Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 100

Tổng truy cập: 1743819

CHÚNG TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CÁC LỜI ĐÓ CÙNG VỚI THÁNH THẦN

Suy niệm của Lm. Jos. Vũ Mộng Thơ

CHÚNG TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CÁC LỜI ĐÓ CÙNG VỚI THÁNH THẦN

Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được… đàng này nói “ông ta” là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất… dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng “tín điều” mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: “Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần”. Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã “rượu vào lời ra” và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn “phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”.

– Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời… thì chắc chắn nhân chứng của ngài về “thiên tính” Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không “sát tế” sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi… vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo… Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị “sát tế” thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm “của lễ toàn thiêu” dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.

– Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn… tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm… Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm… Cũng thế hôm nay có một “chàng nghệ sĩ” tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào… Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải… thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng… và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.

Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.

 

13. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Theo lời kể lại của thánh Gioan: Đêm hôm trước, mấy môn đệ cực khổ lên thuyền ra biển đánh cá nhưng thức suốt đêm mà chẳng bắt được gì cả. Sáng ra, CG đến gặp các ông, kêu các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông làm theo lời Chúa và kéo lưới lên bắt được rất nhiều cá, nhiều đến mức kéo lưới lên không nổi. Cuộc đời của mỗi người chúng ta xem như một chuyến đi trên biển trong đêm, những ai có Chúa Giêsu trong đời sống đạo của mình, người đó có một chuyến đi thành công, một cuộc đời thành công.

Tôi đang ở Chủng viện Cái Răng, cũng gần Rạch Sút thôi, nên cũng hiểu được đời sống thường ngày của OBACE đạt những thành công lớn nhỏ khác nhau như: đi hỏi vợ cho thằng con trai, nhà gái đồng ý, sui gia hoà thuận với nhau lắm, cưới về rồi, con dâu giỏi dang, hiền lành, vợ chồng nó biết thương nhau, hai vợ chồng đứa nào cũng giỏi, cũng biết làm ăn, rồi nhờ người quen giới thiệu, thằng con trai vừa xin được việc làm, lương cũng khá, làm ba tháng, lãnh lương để dành mua được chiếc xe Wave. Đó là một thành công. Có gia đình khác, cả chục năm trời, hai vợ chồng làm lụng cực khổ, tiết kiệm từ đồng, giờ gom góp xây được cái nhà khang trang; Đó là một thành công. Hay mới đây, nghe người ta giới thiệu có ông thầy thuốc nam hay lắm, hai ông bà mừng quá, kêu xe ôm đi hốt thuốc, uống được mười mấy thang, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Và cũng có những thành công rất giản dị, đơn sơ, tuần trước, có một ân nhân nào đó đến cho gia đình mấy chục kg gạo, 1 thùng mì, 1 gói bột ngọt, vậy thì một tháng tới sẽ đỡ lo chuyện gạo thóc, mắm muối, mừng lắm.

Trong cuộc sống mình, chúng ta thường quan tâm làm sao để làm nhiều tiền, sắm nhiều của, được mạnh khoẻ, được đủ ăn, đủ mặc, và như vậy thì cho là thành công. Nhưng con nhìn thấy trong cuộc sống hiện tại của OBACE có một thành công rất lớn cần phải quan tâm và cần nên vui mừng. Đó là việc mỗi tuần lễ, OBACE đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật gặp gỡ Chúa Giêsu, rồi về nhà, mỗi tối, kêu con cháu quây quần bên nhau đọc kinh tối, và bà con lối xóm mình mỗi khi họ cần 1 lít gạo, 1 chén nước mắm, 1 chút bột ngọt, mình noi gương bác ái của Chúa Giêsu giúp đỡ họ. Có OBACE thắc mắc, những việc làm như vậy chỉ mệt nhọc, mất giờ, tốn của mà sao gọi là thành công được? Thưa, con xin trả lời, những việc đó đúng là thành công lớn lao của đời người vì ai dám làm những điều đó cho thấy có Chúa Giêsu đang hiện diện trong đời sống họ, trong tâm hồn họ. Mà Tin Mừng hôm nay nói, có Chúa hiện diện thì thành công.

Vậy thì tại sao có Chúa Giêsu trong đời mình là thành công? Con biết trong OBACE, có những ông bà lớn tuổi, kinh nghiệm cuộc sống nhiều, hiểu được rằng, dù cả cuộc đời mình vất vả kiếm tiền, kiếm bằng mọi cách, kiếm được tiền trăm bạc triệu, cất nhà lầu, sắm xe hơi, mà giữ đạo lôi thôi, nguội lạnh thì khi chết rồi, nằm đó, trắng tay, chẳng mang theo được cái, công đức cũng không có. Còn những ai dù cuộc sống có nghèo hơn một chút, nhưng sống đạo đàng hoàng: đi lễ Chúa Nhật, đọc kinh sáng tối, biết giúp đỡ mọi người, đến lúc họ chết đi, dù họ chẳng có của cải gì để lại nhưng có rất nhiều thứ công đức để mang theo ra trước toà phán xét của Chúa, họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu Chúa hứa ban. Đó chẳng phải là ích lợi lớn lao nhất khi cuộc đời mình có Chúa hiện diện sao thưa OBACE.

Thực hành Lời Chúa hôm nay, xin OBACE cố gắng đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, sốt sắng, về nhà nhớ kêu con cái mình đọc kinh sáng tối, biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh. Làm tốt những công việc này, trước mặt Chúa, cuộc đời của OBACE là một cuộc đời thành công. Ngày OBACE nằm xuống là ngày Thiên Chúa trao ban hạnh phúc đời đời cho OBACE. Amen.

 

14. Sứ mạng phục vụ – Cố Lm Hồng Phúc

Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ lui về Galilêa, chuẩn bị thuyền bè để ra khơi đánh cá. Sau một tuần lễ nghỉ, nói đến việc đi làm thật chán ngấy. Nhất là đã có bao nhiêu biến cố xảy ra, vừa vui, vừa buồn, vừa hồi hộp. Phêrô nói với các bạn một câu cụt ngủn: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông uể oải trả lời: “Chúng tôi đi với”. Họ không đi đánh cá thì không biết làm gì. Mà không làm gì thì không có ăn!

Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.

Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.

Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.

Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…

Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.

 

15. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Chúng ta vừa được nghe thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tibêria. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Trong bữa ăn thân mật tình thầy trò, Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô và các môn đệ một sứ vụ mới đó là ra đi rao truyền Tin mừng cho muôn dân.

Câu chuyện xảy ra trên bờ biển Tibêria. Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm chài lưới nhưng không bắt được gì. Giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu đã đến với các ông. Người đứng trên bờ biển nhưng các môn đệ không nhận ra Người. Chúa Giêsu bảo họ hãy thả lưới bên phải thuyền, họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra (ai là người nhận ra Chúa đầu tiên? Môn đệ đó tên gì?) người môn đệ được Chúa yêu nhận ra người đứng trên bờ biển không ai khác chính là Thầy. Phêrô khi nghe người môn đệ được Chúa yêu nói “Chúa đó” (ông đã làm gì-mặc áo vào và nhảy xuống biển) ông vui mừng nhảy xuống biển và bơi vào bờ. Khi mọi người đã đưa thuyền vào bờ thì thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn cho các ông có bánh và cá nướng. Thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ với nhau.

Sau khi ăn xong Chúa Giêsu bắt đầu nói chuyện với Phêrô (Chúa hỏi Phêrô câu gì?- này anh Simon con ông Gioan anh có mến Thầy hơn các anh em này không? Phêrô đã trả lời thế nào? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu bảo ông hãy chăm sóc chiên của Thầy; Chúa hỏi Phêrô mấy lần?). Sau khi nghe Chúa Chúa Giêsu hỏi mình tới 3 lần: con có yêu mến Thầy không? Phêrô buồn vì dường như Thầy chưa tin mình. Tại sao Chúa lại hỏi Phêrô đến ba lần? Có thể Chúa nhắc lại cho Phêrô để xoá đi những mặc cảm mà Phêrô đã chối Chúa 3 lần. Đồng thời Chúa muốn Phêrô khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát để Chúa trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: “Lãnh đạo toàn thể Giáo hội”.Và chính sự cam kết tình yêu với Thầy mà Phêrô sang tận Rôma để rao giảng, giữa một cơn bắt đạo tàn nhẫn của hoàng đế Rôma, Phêrô đã dùng cái chết thập giá giống như Thầy mình để làm chứng cho Thầy.

Điều kiện mà Chúa đòi hỏi nơi người môn đệ của Chúa phải có là lòng yêu mến. Vì chỉ có tình yêu chúng ta mới có thể chấp nhận mọi thử thách để bước theo Chúa. Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, và tình yêu đó hôm nay cũng được thể hiện qua mỗi thành viên trong gia đình. Các em thấy, vì yêu thương con cái, cha mẹ chấp nhận khó nhọc để làm sao cho con mình được ăn học, dù vất vả nhưng cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con ngày càng lớn khôn. Và vì yêu mến cha mẹ, ngoài giờ đi học chúng ta cũng biết phụ giúp cha mẹ, mặc dù có cực nhọc nhưng chúng ta cảm thấy vui vì mình giúp đỡ cha mẹ chút gì đó. Vì yêu mến Chúa, ngày chúa nhật chúng ta hy sinh bỏ cuộc đi chơi với bạn bè, hay bỏ bộ phim hay để chúng ta đi lễ, học giáo lý đó là chúng ta đang nói với Chúa: Chúa biết con yêu mến Chúa.

Giờ đây chúng ta cũng được Chúa mời gọi làm chứng cho tình yêu Chúa trong gia đình, nơi trường học và qua những người mà chúng ta gặp gỡ. Có nhiều hình thức để chúng ta làm chứng cho Chúa: qua lời cầu nguyện, bằng gương sáng. Trong trường học chúng ta hãy cố gắng sống thành thật, biết giúp đỡ bạn bè.,không chửi thề nói tục đó là mình đang làm chứng cho Chúa, mình đang yêu mến Chúa. Có lẽ nếu giờ này Chúa hiện ra hỏi chúng ta: Con có yêu mến Thầy không?. Chắc ai cũng sẽ trả lời là có như thánh Phêrô xưa. Thế nhưng chúng ta có dám dùng thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ vả chính cuộc sống của mình để minh chứng tình yêu như Phêrô không? Chắc chắn tự sức ta sẽ rất khó khăn nhưng nếu chúng ta chấp nhận để Chúa dùng chúng ta như khí cụ của Chúa thì chúng ta sẽ dám mạnh mẽ nói như Phêrô: Thầy biết con yêu mến Thầy.

 

16. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Kính thưa ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em rất thân mến! Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta quá tự tin trong các nghề nghiệp, trong các chuyên môn của mình. Chúng ta cứ khăn khăn trong lập trường đó, chúng ta nghĩ rằng, mình phải làm như thế này mới đúng cách, làm thế kia mới đúng kỹ thuật, đúng khoa học, nhưng nhiều lúc chúng ta cũng bị thất bại thật ê chề.Thái độ quá tự tin đó khiến ta không còn biết đón nhận sự góp ý, sự soi sáng của người khác, nó khiến ta không còn tin, không còn cậy trông phó thác vào ai cả, chỉ cậy dựa vào tài ba của mình mà quên đi cả Chúa nữa. Sự vâng lời Chúa Giêsu nơi các tông đồ hôm nay giúp ta nhận ra bản tính thấp hèn yếu kém của con người chúng ta.

Thật ra, các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, các ông rành rẽ thời điểm và nơi chốn để việc đánh bắt có hiệu quả cao. Các tông đồ chọn thời gian và địa điểm đánh bắt rất đúng: đánh bắt vào ban đêm và các ông cũng thừa biết nơi nào trên biển để bắt được nhiều cá. Các ông rất dày công cố gắng trong nghề nghiệp của mình, các ông đã vất vã lao động cả đêm. Các ông rất tự tin trong nghề nghiệp của mình, nhưng các ông đã thất bại. Chắc hẳn trong sự thất bại này, các tông đồcảm nhận được sự yếu kém, sự bất toàn, sự giới hạn của bản tính con người.Chúa Giêsu xuất hiện như một nguồn an ủi cho các ông. Một điều thật đáng cho chúng ta học hỏi là các tông đồ biết vâng nghe lời Chúa, biết xem những hiểu biết của mình là hạn hẹp, bất toàn nơi bản thân để thánh ý Chúa hoạt động nơi con người các ông.Các tông đồ thừa biết kiến thức trong nghề nghiệp của Chúa Giêsu thua kém các ông, nhưng các ông vâng lời Thầy trong niềm tin, vâng lời trong niềm phó thác vào Thiên Chúa. Chính sự vâng lời đó đã mang lại cho các ông một thành quả vô cùng lớn lao, một mẻ cá kỳ diệu, một thành quả từ chính quyền năng Thiên Chúa.

Mẻ cá kỳ diệu mà Chúa Giêsu Phục Sinh thực hiện cho các tông đồ, cũng đang nhắc nhở chúng ta là những người có niềm tin vào Thiên Chúa, những người được thừa kế niềm tin từ các tông đồ. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quá tự tin về tài năng,về sở trường của mình, đến nỗichúng ta quên cầu nguyện, quên cậy trông, phó thác vào Chúa và xin Người ban ơn phù trợ.Nhiều lúc chúng ta đã quên lời nói thật chí lý mà ông cha ta để lại: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Kinh nghiệm này đã được đúc kết bao đời, mời gọi chúng ta, nhìn ra thân phận nhỏ bé thấp hèn của mình, để đến với Chúa,và nài xin lòng thương xót của Ngài.

Hôm nay, chúng ta hãy noi gương các tông đồ bằng việc ý thức nơi con người mình còn rất nhiều khuyết điểm, còn nhiều bất toàn và chúng ta rất cần sự phù trì, trợ giúp của Chúa trong công ăn việc làm của chúng ta, đặc biệt là trong đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các tông đồ là biếtcậy trông vào Chúa vì “không có Thầy, các con chẳng làm được gì”.Lạy Chúa xin phù trì và trợ giúp chúng con. Amen.

 

17. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:

Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.

Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quovadis?”nghĩa là “Người đi đâu đó?”Người ấy trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”.

Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:

Sau biến cố Phục sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: “Chúa đó!”Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn”. Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy đã yêu”.

 

18. Chúa đó

(Trích trong ‘Manna’)

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.

Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.

Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo: “Tôi đi đánh cá đây.”Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm. Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.

Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.

Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.

Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.

Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.

Đây không phải là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.

Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.

Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.

“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).

Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.

Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.

Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.

Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.

Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.

Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn, qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.

Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.

Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.

Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.

Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.

Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo. Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: “Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”

Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một “mẻ cá lớn”không?

Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Đó có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và được lãnh đạo bằng tình yêu không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

 

19. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Phêrô con có yêu mến Thầy hơn các anh em khác không?

Ngày nay qua các nghiên cứu chuyên sâu về mọi mặt thì thấy lịch sữ của Ga không đơn giản như đã tưởng. Nhất là Ga 21, Cách chung đồng ý là không phải của Ga mà được thêm vào sau vì văn phong không giống phần trước và thuộc thời rất muộn về sau.

Các Phúc Âm được chuyền tay chép lại và chuyện có sửa đổi thêm bớt là bình thường vì chưa có phương tiện nào để nhân bản dù mỗi lần nhiều hơn một bản thôi. Cho tới cuối thế kỷ IV và đầu V mới có bản văn như ngày nay. Khi ấy người ta phải hợp tuyển từ cả ngàn bản chép tay, không bản nào giống bản nào. Và Thánh Giêrônimô đã dịch ra tiếng la tinh (bản Vulgata) được Giáo Hội coi là bản chính thức của Giáo Hội thì vấn đề chép lại và sửa đổi cũng đở nhiều.

Ga. 21 không phải là của Gioan chính thống, cũng không biết của ai (đươc coi là của một môn đệ viết theo như Gioan kể lại). Đoán thế thôi.

Còn về các câu chuyện Phục Sinh (hiện ra) được viết sau hết trong sách Phúc Âm với mục đích rỏ ràng không phải để chứng minh Chúa Giêsu đã Phục Sinh, vì Đức tin vào Chúa Giêsu đã Phục Sinh là Chúa và là Đấng Kitô đã hai năm rỏ mưòi rồi. Mục đích chính là:

– Buổi sáng ngày thứ I, với các bà, trong mớ lẫn lộn những dị biệt là để nhắn với các môn đệ “hãy trở về Galilê ở đó sẽ gặp Thầy”. Thật ra những lời nầy không bảo đi về Galilê theo nghĩa chử mà là đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã Phục Sinh, là Đấng Kitô và là Chúa thì hãy đem ánh sáng Phục Sinh mà soi sáng mọi ký ức của họ về Đức Giêsu Galilê. Những gì họ đã sống, đã nghe, đã chứng kiến về Đức Giêsu Galilê để nhớ lại và thấu hiểu theo cách nói ‘Chúa Giêsu thở hơi ban thần khí giúp nhớ lại đầy đủ và hiểu rõ Kinh Thánh’.

– Buổi chiều ngày thứ I:

– Với hai môn đệ đi làng Em mau: Cách nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh nhờ Kinh Thánh và Thánh Thể.

– Với 11 môn đệ (coi như lần hiện ra chính thức): Để sai đi (cùng với việc ban phương tiện). Đã tin và vui mừng thì hãy đi loan truyền niền tin và vui mừng ấy..

– Tám ngày sau có Tôma (vì chiều ngày thứ I Tôma mắc đi vắng). Các Phúc Âm cách chung đều nói ‘các môn đệ chưa tin’, cứng lòng. Ga không nói cách đó mà nói bằng câu chuyện của Tôma ông Dydimo (Ông đi mô) bị đem ra làm gương’đi vắng’ bị mắc. Vắng thì không thấy, không tin lời người khác thấy nói lại nên cũng không nhận được gì cả khi Chúa Giêsu đến ban cho ngày thứ I trong tuần. Tôma là trong số 12 ông đã được chọn. Mất Giuda rồi, buồn lắm, không nở bỏ Tôma. Chúa Giêsu đã yêu thương họ thì yêu thương đến cùng (trừ đứa con hư mất) Nên gọi là Chúa Nhật của lòng thương xót. Tám ngày là để cho Tôma thấy mà tin (đừng cứng lòng) và có đưọc những gì Chúa đã ban mà các ông khác kể lại gồm cả việc thổi- hơi- sai- đi cùng với ơn tha tội.

Ga 21 cũng cùng mục đích là sai đi. Nhưng ở đây ‘điểm’ là Phêrô, người cầm đầu công cuộc “sai đi” vì việc rao giảng đã được tiến hành bốn năm mươi năm rồi – kết quả mỷ mản- Phêrô đã vào vai trò cầm đầu không thể chối cải hoặc thay thế được. Phải hợp thức hóa thôi.

Ga 21 là lần bắt cá thứ I được thuật lại dưới ánh sáng Phục Sinh.

Thuyền của Phêrô. Phêrô cầm đầu đi đánh cá.

7 môm dệ. Con số 7 chỉ toàn thể. Đánh cá thì một thuyền 2 người. Con thuyền Giáo Hội do Phêrô cầm đầu mới nhiều thế.

Cả đêm không được gì. Sức con người thì làm được gì!

Thả lưới bên phải theo Lời Chúa mới kết quả. Thả lưới bằng thần khí của Đấng Phục Sinh thì lưói đầy cá.

153 con cá. Rỏ ràng không phải là cá thật mà là Truyền giáo. Lưới không bị rách là Giáo Hội. Phải hiểu theo nghĩa biểu tượng.

Chỉ là chuyện để vào đề. Đề chính là chuyện về Phêrô.

Ba lần hỏi. Văn chương do thái nói ba lần để chỉ thì superlatif vg. thánh thánh thánh không phải là ba lần thánh mà muốn nói rất thánh, chí thánh…Số 3 là số trời, mà là trời già. Bất quá tam.

Có thể: Phêrô nông nổi. Nói ngon miệng mà rồi chối Chúa ba lần (cũng ba lần). Là chuyện tối quan trọng phải đánh lưỡi ba lần mà trả lời cho đầy đủ ý thức và chỉ có một lần không có cơ hội để làm lại đâu. Hỏi ba lần, trả lời ba lần thì nhấn mạnh đủ, ý thức đủ và đủ cho mãi mãi.

1- “Có yêu Thầy hơn các anh em nầy không?”. Yêu là quan trọng hơn hết. Yêu nhiều thì hơn hết, làm cho người ta sẳn sàng hy sinh chịu khó kể cả liều mạng. Yêu hơn thì sẽ kể là hơn

Hãy chăm sóc các chiên con của thầy. Chiên con thì phải chăm sóc cực hơn lại ăn thịt dể và ngon nữa. Đòi yêu nhiều mới dám trao cho.

2- Có yêu mến Thầy không? Hãy chăm sóc các chị chiên của Thầy. Các chị nầy có em bé rồi nhưng cũng không dể gì.

3- Có yêu mến thầy không? Một lần nữa cho chắc. Hỏi hai lần và giao phó hai lần các chị.

– Để cho người ta thắt lưng và dẩn đi không theo ý mình. Hãy theo Thầy. Không phải tự ý đi mà đi theo. Yêu thì hy sinh tự do rồi. Chăm sóc chiên Thầy vì yêu Thầy không phải vì yêu chiên, là phục vụ như Thầy sẳn sàng hiến mạng sống vì chiên. Có như thế thì hãy theo Thầy: vác thập giá và hiến mạng sống. Theo truyền thuyết ‘Quo vadis’ thì Phêrô khăn gói bị gậy đi trốn ra cửa thành gặp Chúa Giêsu đi vào…..và ông đã trở vào vác thập giá và hiến mạng sống (không để Chúa Giêsu chịu đóng đinh lần nữa).

Phêrô đóng vai là người cầm đầu việc rao giảng với lòng yêu mến Chúa Giêsu hơn các anh em khác để thay thế Chúa Giêsu hữu hình. Từ đầu Phêrô đã nổi lên và được công nhận là người cầm đầu thật sự (chắc lúc viết bài nầy Phêrô đã hoàn tất nhiệm vụ). Gioan rất quan tâm đến việc ‘ được sai đi’. Thiên Chúa sai Đức Giêsu (để anh em nhận biết Đấng Người đã sai đến). Chúa Giêsu sai các tông đồ. Đươc sai chính thức mới được ban các phương tiện và quyền năng để thi hành sứ mạng và mới đuợc tin tưởng. Phêrô phải được Chúa Giêsu chính thức ‘sai’ cầm đầu việc rao giảng mà Người đã truyền cho các tông dồ.

Điều mà đoạn Phúc Âm nầy muốn nhấn mạnh hơn hết là ‘yêu mến hơn hết’ làm tính cách đặc biệt của người cầm đầu cho những vị kế tiếp. Yêu mến hơn hết để cầm đầu trong việc phục vụ và hiến mạng sống như Chúa Giêsu và vì yêu mến Chúa Giêsu hơn hết.Nhưng không phải máy móc, khô khan mà ướt át, tình cảm vì yêu mến và yêu mếu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Chủ chăn được Chúa Cha sai. Đoàn chiên là của Chúa Giêsu, Đấng là Chúa và là Thầy và cũng là Đấng rữa chân. Phêrô và những vị kế tiếp, hãy làm vị cầm đầu như lòng Chúa mong ước.

 

20. Mầu nhiệm Giáo Hội.

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.

Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.

Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.

Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
  2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
  3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?

home Mục lục Lưu trữ