Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 130
Tổng truy cập: 1743979
CỬA RÀN CHIÊN
CỬA RÀN CHIÊN
Chương 10 Phúc Âm Gio-an chia thành hai mảng đề tài: Mục Tử nhân lành và Lễ Cung Hiến đền thờ. Mảng đề tài thứ nhất lại đưa ra hai hình ảnh: cửa ràn chiên (câu 1-10) và người mục tử nhân lành (câu 11-18). Phụng vụ ngày Chúa NhậtChúa Chiên Lành hôm nay triển khai hình ảnh thứ nhất là chính: “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Trong nội dung đó Đức Giêsu mới đề cập tới một hạng mục tử chân chính nào đó mà tiên quyết họ phải là những người ‘đi qua cửa’; ‘ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử’. Người xác định: chỉ những mục tử đi qua cửa mới có thể có các phẩm chất tốt đẹp như ‘chiên nghe tiếng anh…; gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra…; anh ta đi trước và chiên đi theo sau…; chúng nhận biết tiếng của anh…” Như vậy thì việc đi qua cửa trở thành dấu hiệu tiên quyết để Hội Thánh và mọi người nhận ra một mục tử chân chính; “người giữ cửa mở cho anh ta vào’, bởi vì bất cứ ai ‘trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp’.
Những ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế nào là ràn chiên và cửa ràn chiên. Người chăn chiên chuyên nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn vịt chạy đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không phải là một thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn (tiếng Anh chính xác dịch là ‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại được rào dậu bằng đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác nhau được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ có một người trực qua đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài. Sáng ra, các người chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện thuận thảo giữa chiên và người chăn dắt, anh giữ cửa hay trực đêm mới xác định được người chăn chiên đó quả thật là mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: tại sao Đức Giêsu lại so sánh mình với cửa ràn chiên trước cả khi giới thiệu mình là mục tử nhân lành?
Hãy nhớ rằng đám thính giả chính của các lời tự giới thiệu này là các Pha-ri-sêu, “Thật, tôi bảo thật các ông…” Nhóm này trong Gio-an chương 9 đã có cuộc đối chất căng thẳng với Đức Giêsu về việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Chính họ đã nêu lên lời phản bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Phải, chính với nhóm lãnh đạo này mà Đức Giêsu muốn xác định: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm kẻ cướp”.
Các Pha-ri-sêu nói riêng, các thượng tế và trưởng lão kinh sư Do Thái nói chung, dựa vào luật pháp mà Mô-sê đã ban hành mà biện minh cho vị thế lãnh đạo của họ; trong tư thế đó họ không quan tâm tới gì khác hơn là làm sao luật được cặn kẽ tuân giữ. Nhiều giai thoại đã cho thấy thái độ này làm cho các Pha-ri-sêu thường xuyên có thái độ cực đoan, xét nét và khắt khe với đám quần chúng, tới độ Đức Giêsu đã phải nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phai-ri-sêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào các người cũng không để cho họ vào!” (Mt 23 13) Vấn đề chính ở đây là: đối với các Pha-ri-sêu, cũng như với bất cứ ai chăn dắt bằng luật pháp, sẽ không hề có cửa hoặc không thể có sự ra vào nào. Luật pháp tự nó bao giờ cũng đóng lại, cũng khép kín, và có khuynh hướng ngày càng chặt chẽ, bưng bít hơn.
Với những con người như thế, thật là ý nghĩa khi Đức Giêsu trịnh trọng tự giới thiệu: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào!” Đây quả là khác biệt một trời một vực giữa Tin Mừng cứu độ và tôn giáo của luật pháp: một bên là rộng mở, còn một bên là đóng chặt. Đức Giêsu đang giới thiệu mình như một Mô-sê mới, mới ở đây không có nghĩa là cùng một Mô-sê luật pháp được đánh bóng lại cho sáng đẹp hơn, nhưng là một tác phẩm hoàn chỉnh so với một phác thảo đầy những khiếm khuyết cần được chỉnh sửa, đôi chỗ là cơ bản; và có lẽ điểm cơ bản nhất chính là “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Luật pháp nào thì cũng không thể khảng định được điều này, trự phi đó là luật pháp của tình yêu, lòng nhân từ và cứu vớt. Thiết tưởng trước khi tự giới thiệu mình là Mục Tử nhân lành, Đức Giêsu đã sử dụng hình ảnh ‘cửa ràn chiên’ là để khảng định mình chính là luật pháp mới của lòng nhân từ và cứu vớt. Do đó Người lên tiếng quả quyết: “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Đương nhiên các Pha-ri-sêu không thể chấp nhận được lối lãnh đạo mới này, đơn giản là vì họ vẫn khư khư với luật pháp Mô-sê và không tin vào Đức Giêsu với thái độ ‘cứu vớt’ của Người (xem giai thoại chữa người mù từ thuở mới sinh Ga 9). Họ thậm chí lên tiếng kết án Người cách cay độc: “Ông ấy bị quỉ ám và điên khùng rồi, nghe ông ta làm gì!” (Ga 10,20)
Như thế đối tượng trước hết của bài Tin Mừng hôm nay chính là giới giáo sĩ chúng ta, được mệnh danh là linh mục, tức là mục tử của Đức Ki-tô. Là linh mục trong một Hội Thánh cứu độ thì luật pháp đối với tôi không được là gì khác hơn là Đức Ki-tô - ‘cửa ràn chiên’. Chính thông qua cửa đó, và chỉ qua cửa đó thôi mà công tác mục vụ của tôi được thi hành và triển khai. Giáo hội đã chẳng luôn nhắc nhở tôi: luật tối thượng của toàn bộ giáo luật chính là cứu vớt các linh hồn là gì? Chỉ có như thế tôi mới có thể là mục tử như lòng Chúa từ nhân mong muốn, “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra; khi đã cho chiên ra hết, anh đi trước và chiên đi theo sau vì chúng nhận biết tiếng của anh!”
Lạy Chúa là ‘cửa ràn chiên’, dầu con đã được học giáo luật… nhưng chính Chúa mới đích thực là cửa ràn chiên, là ‘giáo luật’ mà con phải ra vào trong công tác mục vụ của mình. Nếu chỉ quan tâm tới luật pháp, kể cả luật Hội Thánh, con vẫn luôn có nguy cơ trở thành như các Pha-ri-sêu ‘khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào’. Xin ‘Người giữ của’ mở cho con được vào ràn mỗi sáng tối khi con dâng Thánh Lễ, để qua đó các chiên sẽ không còn thấy tiếng con xa lạ mà chạy trốn. Ước gì chúng cũng luôn nghe được tiếng nói của lòng nhân ái và tự hiến của Chúa vang vọng nơi con! Amen.
18.Tôi là cửa
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay chỉ là giáo đề của chương 10 nói về cửa chuồng chiên và mục tử. Chúng ta có dịp suy niệm về hình ảnh của người mục tử nhân lành trong những đoạn sau,vào những năm khác. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể thấy xuất hiện hình ảnh của người mục tử với đàn chiên. Chúa Giêsu nói đến người mục tử nhiều lần và Ngài muốn dùng hình ảnh ấy để nói lên mối liên hệ giữa Ngài và chúng ta, đàn chiên Ngài chăn dẫn, đàn chiên mà Ngài chuộc lại bằng chính Máu Thánh Ngài.
Hình ảnh người mục tử rất quen thuộc với người miền Trung Đông, vì đa số sống bằng nghề nuôi chiên. Chúng ta không nuôi chiên, chúng ta không thể hiểu mối liên hệ thân thiện của người nuôi chiên với đàn chiên. Mục tử ôm ẳm chiên con từ thuở bé và nâng niu chiên như một đứa bé. Con chiên lại là một con thú rất hiền lành và ngoan, dễ dạy, mỗi con chiên đều biết tên của mình. Khi dẫn chiên, mục tử chỉ cần đi trước và cả đàn chiên đi theo sau. Khi dừng lại, chiên mới tản mát ra để ăn cỏ. Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử là để chúng ta hiểu được mối liên hệ hết sức thân thiện của Ngài với chúng ta. Ngài rất gần và luôn chăm sóc giữ gìn chúng ta như mục tử chăm sóc chiên mình. Các thánh vịnh mà chúng ta thường hát đi hát lại đã nói lên điều đó.
Chúng ta có phải là chiên của Ngài không? Chúng ta có theo Ngài như chiên theo sau mục tử không? Hay chúng ta chỉ chạy theo những tên trộm cướp chỉ làm hại chiên? Ăn thịt chiên mà không chăn chiên? Họ cám dỗ chúng ta bằng tiền bạc, danh lợi và đưa chúng ta vào vực thẳm của gian ác. Nhiều người trong chúng ta đã chạy theo những miếng mồi ngon của thế gian, tưởng rằng đó là hạnh phúc. Thực sự những miếng mồi của thế gian thật hấp dẫn, nhưng chúng chỉ là tro bụi. Chúa Giêsu không hấp dẫn lắm nhưng chỉ có Ngài mới thực sự thương chúng ta và mang lại hạnh phúc thật cho chúng ta: “Tôi đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào”.
Chúa Giêsu dùng một hình ảnh khác để biểu lộ khuôn mặt khả ái của Ngài là cửa chuồng chiên.
Chúng ta cũng cần hiểu hình ảnh cửa chuồng chiên như thế nào. Khi đi chăn chiên, mỗi mục tử có một số chiên, lùa từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác. Đến mỗi nơi, mục tử gởi chiên của mình trong một chuồng chiên tập thể để ngủ ban đêm, để chiên có chỗ an toàn không bị trộm và chó sói. Đến sáng, mục tử đến và gọi chiên mình và đưa đi ra đồng cỏ. Chủ chuồng chiên có trách nhiệm trông coi chuồng chiên ban đêm.
Chúa Giêsu tự ví mình như cửa chuồng chiên, ngụ ý cho chúng ta thấy Ngài là nơi chiên ra vào an toàn. Ngài là cửa dẫn vào chuồng như Ngài đã nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Cửa là nơi ra vào nhưng cũng là cái gì bảo đảm an toàn cho chiên. Muốn vào chuồng chiên phải đi ngang qua cửa. Người nào không đi qua cửa là kẻ gian. Chiên sẽ an toàn khi cửa đã được gài cẩn thận. Cánh cửa rất cần thiết. Chúng ta không thể tưởng một tòa nhà mà không có cửa. Một tòa nhà mà ai ra vào tùy ý thì tòa nhà đó không phải là một tòa nhà mà chỉ là một mái nhà chợ người ta đến trưng bày hàng hóa, và người ta dọn về sau khi đã bán xong. Chúa Giêsu là sự an toàn của chúng ta. Ngài cũng là cửa duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Ngài là Đấng chăn chiên nhân lành, bảo vệ chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta, cho chúng ta được sống dồi dào. Sự sống dồi dào không phải chỉ là được no đủ vật chất mà chính là được chiếm hữu Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến điều đó: “Tôi coi mọi sự như rơm rác chỉ cần biết Chúa Giêsu Kitô mà thôi”. Vì chỉ có Ngài là sự thật và là sự sống. Không có Ngài chúng ta không thể sống sung mãn vì con người vật chất chỉ là phù phiếm chóng qua, và cuối cùng chỉ còn là tro bụi.
Thế giới hôm nay là một căn nhà không có cửa. Tất cả mọi sự nhơ nhớp, xấu xa, gian ác, chết chóc đều ùa vào mà không có gì ngăn chặn. Nhiều người đã tự hỏi: Không biết rồi đây thế giới này sẽ đi về đâu, con người sẽ là gì? Người ta sống hôm nay để làm gì? Nhiều người tiên đoán một sự phá sản toàn diện của con người, vì con người hôm nay như một con ngựa không có dây cương, một tòa nhà không có cửa, thú tính và bản năng trở thành bá chủ.
Người Công giáo chúng ta không thể là một tòa nhà không có cửa. Chúng ta có cửa là Chúa Giêsu. Ngài đã đến trong trần gian này, mang thân phận con người để trở thành cánh cửa an toàn cho chúng ta. Nếp sống và những gì Ngài dạy là cánh cửa ngăn chặn mọi sai lầm, chỉ cho chúng ta hướng đi chính xác. Ngài là Đường dẫn chúng ta vào sự sống đời đời, Ngài là Sự Thật, theo Ngài chúng ta không sợ sai lầm. Ngài là Sự Sống, sống trong Ngài chúng ta mới được sung mãn.
Hai hình ảnh xen lẫn vào nhau: cánh cửa chuồn chiên và người mục tử vẽ lên khuôn mặt khả ái của Chúa chúng ta. Chúng ta thật diễm phúc! Cần thấy được diễm phúc đó, cần nhìn vào Ngài thật lâu để in sâu hình ảnh thân thương của Ngài vào tâm hồn và yêu mến Ngài hơn. Chính Ngài đã nói: “Ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài”. Ngài luôn mở rộng vòng tay đón tiếp. Ngài là Tình Yêu. Đến với Ngài, Ngài sẽ dẫn chúng ta vào đồng cỏ xanh của Lời Ngài, Ngài sẽ nuôi chúng ta không phải bằng của ăn hay hư nát mà bằng chính Thịt Máu Ngài. Có mục tử nào đã nuôi chiên mình bằng chính Thịt Máu mình? Ngài đáng yêu như thế nào? Nhưng chúng ta có thực sự yêu Ngài không? Chúng ta có thấy rằng tình yêu của Ngài ngọt ngào như thế nào không? Ăn lấy Ngài, chúng ta không cảm thấy được yêu thương tuyệt vời sao? “Ôi! Lòng trí các anh thật chậm tin…” Chúng ta giống như các môn đệ thành Emmau, đi với Ngài trong cuộc sống mà không nhận ra Ngài, ăn lấy Ngài mà vẫn không biết Ngài, không yêu mến Ngài.
Chúng ta tìm đâu ra hạnh phúc? Trần gian này có gì để chúng ta chạy theo? Những người quyền thế đã chiếm hết rồi. Rồi họ cũng thành đàn chiên mà tử thần chăn dẫn thôi. Hưởng thụ rồi cũng tiêu vong. Thánh vịnh đã nói: “Con người cũng chỉ là con vật một ngày kia phải chết”. Chỉ có Chúa mới là hạnh phúc đích thực mà thôi.
Chúa Giêsu, vị Mục Tử Thần Linh của chúng ta đang có mặt, Ngài gọi chúng ta từng tên một để dẫn chúng ta vào vùng đất yêu thương của Ngài. Hãy lắng nghe tiếng Ngài và theo Ngài. Ngài vẫn đến nuôi chúng ta hằng ngày bằng chính Thịt Máu thần linh của Ngài. Hãy đến ăn lấy của ăn quí báu này để bước vào cuộc chiến với Ngài, cuộc chiến cho tình yêu Ngài thống trị. Ngài biết chúng ta phải cực nhọc như thế nào để trung thành với Ngài. Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, chúng ta hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Chỉ có tình yêu đó mới có thể giúp chúng ta kiên trì chịu đựng: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài”.
19.Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
(Suy niệm và Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa Nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu.
Cv 2: 14, 36-41
Chúng ta tiếp tục đọc bài diễn từ thánh Phê-rô công bố cho đám đông đến Giê-ru-sa-lem mừng lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân khuyên họ hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Đó phải là con đường đi vào ràn chiên của Đức Giê-su Ki-tô.
1Pr 2: 20-25
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô, trong đó thánh nhân an ủi các tín hữu đang phải chịu đau khổ và cho họ biết rằng Đức Ki-tô là vị Mục Tử của họ.
Ga 10: 1-10
Dụ ngôn Đấng Chăn Chiên nhân lành được trích từ Tin Mừng Gioan và được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ. Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay là phần đầu của dụ ngôn “Người Mục Tử nhân lành”.
BÀI ĐỌC I ( Cv 2: 14a, 36-41)
Bản văn nầy là phần kết của bài diễn từ mà thánh Phê-rô công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần, qua đó thánh nhân đang ngỏ lời với đám đông dân chúng đến mừng lễ.
Trong phần trước đó, thánh nhân công bố ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và ân ban dồi dào của Chúa Thánh Thần, Đấng nội tâm hóa sứ điệp của Đức Ki-tô và thúc đẩy các tín hữu dấn bước theo Đức Giê-su.
1. Đức Giê-su là Đức Chúa và là Đấng Ki-tô:
Trong phần kết nầy, khởi đi từ nhân tính của Đức Giê-su, thánh nhân công bố tước vị Đức Chúa và Đấng Ki-tô của Đức Giê-su: “Thưa toàn thể nhà Ít-ra-en, xin biết chắc cho điều nầy: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”. Tước hiệu “Đức Chúa” (“kupios”) là tước hiệu mà bản Bảy Mươi dùng để dịch danh xưng của chính Thiên Chúa là “A-đô-nai”. Thánh Phê-rô ban cho Đức Giê-su tước hiệu nầy, như vậy thánh nhân không ngần ngại định vị Đức Giê-su vào trong lãnh vực thần linh. Vả lại, sách Công Vụ ban tước hiệu Đức Chúa lúc thì cho Thiên Chúa (Đức Chúa Cha), lúc thì cho Đức Giê-su (Đức Chúa Giê-su), để nhấn mạnh tính duy nhất của Cha và Con.
Lời công bố nầy đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn những người đang hiện diện khiến họ đi đến một quyết định cụ thể: “Thưa quý ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Thế nên, thánh Phê-rô trả lời với một đòi hỏi kép: hoán cải tận căn: “Anh em hãy đoạn tuyệt với thế hệ gian tà nầy” và lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”. Đây là phương thức đầu tiên để trở thành người Ki-tô hữu.
2. Hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô:
Như thường gặp thấy trong Kinh Thánh, tên gọi của một người chính là con người mang tên ấy. Ai lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô, người ấy được sáp nhập vào con người của Đấng Phục Sinh, thuộc vào Đức Ki-tô, trở nên một với Ngài. Thánh Phê-rô nghĩ đến ý nghĩa phép Thánh Tẩy chứ không đến chính nghi thức. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Lu-ca không bao giờ dùng danh từ “phép rửa” để chỉ phép Thánh Tẩy Ki tô giáo, bởi vì thuật ngữ này luôn luôn quy chiếu đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thánh Lu-ca dành riêng cho phép Thánh Tẩy Ki-tô giáo động từ “rửa”, thường nhất ở thể thụ động thần linh.
Có lẽ công thức Ba Ngôi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” đã chưa được sử dụng cách phổ quát ngay. Công thức Ba Ngôi được thánh Mát-thêu trích dẫn (Mt 28: 19) rõ ràng được thánh Phao-lô nêu lên ở 1Cr 6: 11: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta”. Cuối thế kỷ thứ nhất, sách Đi-đa-khê hay “Giáo Huấn của nhóm Mười Hai” (sưu tập giáo lý và phụng vụ) chỉ biết công thức Ba Ngôi. Tuy nhiên, ở đây thánh Phê-rô kể ra liền ngay ân sủng Thánh Thần như thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Thế nên, Ba Ngôi hiện diện rồi.
3. Ơn cứu độ phổ quát:
Thánh nhân ngỏ lời trước tiên với người Do thái: “Vì đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (nghĩa là ân sủng Thánh Thần như lời hứa ban cho dân Ngài vào thời Mê-si-a), nhưng ngay liền sau đó, thánh nhân ngỏ lời với lương dân: “và tất cả những người ở chốn xa xăm”. Quả thật, cách nói nầy thường được dùng để chỉ lương dân đối lập với dân Chúa chọn, dân ở “gần” Thiên Chúa, như Is 57: 19: “Bình an cho những ai ở xa (lương dân) như cho những ai ở gần (dân Chúa chọn)”. Đang khi xuất thần ở trong Đền Thờ, thánh Phao-lô nghe tiếng Chúa bảo ông: “Hãy đi, vì Thầy đã sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21).
Thánh Lu-ca kết thúc bài bài trình thuật nầy khi nhấn mạnh rằng Ki-tô giáo phát triển rất nhanh như thánh nhân thường làm: “Và hôm ấy đã có thêm được ba ngàn người theo đạo” .
BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 20-25)
Phụng vụ hôm nay chọn đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, vì câu cuối của đoạn trích nầy vang dội Tin Mừng hôm nay về Người Mục Tử nhân lành: “Vì trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về cùng Vị Mục Tử chăm sóc linh hồn anh em”.
1. Ý hướng:
Trong đoạn trích nầy, thánh Phê-rô đưa ra những lời khuyên cho những người Ki-tô hữu thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Những lời khuyên này cốt yếu được gởi đến cho “những tôi tớ”, “những gia nhân”. Bản văn phụng vụ dịch khá khái quát: “anh em”, vì những lời khuyên bảo nầy có giá trị đối với tất cả những ai đang chịu đau khổ.
Việc thánh Phê-rô chú ý đến những người bé mọn nầy chứng thực Ki-tô giáo được đón nhận rộng rãi ở giữa những thành phần xã hội bị ngược đãi nhất. Cũng như thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phê-rô không nhằm đặt lại tận căn những cơ cấu xã hội vào thời đại của ngài: thánh nhân chỉ nhắm đến việc biến đổi bên trong. Sống những giá trị Ki-tô giáo trong điều kiện mà người ta đang sống đó là cách thức biến đổi những mối tương quan giữa người với người. Một cách khái quát, thư nhắm đến ý nghĩa nầy: cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khiến cho lương dân suy nghĩ, soi sáng họ, khiến họ thay đổi cách hành xử của mình. Lúc đó, sức mạnh giải phóng của Đức Ki-tô thay đổi cơ cấu xã hội và biến toàn thể nhân loại thành một cộng đoàn huynh đệ và bình đẳng.
2. Người Công Chính phải chịu đau khổ:
Để an ủi những người bé mọn nầy phải chịu nhiều đau khổ bất công, thánh Phê-rô nhắc nhở họ, hãy theo gương Đức Giê-su, hãy lấy Ân báo Oán. Thánh nhân không ngần ngại nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu đó là chấp nhận đau khổ: “Anh em được Chúa gọi để sống như thế”, ám chỉ đến lời mời gọi của Đức Giê-su: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác lấy thập giá mình…”.
Đức Ki-tô đã không giải quyết những đau khổ, nhưng Ngài đã đảm nhận, đón nhận chúng vào nơi chính bản thân mình và biến đổi chúng bằng cách cho chúng một ý nghĩa. Để giải thích cuộc Tử Nạn mà Đức Giê-su phải chịu dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về Người Tôi Trung Đau Khổ, thánh Phê-rô trích dẫn khá tự do bài ca thứ ba (Is 50: 5-8) và bài ca thứ tư (Is 53: 4-7), và áp dụng vào Đức Ki-tô, Đấng “mang trong thân xác mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên thập giá…”.
Vì thế, câu cuối của đoạn văn này minh họa một chủ để quan trọng của bức thư: thành quả tinh thần của sự đau khổ mà người công chính phải chịu và mối phúc của những người bị bách hại. Những người Ki-tô hữu đang phải sống những gian nan thử thách, họ chắc chắn thuộc vào đoàn chiên của Vị Mục Tử chân thật, Ngài đang “chăn dắt họ”.
TIN MỪNG (Ga 10: 1-10)
Trong cả ba chu trình Năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành.” Dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành” được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ: năm A: Ga 10: 1-10, Ga 10: 11-18 vào năm B: Ga 10: 11-18, và năm C: Ga 10: 27-30.
1. Hình ảnh “người mục tử” trong Kinh Thánh:
Hình ảnh “người mục tử và đàn chiên” chạy xuyên suốt Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tự nguồn gốc, dân Ít-ra-en vốn là dân du mục. Vào thời Đức Giê-su, một thành phần vẫn còn sống nghề chăn chiên. Các tác giả thánh vịnh đã có chủ ý phóng chiếu trên Thiên Chúa của mình những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng, như Tv 23:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi…”
hay Tv 78:
“Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu,
đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên,
đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 51-52).
Các ngôn sứ đã phác họa Đấng Mê-si-a theo những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng này; nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả một viễn cảnh thật táo bạo. Vị ngôn sứ, nhân danh Thiên Chúa, gay gắt lên án các vị lãnh đạo thời ông. Họ là những mục tử vô trách nhiệm, là quân trộm cướp, chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến đoàn chiên. Vì vậy, Thiên Chúa sẽ tước đi khỏi họ quyền chăn dắt đoàn chiên của Người. Chính Người sẽ đích thân chăm sóc chiên của Người. Cuối cùng, Người sẽ cho xuất hiện một vị Mục Tử Nhân Lành theo dung mạo vua Đa-vít, sống chết vì đàn chiên (Ed 34). Dụ ngôn của Đức Giê-su được đặt vào truyền thống của dụ ngôn Ê-dê-ki-en, vì thế, khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đòi hỏi cho mình tước hiệu Mê-si-a.
Trong Tin Mừng Gioan, Diễn Từ: “Người Mục Tử đích thật” đặt liền ngay sau câu chuyện người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Những kiểu nói được lập đi lập lại: “Thật, tôi bảo thật các ông” loan báo sự phối hợp của hai câu chuyện này và chỉ cho thấy sự liên tục của tư tưởng và tuyến phát triển của lập luận. Mối liên kết nầy soi sáng những lời nói của Đức Giê-su. Qua những hình ảnh biểu tượng: người mục tử, ràn chiên, cửa chuồng chiên, Đức Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta những khía cạnh mầu nhiệm của con người Ngài, vén mở cho chúng ta thoáng thấy những mối tâm giao mới giữa Thiên Chúa và con người mà Ngài đến thiết lập, và giúp chúng ta nắm bắt một cách sâu xa tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.
2. Người Mục Tử đích thật:
Phần thứ nhất đặt sự tương phản giữa người mục tử và quân trộm cướp. Bức tranh nầy rất quen thuộc với miền Pa-lết-tinh. Ràn chiên là một thuở đất giữa đồng được rào chung quanh và có người canh giữ để chiên khỏi bị quân trộm cướp đến giết hại. Khi chiều xuống, những người mục tử gởi đàn chiên của mình vào chung một ràn chiên. Sáng sớm, người chăn chiên đến tìm đàn chiên của mình, anh chỉ cần lên tiếng gọi: chiên nào thuộc người chăn chiên thì nhận ra tiếng của anh và chạy đến với anh; chúng không theo người lạ.
Qua hình ảnh đó, Chúa Giê-su khẳng định mối tâm giao giữa người chăn chiên và đàn chiên: “Anh gọi tên từng con một”. Đối với Đức Giê-su, không có đám đông vô danh; Ngài nhận biết và yêu mến từng con chiên. Đáp lại, đàn chiên quen hơi bén tiếng với người chăn chiên của mình: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”. Qua mối tâm giao hổ tương này, Chúa Giê-su đối lập thái độ của Ngài với thái độ của nhóm Pha-ri-sêu: họ đã loại bỏ một cách tàn nhẫn anh mù được sáng mắt, như thế họ đã hành xử như mục tử gian ác. Trái lại, Đức Giê-su không chỉ tiếp đón anh, nhưng sau khi đã cho con mắt xác thịt của anh được thấy, Ngài còn dẫn dắt anh đến niềm tin, đã khai lòng mở trí cho anh đón nhận ánh sáng, vì Ngài là mục tử đích thật.
3. Cửa chuồng chiên:
“Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu Người có ý nói gì”. Vì thế, Chúa Giê-su tiếp tục nói với họ khi giới thiệu Ngài là “cửa chuồng chiên”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận ra nét tinh tế của bản văn ở đây. Đức Giê-su không nói: “Tôi là cửa chuồng chiên”, nhưng “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đây là một nét biệt phân quan trọng: Đức Giê-su không là cửa của một nơi chốn, nhưng Ngài là lối đi cho chiên ra vào, như vậy, Ngài khẳng định mình là Đấng trung gian duy nhất. Ngài là cửa duy nhất, qua đó chiên có thể vào nơi trú ẩn an toàn mỗi khi chiều xuống, để rồi khi bình minh đến, đàn chiên ra đi đến đồng cỏ xanh tươi: “Ai qua tôi mà vào, thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ được ra vào và tìm được lương thực nuôi mình”. Cuối cùng, khi phác họa chân dung người mục tử lý tưởng, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai tiếp tục sự nghiệp dẫn dắt dân Ngài hãy bước theo mẫu gương nầy. Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh này cũng được gọi “Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu”.
20.Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
“Tôi ban sự sống dồi dào cho chiên của Tôi”
1. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành:
Chúa Nhật thứ IV Phục sinh được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Phụng vụ lời Chúa năm A, B, hay C lấy từ Tin Mừng Gioan. Trong đó, Chúa Giêsu tự nhận mình là cửa chuồng chiên (Ga 1,1-10), là người mục tử hiến thân cho đoàn chiên, để ban sự sống đời đời cho đoàn chiên (Ga 10,11-18; Ga 10, 27-30)
Thánh sử Gioan mời gọi chúng ta đi một vòng qua các ngọn đồi Galilêa để chứng kiến một cảnh thanh bình: Các mục tử dẫn bầy chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát.
Hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên là một hình ảnh đẹp và rất quen thuộc đối với nền văn hóa du mục. Người Do Thái sống bằng nghề du mục chăn nuôi, nên hình ảnh người mục tử là hình ảnh rất thân thương. Người mục tử đi trước đàn chiên, tay cầm gậy, miệng thổi tù và và đàn chiên đi sau người đó. Người chăn chiên tốt phải là người biết chăm sóc đến từng con chiên, hiểu biết tính tình từng con chiên, dẫn đàn chiên đến những đồng cỏ xanh tươi, nguồn suối nước trong lành để con chiên được nuôi dưỡng bồi bổ. Người mục tử cũng còn phải băng bó những con chiên bị thương, bảo vệ chúng khỏi bị thú rừng cắn xé.
Trong lịch sử trước kỷ nguyên, các vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục Israel thường dành cho Thiên Chúa. Ngài dẫn đưa họ qua biển đỏ, qua sa mạc đến đất hứa, như người mục tử gắn liền số mạng với đàn chiên, vui buồn gian khổ một nắng hai sương. Đó là viễn ảnh một vị mục tử mà Thiên Chúa sẽ gởi đến là Đức Giêsu Kitô. Hôm nay, khi nhìn thấy cảnh bầy chiên trên đồi Galilê, Chúa đã tự mô tả mình như một mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Nhiều lần Chúa đã tự ví mình như người mục tử nhưng lần này Ngài đã nói với tất cả ý nghĩ của mình. Khác với những người chăn thuê giữ mướn, những người lợi dụng và trộm cướp, người chăn chiên lành chỉ biết phục vụ đàn chiên và cứu đàn chiên khỏi mọi sự dữ.
Đối lại, con chiên thì nghe tiếng người chăn, hăm hở đi theo và tỏ tình yêu mến.
Người mục tử đi trước để bảo vệ đàn chiên, đoàn chiên theo sau ngoan ngoãn và tín nhiệm, Chúa phán: “Ta đến để mọi người được sống và sống dồi dào”, cho dù phải trả bằng giá rất cao, bằng chính mạng sống mình.
Khác với Tin Mừng Nhất Lãm, trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu không chỉ nhận là người Mục tử mà còn tự ví mình là “cửa”: “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân” (Ga 10,9). Đức Kitô là cửa để bao bọc bảo vệ đoàn chiên khỏi mọi gian nguy. Cha Mark Link SJ. có mô tả một cái chuồng chiên trong câu chuyện “vùng đất Thánh-The Holy Land” của John Kellman: Chuồng chiên ở Do Thái có một bức tường bằng đá bao chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng: Ngày nọ một du khách Thánh địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu?”. Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có chủ chiên nào có thể bỏ chuồng chiên đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta”.
Như thế, hình ảnh mục tử và cửa chuồng chiên đều chỉ vào Đức Kitô, và là hình ảnh mô phạm cho các bậc chủ chiên.
2. Mối tương quan giữa Chúa Giêsu Mục tử và Kitô hữu
Chính nơi Chúa Giêsu, loài người gặp gỡ Thiên Chúa, và loài người cũng gặp gỡ anh em mình. Nhưng con người có kẻ tốt, và người xấu, kẻ thánh thiện và kẻ gian ác. Đối với đoàn chiên, có kẻ không qua cửa mà đột nhập vào, họ là kẻ trộm cướp, đến để ăn cướp, để sát hại và phá đổ. Là con chiên ta phải đi theo Chúa, và như thế ta không lo mắc nạn, vì có Chúa ở cùng ta, như Thánh vịnh 22,4 đã cảm nghiệm sự yêu thương đùm bọc này:
“Trong thung lũng tối,
Con không lo mắc nạn,
Vì Chúa ở cùng con”
Theo vết chân của vị mục tử chúng ta sẽ được thấy đời sống ấm áp lại với bao băng giá, bao đổ vỡ, bao bóng tối, bao nghịch cảnh bao trùm chúng ta. Chúng ta hãy vững tin vào lời hứa của Chúa Giêsu mục tử: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chúa Nhật IV Phục sinh được Thánh hiến đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, tu sĩ với lời ước nguyện cầu cho Giáo hội có được những mục tử, những người hiến dâng cuộc đời cho Chúa trở nên giống Chúa Kitô, Đấng chăn chiên lành sẵn sàng hy sinh phục vụ đoàn chiên như lòng Chúa mong ước, để có thể đối thoại với nhân loại hôm nay, khơi dậy hình ảnh người mục tử nhân lành là Đức Kitô cho các bạn trẻ về lý tưởng hiến dâng; lý tưởng trở nên mục tử, trở nên cửa tình yêu, cửa sự sống trong ơn gọi của đời Thánh hiến.
Mong ước cho mọi Kitô hữu lắng nghe tiếng gọi của các mục tử và cùng với các Ngài kết hiệp với người chủ chăn nhân lành là Đức Kitô, Đấng muốn ban ơn cứu độ cho nhân loại, nhờ đó chỉ có một đoàn chiên và một chủ chiên.
21.Cửa chuồng ở đâu? - Lm Mark Link SJ.
Chủ đề: "Hình ảnh mục tử nhân lành làm nổi bật mối tương giao và sự hiến thân của Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta."
Vào thời Chúa Giêsu, khi màn đêm buông xuống, các mục tử lùa đàn chiên của họ vào chuồng. Nếu ở gần làng, họ sẽ lùa chúng vào cái chuồng công cộng, còn nếu ở xa làng, thì họ sẽ lùa chúng vào một cái chuồng ở ngoài đồng hoặc đôi khi trong một cái hang. Các mục tử làm thế là để che chở bầy chiên khỏi sương đêm lạnh lẽo và khỏi lũ thú rừng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu ám chỉ đến cả hai loại chuồng trên.
Phần đầu bài Phúc âm, Ngài ám chỉ đến loại chuồng làng công cộng, đặc biệt nhắc đến lúc sáng sớm, khi người mục tử đến chuồng làng công cộng nhận bầy của mình để dẫn chúng đi ăn cỏ suốt ngày, Chúa Giêsu nói: "Người giữ cửa sẽ mở cửa cho anh ta; chiên anh sẽ nghe tiếng anh khi anh gọi tên từng con một và dẫn chúng ra. Khi mang chúng ra rồi, anh đi phía trước, lũ chiên đi theo anh vì chúng nhận biết giọng nói của anh"
Phần sau của bài Phúc âm, Chúa Giêsu ám chỉ đến loại chuồng ở ngoài đồng đặc biệt Ngài nói đến lối vào chật hẹp trong chồng mà bầy chiên phải đi qua. Chúa Giêsu nói: "Ta là cửa chuồng chiên...... Ai bước qua Ta mà vào thì sẽ được cứu: người ấy sẽ vào, và ra, rồi tìm được đồng cỏ" Trong cuốn sách nhan đề The Holy Land (vùng đất thánh). John Kellman mô tả một cái chuồng chiên ngoài đồng như sau: nó có một bức từơng bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngòai đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: "Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử liền đáp: "Tôi chính là cửa chuồng". Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. không có chú chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
Có hai điều nổi bật trong câu chuyện dễ thương này. Thứ nhất là tính cách duy nhất ngày càng tăng lên giữa người mục tử và bầy súc vật của anh. Phần lớn đàn chiên được nuôi để lấy len. Một mục tử phải hiện diện với bầy chiên của mình 365 ngày một năm, và thường là đủ 24 giờ một ngày. Người mục tử phải biết rõ chiên mình đến mức phải biết con nào có móng mềm, con nào đau vì ăn bậy, con nào hay bỏ bầy chạy rông... Thứ hai là sự hiến thân sâu sắc của người mục tử cho bầy chiên, thậm chí liều mạng sống cho chúng.
Chính trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều Chúa Giêsu mường tượng trong tâm trí khi Ngài nói: "Ta là mục tử nhân lành" (Ga 10: 11). Chúa Giêsu muốn nói rằng, mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta tương tự như mối tương giao và sự hiến thân của người mục tử cho bầy chiên mình. giống như người mục tử. Chúa Giêsu luôn hiện diện với chúng ta 365 ngày mỗi năm, 24 giờ mỗi ngày. Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28: 20).
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách thân mật sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường dễ ngã lòng, ai trong chúng ta thường hay bỏ bầy đi rông. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó để giúp đỡ chúng ta. Và nếu lỡ chúng ta bỏ bầy đi rông thì Ngài sẽ bỏ lại 99 con chiên để đi kiếm chúng ta. Điều Thiên Chúa nói với dân riêng Ngài qua miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu đích thân nói với mỗi người chúng ta: "Đừng sợ, Ta gọi ngươi bằng tên... Người rất quí báu đối với Ta... Đừng sợ! này đây Ta ở với ngươi" (Isaac newton 43: 1, 4-5).
Bài Phúc âm hôm nay đặc biệt thích hợp cho ngày các bà mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với bầy con hoặc gia đình mình. không có gì mà bà mẹ không làm để bảo vệ cho bầy con khỏi cơn nguy hiểm. Và bà sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối. Tình yêu của một bà mẹ dành cho gia đình vẫn hoạt động ngay cả khi tự thân bà không thể bảo vệ cho bầy con của bà nữa.
Có câu chuyện thật dễ thương trong cuốn tự thuật của Jimmy Cagney, nam diễn viên nổi tiếng ở HollyWood. Câu chuyện xảy ra vào thời tuổi trẻ của Cagney khi mẹ ông đang nằm trên giường chờ chết. Chung quanh giường có 4 cậu con trai đều mang tên Cagney và cô em gái duy nhất của họ là Jeannie. Vì bị nhồi máu cơ tim, bà Cagney không nói được nữa. Sau khi lần lượt bá cổ cả năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải, cánh tay duy nhất còn hoạt động đựơc lên. Jimmy mô tả những gì xảy ra sau đó:
"Mẹ tôi dùng ngón tay chỉ Harry rồi chỉ vào ngón trỏ của bàn tay vô dụng của bà, sau đó chỉ tôi rồi chỉ vào ngón giữa, rồi chỉ Eddie rồi chỉ vào ngón áp út, chỉ Bill rồi chỉ vào ngón út, chỉ Jeannien rồi chỉ vào ngón cái. Đoạn bà cầm ngón cái để vào giữa lòng bàn tay, rồi áp chặt ngón cái dưới bốn ngón kia tụm lại. Sau đó bà dùng bàn tay còn khỏe vỗ nhẹ lên nắm đấm bàn tay trái" (James Cagney).
Jimmy nói rằng cử chỉ của mẹ ông thật tuyệt vời. Mọi người đều biết ý nghĩa của cử chỉ ấy tức bốn anh em có bổn phận che chở cho bé Jeannie sau khi mẹ họ qua đời. đó là một cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa mà không lời nào có thể diễn tả hay hơn.
Tôi vui mừng vì chúng ta có ngày dành riêng cho các bà mẹ để nhắc nhở chúng ta về bản chất của người mẹ và để nhắc nhở các bà mẹ về sứ vụ mà Chúa kêu gọi họ.
Tôi vui mừng vì ngày các bà mẹ trùng hợp với Chúa nhật hôm nay với những lời Chúa Giêsu nói về người mục tử. Bởi vì sự thân mật và sự hiến thân trọn vẹn của một bà mẹ cho gia đình mình là một phản ảnh hoàn hảo sự thân mật và hiến thân trọn vẹn của người mục tử cho bầy súc vật của anh. Và hơn tất cả, tình thân và sự hiến thân cho gia đình của một bà mẹ phản ảnh hoàn hảo tình thân mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy hân hoan vui mừng và cầu xin cho ngày hôm nay sẽ kéo các thành viên trong gia đình gần lại với nhau hơn, đồng thời quí chuộng lẫn nhau hơn, đặc biệt đối với bà mẹ của họ.
22.Mục Tử Nhân Lành
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiệu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng, đã và sẽ luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều. Rồi trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người mục tử luôn đi trước để bảo vệ đoàn chiên, còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh, dòng suối mát. Như Chúa đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình. Cho nên, trong bài đáp ca, chúng ta đã ca ngợi rằng: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng con”.
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử là Thầy Chí Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi. Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn đến với đoàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đoàn chiên, vẫn là chỗ dựa thật vững chắc và an toàn cho đoàn chiên, là Giáo hội. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”. Theo gương Chúa Giêsu, trong thời nạn đại dịch Covid 19 này, chúng ta thấy rất nhiều Linh mục đã qua đời, người ta đạt câu hỏi tại sao Linh mục, mục tử coi sóc đoàn chiên mà lại chết nhiều như thế? Là vì phần lớn các linh mục đã xả thân liều mình vì đoàn chiên đang lâm nguy tử vì bệnh Covid, các Ngài đến chăm sóc an ủi và làm các bí tích sau cùng cho đoàn chiên nên đã bị lây nhiễm và qua đời. Cụ thể hơn có một vị Linh mục đã nhường máy trợ thở cho một thanh niên và rồi Ngài cũng đã qua đời vì bệnh Covid 19.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như lòng Chúa mong ước. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan phòng qua Chúa Giêsu, qua Mẹ Hội thánh và các vị mục tử. Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng người lạ… Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với từng con chiên để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của quỷ dữ, của thế gian, của những xác thịt tội lỗi. Người mục tử đi trước đoàn chiên, đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên là những kẻ thuộc về Người. Vì vậy, Hội Thánh dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu cho những người tận hiến cho Chúa vì Nước Chúa luôn biết sống dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Đặc biệt, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là mục tử trong giáo xứ, trong cộng đoàn và trong gia đình hay bạn bè thân thuộc của chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho, biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng một giáo xứ, cộng đoàn, gia đình hay môi trường chúng ta đang sống thành cộng đoàn hiệp nhất, chia sẻ, yêu thương phục vụ và tha thứ. Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, xin chúc lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của chúng con. Amen.
23.Chúa Giêsu Mục Tử như mẹ hiền ấp ủ con
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm qua, tôi đọc trên báo điện tử một bài báo về viết về một Bà mẹ phi thường gần 10 năm ăn cám nuôi 4 con học đại học ở xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Bà mẹ đó là bà Tăng Thị Lộc, chồng bà bị cụt một chân vì mắc bệnh phong. Gia đình nhà chồng cũng là một gia đình nghèo, đông con. Khi bà về nhà chồng, cha mẹ chồng chia cho vợ chồng bà một mảnh đất và dựng cho một túp lều nhỏ để chui ra chui vào. Từ khi lấy chồng, bà đã thực sự thấm thía thế nào là nghèo, là cơ cực, đói khát. Cái đói đó thấm thía hơn bao giờ hết khi lần lượt 4 đứa con của bà ra đời, vì chưng mỗi lần mang thai và sinh ra con ra, chưa bao giờ bà biết thế nào là một ngày nghỉ đẻ, cũng chưa bao giờ bà được tẩm bổ, bồi dưỡng như những người phụ nữ khác mang thai và sinh con. Cũng một phần vì thế mà con cái bà giờ đều thấp bé, gầy gò. Nhưng ngay cả trong cảnh cùng khổ ấy, người mẹ kiên cường vẫn lạc quan, bà kể: “Nhờ trời thương, nên ngần ấy năm ăn cám, tôi vẫn khỏe như người ta ăn cơm, vẫn lao động và nuôi ngần ấy đứa con. Mà tôi ăn cám riết thành quen, đến nỗi không còn cảm giác khó ăn nữa. Đều đặn mỗi bữa tôi ăn 3 bát cám ngon lành. Người ta nhìn hoàn cảnh tôi, ai cũng nói tôi khổ. Nhưng ở trong cái khổ đó, tôi không thấy mình khổ. Khổ vì chồng, vì con, vì tương lai con cái, thì khổ thế chứ khổ nữa tôi vẫn chịu được. Qủa thế, gần 10 năm trời ăn cám lợn để ki cóp từng đồng nuôi 4 người con ăn học, có những lúc tôi đã đứng giữa cánh đồng nắng chang chang và òa khóc vì tưởng rằng không còn đủ sức thực hiện ước mơ nhìn thấy con ăn học thành tài, nhưng tình yêu và sức mạnh phi thường của một người mẹ đã giúp tôi vượt qua tất cả, để giờ đây sau một chặng đường dài đầy khó khăn của cuộc đời mình, tôi đã có thể mỉm cười khi thấy 4 người con của mình đều đã học xong đại học và có những bước đi vững vàng trong cuộc sống”.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, và rõ hơn hết Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành đó là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chiên lành. Người mục tử luôn gắn liền đời mình, sống chết với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời dù phải ăn cám như người mẹ kia. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Cũng vậy, không có chủ chiên nhân lành, đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu hôm nay sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên, để cho đàn chiên được sống dồi dào cả thể xác lẫn tâm hồn. Cụ thể, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Dồi dào ở chỗ nào? Thưa rõ ràng, nhìn vào trọn cuộc sống dương gian của Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến chết và phục sinh, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn hy sinh tất cả để cho chúng ta được tất cả phần hồn lẫn xác. Thứ nhất, vì chúng ta, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Thứ hai, vì thương yêu chúng ta, Chúa Giêsu đã mạc khải Chúa Cha (Ga 8,19) và căn tính của mình cho mọi người biết Ngài là Con Thiên Chúa (Ga 10,36), là Đấng Mêsia (Ga 1,36-41) được Chúa Cha sai đến (Ga 3,17a). Ngài còn mạc khải Nước Thiên Chúa để phàm ai tin vào Ngài sẽ được Nước ấy làm gia nghiệp (Ga 3,5) và được sống muôn đời (Ga 3,15). Thứ ba, vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đến thế gian như người tôi tớ phục vụ và cứu độ hết mọi người (Ga 5,20-27). Cuối cùng, vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hiến thân mình trên cây thập giá để cho mọi người được hưởng tình yêu dạt dào của Thiên Chúa (Ga 14,1-3). Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Phêrô xác tín rằng: “Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em”.
Thánh Gioan Phaolô II là một môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi. Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn đến với đàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa thật vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”. Qủa thế, Thánh Gioan Phaolô II là một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
Uớc gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như lòng Chúa mong ước. Nhất là tri ân Thiên Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Và nhất là phải biết luôn cảm tạ tri ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một mục tử nhân lành là Chúa Giêsu đã hy sinh tất cả để cho chúng ta được sống và sống dồi dào.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, qua Đức Giêsu Kitô Con Cha, chúng con cảm nhận được tình thương và quyền năng vô biên của Cha. Dù cuộc đời có sóng gió đến đâu thì bàn tay quyền uy và yêu thương của Cha luôn bảo vệ và chở che chúng con. Xin cho chúng con hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, nhờ đó, chúng con luôn bình an, hạnh phúc mà vui sống. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 03 MÙA VỌNG (13/12/2025) .: NIỀM VUI THẬP GIÁ (13/12/2025) .: NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG (13/12/2025) .: THẦY CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN? (13/12/2025) .: ĐẤNG PHẢI ĐẾN ĐÃ ĐẾN (13/12/2025) .: VỌNG VÀ HY VỌNG (13/12/2025) .: GIỌNG NÓI CHÚA GIÊSU (13/12/2025) .: HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE (13/12/2025) .: ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ (13/12/2025) .: HÃY VUI LUÔN TRONG CHÚA, ĐẤNG CỨU ĐỘ TA (13/12/2025) .: ĐỨC KITÔ NGÀI LÀ AI? (13/12/2025) .: HÃY VUI LÊN ĐẤNG ĐEM LẠI HẠNH PHÚC ĐANG ĐẾN (13/12/2025) .: VUI MỪNG VÀ KIÊN NHẪN (13/12/2025) .: MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG (13/12/2025) .: CÒN PHẢI ĐỢI AI? (13/12/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam