Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 130

Tổng truy cập: 1743979

CỘNG ĐOÀN KITÔ GIÁO LÀ MỘT CHUYỆN ĐỨNG ĐẮN

Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn

(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)

Ba đoạn trong bài Tin Mừng mà Giáo Hội đem ra làm bài học có vẻ khác nhau xa, như thể Chúa đã lần lượt nói về những vấn đề riêng biệt. Cứ sự thực thì những lời nói của Chúa Giêsu đều gặp nhau trong cái thực tại là cộng đoàn Kitô giáo. Trong cộng đoàn thường có những luật lệ sống chung, và hơn nữa, giáo quyền có phép ban hành những luật sống đó và cuối cùng tất cả đều được thực hiện nhân danh Đức Kitô và chính vì thế mà có Chúa Kitô hiện diện trong đó.

1) Những luật sống chung trong Giáo Hội –trong cộng đoàn Kitô giáo đều nhắm đến đối tượng chính là làm cho Đức Ái được mọi người tôn trọng. Chúa chỉ dẫn cho chúng ta cách thức phải giữ trong trường hợp có tranh chấp. Công việc đầu tiên phải làm là tạo sự gặp gỡ, giữa cá nhân và cá nhân trong ước muốn tìm hiểu nhau hơn. Có hai trường hợp có thể xảy ra, dựa trên ý nghĩa của câu nói: “Nếu người anh em của con phạm tội”. Theo nghĩa đầu tiên thì hễ người nào phạm đến Thiên Chúa cách tỏ tường, trong trường hợp này, phải bắt đầu bằng cách giữ kín điều lầm lỗi mà mình biết được, rồi với thái độ thông cảm, tìm cách đưa người anh em ra khỏi chỗ lầm lạc. Theo nghĩa thứ hai, hễ người nào đó có lỗi với chúng ta, tức là làm hại đến chúng ta, lúc đó phải tìm cách giúp người anh em có lỗi hiểu rõ sự thiệt hại đã gây ra cho chúng ta, rồi không làm nữa. Nếu công việc đầu tiên ấy tỏ ra không có kết quả, lúc đó người ta mới chạy tới cộng đoàn để xin sửa trị kẻ lầm lỗi. Và nếu lúc đó kẻ ấy cũng không sửa mình, ta vẫn không có quyền khai trừ, không cầu nguyện và không tha thứ cho kẻ ấy, nhưng ta có cớ để cắt đứt ít nhiều mối tương quan thuộc phạm vi xã hội.

2) Điều mà chúng con ràng buộc ở dưới đất… Ta vừa thấy Chúa ban cho “Giáo Hội”, cho cộng đoàn Kitô giáo, quyền xét xử cách ăn ở của một trong các thành phần của Giáo Hội. Giáo Hội chỉ có thể làm được điều này nhờ những kẻ cứng đầu, những người có trách nhiệm. Người ta có quyền đi từ Giáo Hội, quan niệm dưới khía cạnh quyền bính, đến con người của các vị thủ lãnh. Trong Giáo Hội toàn thể các tín hữu sống Đức tin, nhưng do ý muốn của Chúa Kitô, cũng có những người mang trách nhiệm giáo dục đức tin và giúp kẻ khác thực hành đức tin cách trung thành. Đó là các tông đồ với vị thủ lãnh là Phêrô. Ngày nay ta có các giám mục và vị thủ lãnh là Đức Giáo Hoàng. Ở điểm này, một đoạn khác trong Tin Mừng Matthêu có nói rõ về vai trò nổi bật của Phêrô và qua đó vai trò của Đức Giáo Hoàng (Mt 16, 19). Xin xác định điểm này là Phêrô xưa vốn là Giám mục của giáo phận La mã. Đức Giám mục của La mã đích thân là người kế vị của Phêrô. Người tiếp tục giữ quyền hành và chức vụ của Phêrô. Các vị tông đồ khác lập thành Giám mục đoàn đầu tiên, mặc dầu không được cơ cấu hóa nhưng là có thực. Ngày nay các vị Giám mục là những người kế vị tập thể các tông đồ với các quyền hạn và chức vụ của các ngài. Do ý muốn của Chúa Kitô, Phêrô có quyền trên toàn thể các tông đồ. Cũng thế, Đức Giáo Hoàng ngày nay cũng có quyền trên đoàn thể các Giám mục. Cái quyền ấy nằm trong địa vị nổi bật đối với cá nhân Người và cũng là quyền quyết định trong việc chia sẽ một công việc chính yếu là cai quản Cộng đoàn của Giáo Hội.

3) Cộng đoàn sống trung thành với đức tin và đức ái lôi kéo sự hiện diện của Chúa Kitô. Khi các Kitô hữu, dầu là ít ỏi và nếu chỉ có hai người đi nữa, mà tụ họp với nhau nhân danh Đức Giêsu thì Người ở giữa họ. Điều ấy có nghĩa là, khi chỉ có hai người công giáo với nhau, và nếu họ biết thông cảm trong đức tin và đức ái, họ làm thành một tế bào của giáo hội. Không biết người ta có thấy được tầm quan trọng của điều này trong đời sống gia đình, lúc hội họp anh chị em trong khu phố hay trong những hoạt động chung để mở rộng Nước Chúa? Một nhận xét quan trọng: lẽ dĩ nhiên là một tế bào của Giáo Hội chỉ có giá trị khi giữ được liên lạc và đoàn kết với Giáo Hội phổ quát cách mật thiết.

 

32. Trách nhiệm về người anh em

(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:

Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.

Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.

Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.

Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:

- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:

- Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.

Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:

- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!

Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.

Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung của Giáo Hội.

Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.

Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó, không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.

Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.

Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái của Chúa và Giáo Hội.

Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.

 

33. Chúng ta là người canh chừng một người khác

(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Bộ phận dự báo thời tiết bị buộc phải báo trước những cảnh báo cho mọi người về những hoàn cảnh nguy hiểm có thể xảy ra, ví dụ như bão tố, lụt lội. Những nhân viên trong bộ phận dự báo thời tiết không bị tố cáo bởi bổn phận của họ phải đưa ra những giả định mà dân chúng lại không muốn nghe cảnh báo theo cách đó, hoặc cảnh báo áp đặt trên họ và làm cho họ giận dữ hay mang các tin tức xấu đến làm làm cho dân chúng cảm thấy bất an.

Phụng vụ trong Chúa Nhật này làm cho chúng ta ý thức rằng, chúng ta có trách nhiệm đối với những người khác. Những cơn bão đã nổ lên trong đời sống của nhiều người, những người mà các bạn quen biết và yêu thương. Bộ phận dự báo thời tiết không thể ngăn cản được lũ lụt hay bão tố, nó chỉ có thể đưa ra những lời cảnh báo sớm bao nhiêu có thể, để cho mọi người chuẩn bị đón nhận hay tránh xa tai hoạ. Không giống như những nhân viên dự báo thời tiết, chúng ta có thể thật sự xoay chuyển được những cơn bão cá nhân ra chỗ khác, đặc biệt là khi chúng ta cảnh báo kịp lúc.

Chúng ta phải chấp nhận sự kiện là Thiên Chúa chỉ định chúng ta là người canh chừng người khác như Người đã chỉ định tiên tri Êzêkiel. Chúng ta phải nhận ra rằng món nợ trói buộc chúng ta với tình yêu tha nhân, bao gồm trong việc can đảm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm hoặc những tai hoạ sắp xảy ra.

Nhiều thiếu niên đã bực tức với vha mẹ và thầy cô giáo của chúng vì các ngài đã cảnh báo chúng về những điếu thuốc, những chai rượu, say xỉn và chuyện phái tính. Bọn chúng nghĩ rằng mình đã đủ lớn “để thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa”, rằng bọn chúng không còn “khờ” đâu. Bọn chúng ước ao được đối xử giống như những người trưởng thành và nói về những chuyện khác. Áp lực trên những người có trách nhệm với lũ trẻ thật lớn lao, nhưng chúng ta chỉ hối tiếc khi chuyện đã xảy ra mà chúng ta không cảnh báo trước.

Những người trưởng thành biết rõ hơn những bạn trẻ, nhưng họ vẫn mắc sai lầm. Thường thường chuyện đó xảy ra khi một cuộc hôn nhân tan vỡ, một người bạn nói: “Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào, tôi thấy trước chuyện này sẽ đến thôi”.

Một số người sẽ lắc vai người bạn và hỏi: “Vì sao anh không báo hay nói trước với tôi về chuyện ấy?”

Một người đàn ông hay một phụ nữ mất việc vì ông hay bà ấy quá say xỉn do uống nhiều bia rượu. Đó là điều xảy ra mà không hề bất ngờ, thường thường người ta không chú ý đến vị hôn phu, bạn bè hoặc người cộng tác. Thật là xấu hổ nếu không có người can đảm đứng lên và nói: “Bạn cần sự giúp đỡ. Hãy đến với tôi trong một buổi họp mặt của nhóm AA”.

Dân chúng của những thời đại khác nhau có thể dần dần lạc xa khỏi Giáo Hội. Họ trở nên bất thường trong việc đi tham dự thánh lễ. Chẳng mấy lúc, họ chỉ còn đi hai lễ là Giáng sinh và Phục sinh, rồi sau đó là chẳng đi một lễ nào hết. Họ mất đi cảm thức về sự định hướng và mục đích của đời sống. Có thể là bởi không có người nào nồng nhiệt mời họ lưu lại Giáo Hội, hoặc khẩn nài họ trở lại với việc thực hành đức tin công giáo của họ?

Thật không dễ dàng chút nào khi phải cảnh báo người khác. Họ có thể ra đi và mất luôn. Nhưng giống như tiên tri Êzekiel, chúng ta phải làm một người canh chừng những người khác. Món nợ mà chúng ta nợ trói buộc chúng ta vào tình yêu dành cho người khác, bao gồm việc buộc phải cảnh báo người khác về những nguy hiểm thiêng liêng trong đời sống của họ, hay tha lỗi cho những người không tin chúng ta hay bổn phận của chúng ta. Chúng ta không thể lạm dụng khi cho rằng người hay thắc mắc sẽ không muốn lắng nghe chúng ta, hoặc ông (bà) ấy sẽ bỏ đi và giận dữ, hoặc là vì chúng ta không thích hợp với loại công việc như vậy.

Trong Thánh lễ chúng ta hợp giọng cùng mọi người để cầu nguyện cho tha nhân. Sự cầu nguyện này sẽ dẫn chúng ta tới lẽ phải. Chúng ta biết rằng lẽ phải là chấp nhận trách nhiệm đối với những người khác.

 

34. Dám khiển trách

Tôi biết có ít người có thể thành công làm điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa bảo anh em và chỉ ra lỗi lầm của người đó khi chỉ có mình ngươi với người đó mà thôi”.Chúng ta có nói, phải, chúng ta có nói nhưng nói sau lưng người khác. “Cô bé tóc nâu ấy, bạn có biết không? Nó chẳng đáng thương chút nào cả!” Hoặc chúng ta xem họ có sạn trong đầu, chúng ta la lên, hung dữ, vụng về, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khéo léo và đầy yêu thương: “Bạn hãy chỉ cho người đó biết lỗi lầm của họ, nhẹ nhàng khuyên bảo họ khi chỉ có hai người mà thôi. Nếu người đó lắng nghe bạn thì bạn đã chinh phục được người đó rồi”. Chinh phục họ. Để hiểu rõ thiếng này, cần phải nghĩ đến tiếng la lên của người cha có đứa con hoang đàng: “Con ta đã mất và nay đã tìm lại được!”. Khi nói về một tội phạm với những tình cảm này, chúng ta có cơ may chinh phục họ. Chinh phục họ! Chứ không phải giao chiến với họ. Chúng ta thường khiển trách, nhưng có lẽ chúng ta không tin rằng đó là một hành vi Tin Mừng, do đó điều này đòi buộc có một con tim của Tin Mừng.

Cái gì nổi lên trong tim tôi lúc tôi sắp sửa chửi mắng? Người bị chất vấn sẽ nhanh chóng phát hiện ra ý thích dễ sợ đó là làm nhục mà ít người sửa phạt tránh được. Hoặc nêú chúng ta đặt mệnh lệnh và danh dự lên trên tất cả, thì chúng ta khó mà chủ được cơn giận của chúng ta: “Bạn có biết bạn đặt chúng tôi vào hoàn cảnh nào hay không?” Nói chung, họ bất cần: “Đây là vấn đề của tôi!”.

Chúng ta có tìm ra được giọng nói để bảo họ: “Đây cũng là vấn đề của tôi!”. Tôi không thể tỏ ra dửng dưng. Bạn hãy bỏ qua những vụng về của tôi, có điều bạn hãy nghe tôi nói điều tôi âu lo về bạn, tôi yêu thương bạn”.

Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta luôn yêu thương ngay cả khi đó là điều rất khó, nếu không thì “yêu thương” có nghĩa là gì? Chúng ta có lẽ sẽ phải đóng khung những điều rất khó khăn gay go. Tất cả các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm đều nói điều đó. Giờ đây, khi chúng có nguy cơ bị lưu ý, chúng ta băát đầu tấn công: “Bạn rao giảng, nhưng bạn có thực hành đạo đức của bạn hay không?” Hãy thử nói vui (nếu có thể được!): “Bạn có lý, tôi thấy cọng rơm của bạn chứ không phải cái xà nhà của tôi. Nhưng dầu sao thì chúng ta cũng hãy nói về cọng rơm của bạn”. Những lời khiển trách thì khó mà được tiếp nhận và chúng ta cần đến an bình đến nỗi chúng ta sẽ cố gắng tránh né bổn phận khó nhọc này. Ít ra chúng ta không phải là một kẻ hay la rầy bẳm sinh, và thế là ở đây phải xem xét kỹ vấn đề! Thường thì chúng ta cho qua, nhưng ý muốn yên lành bằng bất cứ giá nào chắc chắn không phải theo tinh thần Tin Mừng. Biết bao lần một lời nói thông minh, yên lành và yêu thương đã cứu được một kẻ nào đó? Có chung quanh họ những người bạn là những người thấy rõ ràng và than vãn mà không dám tiến bước: “Phải nói với họ...”. Thế thì bạn hãy nói đi. Bạn hãy để cho Chúa Giêsu thúc đẩy. Đấng đã nói với bạn: “Hãy cố gắng chinh phục”.

 

35. Giáo Hội

1) Giáo huấn của Giáo Hội

Trong trường hợp xảy ra tranh chấp cá nhân, người Công giáo không nại đến quyền bính ngay, nhưng haỹ cùng nhau giải quyết công việc, ở đây phải tuyệt đối dè dặt. Tuy nhiên, nếu thấy thực hiện như thế không ích gì, bởi vì vấn đề khá quan trọng, phải tìm đến nhân chứng; nhờ đó, cuộc tranh luận tuy còn tính cách cá nhân, những mỗi bên sẽ có nhiều lý do thuận lợi hơn để xác định lập trường. Tuy vậy, nếu bên nào cố chấp làm cho cuộc tranh luận bế tắc, phải cần đến quyền bính Giáo Hội phân xử. Quyền bính Giáo Hội là toà án luân lý và tôn giáo tối cao, không chịu một kháng án nào nữa: Phán quyết do quyền bính Giáo Hội cũng có giá trị ở dưới thế như ở trên trời. nhưng ngày nay, ta còn có thể chấp nhận giá trị bất khả kháng của phán quyết Giáo Hội nữa không?

Giáo Hội vẫn có chức vụ chính thức và quyền bính đích thực. Giáo Hội có quyền xử án và tuyên án. Ai bất tuân Giáo Hội, không còn là chi thể của Giáo Hội, họ bị coi như lương dân hay một tội nhân công khai. Quả thực, trước hết, Giáo Hội chuyên lo về lãnh vực thiêng liêng, nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội chỉ chú trọng đến nội giới, linh ứng, ơn sủng. Giáo Hội còn là một cộng đoàn có quyền lợi, nhiệm vụ và thẩm quyền. Giáo Hội vô thể chế, vô quyền bính, không phải là Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Kitô vô cùng sáng suốt đã lưu ý đến những yếu đuối khốn nạn của nhân loại để giúp chúng ta vượt qua, nhờ tinh thần nội tâm biết hoan hỉ dễ dàng tuân phục quyền bính. Khi tình yêu càng mãnh liệt, việc tuân phục càng dễ dàng, và lúc đó, có quyền bính cũng không mấy cần thiết. Nhưng hiện nay, tình yêu chưa ngự trị mọi nơi, nên còn phải lo củng cố quyền bính và công lý. Vậy nên Giáo Hội Đức Kitô mới vừa quan tâm đến tinh thần bên trong và phận vụ bên ngoài.

2) Cộng đồng cầu nguyện

Giáo Hội không phải chỉ là một tổ chức do quyền bính và những người nắm giữ quyền bính tạo thành, nhưng mỗi lần các tín hữu họp nhau nhân danh Đức Kitô, là một Giáo Hội nhỏ bé hiện hình. Kinh nguyện liên kết nhân loại với nhau và với Đức Kitô, để làm thành một cộng đoàn của Đức Kitô. Ngoài lối cầu nguyện riêng tư trong phòng kín, còn có loại kinh nguyện cộng đoàn có tầm quan trọng và hiệu quả đặc biệt, vì loại kinh nguyện này không những chỉ liên hệ đến các cá nhân, nhưng đến cả cộng đoàn. Đức Kitô ngự giữa các tín hữu đang tụ họp. Đó là Đức Kitô mầu nhiệm, cầu nguyện để bảo đảm lời xin sẽ được chấp nhận. Vậy ngoài yếu tố chế định pháp lý và yếu tố thiêng liêng nội tâm, Giáo Hội còn ẩn chứa yếu tố mầu nhiệm của Đức Kitô. Mầu nhiệm kỳ diệu là chính sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Kitô giữa chúng ta. Đó là dữ kiện tiên quyết giúp ta nhìn nhận quyền bính chế định và tuân theo đòi hỏi luân lý siêu nhiên, đồng thời tin tưởng vào lời hứa nhận lời ta cầu nguyện. Giáo Hội không có Đức Kitô chỉ là một tập hợp nhân loại. Đức Kitô không có Giáo Hội chỉ là một cá nhân đơn độc. Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội đó là chân lý thấy trong Tin Mừng. Cũng như cành nho kết hợp với đầu mình, người tín hữu phải kết hợp với Đức Kitô. Chỉ khi nào hiểu biết như thế ta mới nắm trọn chân lý.

 

home Mục lục Lưu trữ