6,12) thành chữ "tội". Hai từ "tội, lỗi" tiếng Hy lạp còn có nghĩa là "nợ". Tội là trở ngại lớn nhất cho Triều đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ yêu thương, nên cần phải xin Cha tha tội. + Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con: Tha thứ cho người mắc lỗi với mình là điều kiện để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình (x Lc 23,34; Mt 6,14; Mc 11,25). + Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ: Cám dỗ nguy hiểm nhất của ma quỷ là xúi người ta chối bỏ đức tin. Do đó Đức Giêsu kêu gọi "Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc 22,40).

- C 5-8: + Người còn nói với các ông: "Ai trong anh em có một người bạn."..: Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người bạn quấy rầy để dạy môn đệ phải kiên nhẫn nài xin và đừng bao giờ ngã lòng khi xin mà chưa nhận được. Kiên trì xin đi xin lại là điều kiện để lời cầu của ta được Thiên Chúa chấp nhận. Thiên Chúa sẽ không ban ơn để khỏi bị quấy rầy giống như người chủ nhà trong bài dụ ngôn. Khi không ban ngay điều ta xin là Người để ta có dịp tỏ ra kiên nhẫn tin tưởng cậy trông và phó thác hơn vào Người. + Vì thể diện: Câu chuyện dụ ngôn xoay quanh ba nhân vật như sau: Nhân dịp có một anh bạn A lỡ đường ghé lại trọ tại nhà của bạn mình là B. Anh B liền chạy sang nhà anh C cũng là bạn để xin vay ba cái bánh về nhà đãi khách. Anh C khi ấy đã vào giường ngủ rồi và rất ngại phải ra khỏi giường lấy bánh cho bạn mình. Nhưng vì anh B cứ kêu nài mãi nên cuối cùng anh C đành phải ra khỏi giường thỏa mãn tất cả những gì anh B cần, với lý do: dù không phải do tình thân hữu thúc đẩy thì cũng vì sợ sẽ bị mất thể diện, sợ bị mang tiếng là ích kỷ vì đã từ chối giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn. Từ đó Đức Giêsu muốn các môn đệ nhớ đến Thiên Chúa là Cha. Người sẽ ban điều tốt lành và cần thiết là ơn thánh hóa của Thánh Thần, cho những kẻ thành khẩn và kiên trì cầu xin Người.

- C 9-13: + Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho...: Lời cầu nguyện là điều kiện cần để được Chúa nhậm lời: Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai xin, ban đức tin cho những ai đi tìm, và sẵn sàng rộng mở Nước Trời cho những ai kiên trì gõ cửa nhà Người. + Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó?: Đức Giêsu cho biết Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta, vì Người là Cha nhân hậu và hay thương xót hơn các người cha thế gian bội phần. + Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời: Đức Giêsu so sánh giữa tình thương có giới hạn của các bậc cha mẹ thế gian vốn gian ác, với tình thương vô biên của Thiên Chúa là Cha thánh thiện và đầy từ tâm. + Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người: Ơn Thiên Chúa ban cho những kẻ kêu xin Người là "Thánh Thần", tương đương với "những của tốt lành" trong Mát-thêu (Mt 7,11). Chính "Thánh Thần làm cho ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên "Áp-ba! Cha ơi!" (Rm 8,15).

CÂU HỎI: 1) Dựa theo lời Đức Giêsu dạy trong kinh Lạy Cha, bạn hãy cho biết: Cầu nguyện là gì? Phải cầu nguyện với ai và cầu khi nào? Nên cầu xin những gì? 2) Có được cầu xin ơn với Đức Mẹ và các thánh không? 3)Trong thực tế có nhiều người không có đức tin chẳng cần cầu xin mà thi cử vẫn đậu, buôn bán vẫn thành công, uống thuốc vẫn khỏi bệnh, gieo trồng đúng thời vụ vẫn bội thu... Đang khi nhiều tín hữu siêng năng cầu khấn mà vẫn không đạt được kết quả như ý. Như vậy phải chăng chẳng có Chúa Mẹ nào hết và cầu nguyện chỉ là một sự mê tín và là điều vô ích?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 11,9).

2. CÂU CHUYỆN:

Có một bác sĩ gốc công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện và không đến nhà thờ dự lễ từ năm lên 10. Một hôm bệnh viện của ông ta tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải được mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng: "Này em, bệnh em cần phải mổ. Bây giờ em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em". Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ có lòng đạo đức huấn luyện thói quen cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Khi nghe bác sĩ nói sắp phải đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép và quì gối đọc kinh rồi cuối cùng kết thúc bằng lời cầu nguyện như sau: "Xin Chúa chúc lành cho chú bác sĩ và xin Chúa cho con được mau khỏi bệnh". Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng: chiều hôm đó ông đã cầu nguyện thật sốt sắng, một việc làm mà sau ba mươi năm trời lãng quên, đến nay ông mới bắt đầu làm lại.

3. SUY NIỆM:

1) Cầu nguyện là gì?:

Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, như tổ phụ A-bra-ham trong bài đọc một hôm nay, hoặc như Đức Giêsu đã dành lúc sáng sớm tinh sương hoặc đêm khuya thanh vắng để đàm đạo với Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Cả đời sống của Đức Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ. Khi làm bất cứ việc gì, hay trước khi quyết định điều gì quan trọng, Đức Giêsu đều cầu nguyện để tìm biết ý Chúa Cha và thi hành. Khi đựoc môn đệ yêu cầu, Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha hàm chứa những tâm tình như sau:

2) Nội dung lời cầu Chúa dạy trong kinh Lạy Cha:

- Qua lời thưa: "Lạy Cha", Đức Giêsu dạy môn đệ phải thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như đứa con hiếu thảo tâm sự với người cha thân yêu của mình.

- Nội dung lời cầu nguyện Chúa dạy bao gồm bốn tâm tình chính yếu: Một là Chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa qua câu: "xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến" ( Lc 11,2 ). Hai là tâm tình Ăn năn sám hối vì những tội ta đã xúc phạm đến Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót qua câu: "Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con" ( Lc 11, 4). Ba là cảm tạ hồng ân Chúa đã thương ban, và bốn là xin các ơn lành hồn xác qua câu: "Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy" ( Lc 11,3), và "xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ" (Lc 11,4).

3) Cần câu nguyện voi lòng cậy trông phó thác:

Sau khi dạy môn đệ kinh Lạy Cha, Đức Giêsu còn khuyên họ phải kiên nhẫn cầu nguyện với lòng cậy trông và hòan tòan tín thác vào tình thưong của Thiên Chúa.

- Kiên nhẫn nài xin: như dụ ngôn hai người bạn mà người này giữa lúc đêm khuya tìm đến nhà người kia yêu cầu được giúp đỡ. Lúc đầu bị chủ nhà từ chối với lý do cả nhà đã ngủ. Nhưng cuối cùng chủ nhà cũng phải trỗi dậy lấy bánh cho người kia để tránh khỏi bị quấy rầy.

- Tín thác vào Chúa: Có những điều chúng ta cầu xin mà xem ra đã không được Chúa đáp ứng. Thực ra Chúa chưa ban là do chúng ta còn thiếu sụu kiên trì và thành tâm. Hoặc Chúa không ban không phải vì không muốn, nhưng có thể Ngài thấy điều đó không có lợi cho ta. Bù lại, Ngài sẽ ban những ơn khác đem lại hạnh phúc đời đời cho ta như lời Đức Giêsu dạy ở cuối bài: " Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó?... Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" ( Lc 11,11.13).

4) Áp dụng thực hành:

- Phải làm mọi việc với hết khả năng của mình: Thiên Chúa là Cha chung của mọi người lành kẻ dữ (x Mt 5,45b). Ngài muốn mọi người cộng tác bằng việc tuân theo các quy luật tự nhiên do Ngài sáng tạo là các quy luật tự nhiên như: Phải học hành chăm chỉ mới mong thi đậu, phải uống thuốc đúng liều lượng theo toa bác sĩ mới hy vọng được khỏi bệnh, phải gieo trồng đúng thời vụ và đúng theo kỹ thuật mới hy vọng một mùa gặt bội thu... Trừ ra trong vài trường hợp vì ích lợi thiêng liêng mới được Ngài can thiệp làm phép lạ mà thôi. Do đó chúng ta không được ỷ nại vào tình thương và quyền năng của Chúa để lười biếng làm việc, và chỉ biết xin Chúa ban ơn theo ý riêng mình.

- Phải vừa cầu nguyện vừa vâng theo ý Chúa: Chúng ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện, và phó thác kết quả thành bại cho Chúa, noi gưong Đức Giêsu trước giờ chịu khổ nạn đã cầu xin Chúa Cha: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39). Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy môn đệ cầu nguyện theo ý Chúa Cha: "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Chúng ta cần vâng theo ý Chúa vì chỉ Ngài mới biết điều nào tốt nhất cho ta. Nhiều khi chúng ta xin được trúng số mà không biết tiền bạc đó là rắn độc làm hại linh hồn mình sau này. Nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa ban ơn lành mà trái lại chúng ta lại gặp tòan tai ương họan nạn... Nhưng thực ra các tai ương đó chính là thuốc đắng chữa lành thói hư: "thuốc đắng dã tật". Đó cũng là phương cách Chúa dùng để dạy dỗ chúng ta bỏ đương tội ác để theo con đường thánh thiện đẹp lòng Chúa.

- Phải mở lòng đón nhận Thánh Thần: Cần phải có đức tin chúng ta mới hiểu rằng: khi thành tâm cầu nguyện là ta đã được Chúa nhận lời rồi. Nhưng Chúa thường ban ơn khác với điều ta nghĩ. Phải sau một thời gian, chúng ta mới có thể nhận ra các biến cố kia đều là hồng ân Thánh Thần, được Chúa thương ban để đem lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

4. THẢO LUẬN: 1) Gặp một người đau khổ, bạn nên khuyên giải họ dưới lăng kính đức tin như thế nào? 2) Bạn nên phản ứng thế nào khi cầu xin những điều chính đáng mà lâu ngày vẫn chưa được Chúa ban cho như ý?

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu. Con xin thú thật là con ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của lời cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại mỗi khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.

- Lạy Chúa. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn sống hiếu thảo với Chúa Cha, năng dành thời gian thưa chuyện với Cha, lắng nghe lời Cha trong Sách Thánh và sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha, tránh lợi dụng lòng khoan dung của Cha. Xin cho con luôn sẵn sàng cộng tác cho Nước Cha mau đến. Con xin phó thác cậy trông vào lòng nhân hậu của Cha luôn ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ban Thánh Thần để giúp con đón nhận được hồng ân cứu độ và được hạnh phúc đời đời trong Nước Cha.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

73.Cầu nguyện - Fr. Jude Siciliano, OP.

Thưa quí vị. Có lẽ mọi người đã được nghe về sự tích thành Sôđôma và Gômôra. Hai thành cổ xưa đứng biểu tượng cho mọi giống tội lỗi. Những người còn tư cách, còn lương tâm chẳng bao giờ muốn đến cư ngụ hoặc tham quan hai thành ấy. Ngày nay muốn nguyền rủa phần đất nào hay thành phố nào người ta so sánh nó với Sôđoma và Gômôra và chúc dữ cho nó bị tàn phá bình địa như hai thành ấy. Có điều lạ là trong bài đọc sách Khở? nguyên hôm nay, Chúa không đòi hỏi hai thành ấy phải xám hối, mặc áo nhặm và rắc tro trên đầu mà chỉ cần ông Abraham tìm ra 10 người công chính. Nếu ông tìm được, toàn dân cư của thành sẽ được tha, thành không bị tàn phá nữa. Liệu những người công chính sống giữa chúng ta có cứu chúng ta khỏi bị tiêu diệt không? Có lẽ là khỏi bàn tay báo oán của Thiên Chúa, nhưng không thể khỏi chính những bàn tay của chúng ta! Những tiếng kêu của những nhà thức thời trên đất nước này có cứu chúng ta khỏi những vô độ về bạo lực, về thù oán giang hồ, về hưởng lạc, về tai họa môi sinh?.Liệu những tiếng dai dẳng của lương tâm mời gọi chúng ta bỏ đường tội lỗi, đường tự hủy để quay về với Thiên Chúa có được mọi người lắng nghe? Một số ít người Do thái sống rải rác trên khắp các đế quốc lúc bấy giờ đã nhận ra mình có nhiệm vụ thức tỉnh mọi người quay về thờ phượng Thiên Chúa. Mặc dù chỉ là thiểu số nhỏ bé, chẳng có ý nghĩa gì trước đại dương mênh mông các dân tộc chung quanh nhưng họ đã là ánh sáng soi chiếu vào bóng tối của một thế giới thờ hàng ngàn thần tượng gỗ đá hoặc thờ chính mình trong các dục vọng thấp hèn.

Như thế thì câu chuyện hôm nay thật là hấp dẫn, Abraham và Sara đã được Thiên Chúa viếng thăm dưới dạng ba người lữ khách (Giavê và 2 người bạn?) Abraham đã tiếp đãi các vị nồng hậu, và sau đó Chúa đã báo cho Sara có con trai trong vòng một năm, mặc dù cả hai đã gìa, qúa tuổi sinh nở. Abraham đã tiễn chân ba vị đi về phía thành Sôdôma, và sau mấy phút suy tư Chúa quyết định cho ông biết chương trình phá hủy thành phố. Abraham can thiệp, cầu xin cho các thành phố, chỉ một vài người công chính là đủ để cứu nguy cho dân chúng trong thành, nhưng chẳng có, thế là thành bị phá hủy, dân cư bị tiêu diệt! Ai sẽ cứu chúng ta, cứu Giáo hội khỏi số phận tương tự?

Khi nghe câu hỏi tự dưng bạn sẽ mỉm cười trả lời: thì còn ai nữa , những người công chính! Nhưng chính xác là ai thì bạn lại chẳng biết. Người Do thái sẽ trả lời rõ cho bạn. Hậu duệ của Abraham. Trong bài đọc thứ nhất Abraham đứng ra can thiệp cho thành Sôđôma, trong bài đọc thứ hai đó là chính Chúa Giêsu. Theo Th.Luca, thì Chúa Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều, và cầu nguyện một cách lạ lùng đến độ các tông đồ phấn khởi, xin Chúa dậy cho mình cũng cầu nguyện được như thế.

Tuy nhiên để nắm bắt phần nào cách cầu nguyện của Chúa Giêsu chúng ta hãy trở lại câu chuyện của ông Abraham. Ông đi song đôi với Chúa như một người bạn hữu, mặc cả với Chúa cho dân thành Sôđôma như chúng ta mặc cảmột món hàng giữa chợ và ông đã được nhận lời , Chúa đã nhân nhượng ông chứ không phải ông nhân nhượng Chúa. Cử chỉ can đảm thương lượng của ông làm Chúa mềm lòng và chúng ta thán phục. Chẳng có thần thánh nào trên thế gian này giống như thần thánh của ông Abraham, thân mật và rộng lượng. Ông đứng trước mặt Chúa như một tiên tri, cầu khẩn cho những người công chính khỏi chết và Chúa đã cho gia đình ông sống sót một cách lạ lùng. Bất cứ thần linh nào trên mặt đất cũng phải ngạc nhiên trước cảnh nài nỉ của Abraham.

Chúa Giêsu cũng cầu nguyện như vậy trên con đường Ngài lên Giêrusalem: Ngài đã cầu nguyện liên tục trong mỗi chặng đường đi. Có nhiều kẻ theo Ngài và Ngài không rời xa các môn đệ. Chắc chắn là họ đã từng cầu nguyện theo thói tục Do thái, nhưng nơi Chúa Giêsu họ khám phá ra có cái chi đó đặc biệt, một mối liên hệ thân mật và khăng khít giữa Ngài và Thiên Chúa. Họ mạnh dạn tiến lại:"Xin Thầy dậy chúng con cầu nguyện."Thánh sử Luca đa thu thập những lời cầu nguyện của Ngài trong một kinh duy nhất:"Lạy Cha chúng con ở trên trời.". Nhưng ở đây chúng ta thấy khác với kinh của thánh Matthêu? Vậy thì ai đúng ai sai?

Hình như các tác gỉa viết sách tin mừng chẳng để ý mấy đến công thức chính xác của lời kinh, các ngài chú ý nhiều hơn đến tinh thần mà lời kinh chứa đựng. Có lẽ đây là điều họ học được từ Chúa Giêsu. Họ xin Ngài dậy cho họ biết cầu nguyện, chứ không xin dậy cầu nguyện cái chi, cho nên Ngài dậy ngay họ tâm tình cầu nguyện thân mật với Chúa Cha:"Lạy Cha chúng con ở trên trời.". "Abba" là tiếng của con trẻ gọi cha mình, chẳng còn chi hiếu thảo và thân mật hơn. Ðó là phương thức chúng ta phải cầu nguyện. Abraham cầu nguyện như nói chuyện với một người bạn chí thân. Chúa Giêsu cầu nguyện như thưa gởi với một người cha yêu dấu. Ngài giữ mãi tâm tình này trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem và ngay cả trên cây thánh gía: Cha ơi, sao Cha bỏ con!

Hằng ngày chúng ta ký thác vào tay cha mẹ để được cơm ăn, áo mặc và chúng ta chẳng bao giờ thất vọng. Hằng ngày người môn đệ Chúa phải tỏ bày sự lệ thuộc và tin tưởng vào Ngài để có bánh ăn. Như thế thì đói khát thế nào được! Chúa chẳng thể thua lòng quảng đại của các bậc cha mẹ nhân loại! Có chăng, là do bởi chúng ta yếu lòng tin cậy, nghi ngờ quyền phép Chúa. Cô Patricia D.Sanchez nói với các thính gỉa của cô thế này:"Bánh này được luôn luôn phân phát và mỗi khi chúng ta xin là chúng ta liên tục tỏ bày sự lệ thuộc của chúng ta vào Chúa để được sống, chúng ta được chúc lành, được nâng đỡ, hôm nay, ngày mai và cho đến muôn đời". (Cử hành thánh lễ tháng 7 năm 2001).

Có hai dụ ngôn để minh họa cho lời giảng dậy của Chúa Giêsu. Dụ ngôn thứ nhất là người bạn có nhu cầu vào lúc nửa đêm. Ông biểu trưng cho sự kiên trì, bền chí.Chẳng phải rằng chúng ta cần nói cho Chúa biết những nhu cầu của chúng ta. Ngài đã vững trong lời kêu xin. Cầu nguyện là lợi ích cho chúng ta hơn lợi ích cho Chúa. Nếu không kiên trì thì tính nhẹ dạ sẽ đưa chúng ta đến van xin hết ông bụt này đến bà chúa kia, đi lang thang khắp cùng trời đất để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Trái với người đàn ông nằm ngủ trên giừơng. Thiên Chúa không hề làm ngơ trước những nhu cầu của chúng ta, người nhậy cảm với những thiếu thốn của con cái Ngài hơn cả các cha mẹ thế gian, vấn đề là cầu nguyện không giống như tắt mở công tắc điện mà phải liên tục kêu xin, gõ cửa để dậy cho mình tính lệ thuộc Thiên Chúa trong hết mọi sự. Bàn tay yêu thương của Ngài sẽ ban phát cho chúng ta những ơn lành chúng ta cần đến. Xin luôn luôn nhớ là Chúa biết phải ban ơn gì và ban lúc nào và như thế là tốt nhất cho chúng ta, không cần phải sai khiến Ngài.

Dụ ngôn thứ hai nói rõ hơn về lòng nhân lành của Chúa. Cha mẹ thế gian không đời nào lấy rắn thay vì con cá, bọ cạp thay vì qủa trứng mà cho con cái khi nó van xin, cũng vậy Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn lành tốt nhất từ kho tàng tình thương của Ngài. Bà Elizabeth A.Johnson liệt kê ba ơn thiêng chúng ta thường được qua cầu nguyện.

1/. Sự gần gũi với Thiên Chúa. Khi không cầu nguyện chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa ngự nơi xa tắp, trên trời xanh hay trên những ngọn núi cao. Thực sự, Ngài ngự nơi tâm hồn chúng ta là chính,Ngài là Thiên Chúa hằng sồng, chúng ta sống ở trong Ngài, hiện hữu ở trong Ngài, ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn.

2/. Thiên Chúa không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, Ngài luôn bênh đỡ, ủi an các tù nhân, người bị áp bức, ban cho họ sự tự do nội tại mà không một ai có thể cướp đi được, sự giải cứu của họ chỉ có thể được nơi cánh tay dũng mãnh của TC như dân tộc Israel đã từng kinh nghiệm xưa.

3/. Nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa với chúng ta. Nhịp cầu thường bị tỗi lỗi, thói hư nết xấu bẻ gẫy, nhưng qua cầu nguyện Chúa Thánh Thần sẽ hàn gắn lại, Ngài ban cho nhân loại lòng thống hối ăn năn, biết nhận lỗi mình mà kêu xin lòng thương xót Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động giúp chúng ta thắng vượt mọi chia rẽ, mọi nghi nan để đoàn kết nên một trong công bình và bác ái.

Tóm lại, các bài đọc thánh lễ hôm nay nêu lên trước mắt chúng ta những mẫu gương cầu nguyện. Ông Abraham nài nỉ trược nhan Chúa cho thành Sôdôma và Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải cầu nguyện thế nào cho được nhận lời. Ngài bảo đảm với nhân loại có một lời cầu xin luôn được chấp nhận. Ðó là Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đầy lòng trông cậy mà kêu xin, Chúa Thánh Thần luôn ngự xuống linh hồn, dậy chúng ta biết xin gì, xin thế nào và khi nào vì Ngài chính là một ân huệ luôn được ban phát. Ngài chẳng làm thất vọng một ai. Amen.

 

74.Kiên trì cầu nguyện

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Lc 11: 1-13: Cầu nguyện là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương.

Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.

Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.

Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ... Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.

Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: "Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp". Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.

Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Tin Mừng theo Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu (6, 9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Tin Mừng được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.

Ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.

Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.

Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho" (Lc 11, 9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: "Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta".

Cầu nguyện là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.

Ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: "Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời".

Ý muốn của Thiên Chúa còn là "cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày", có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ... Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.

Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.

 

home Mục lục Lưu trữ