Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 29
Tổng truy cập: 1743735
CHÚA CHIÊN LÀNH
Chúa Chiên Lành
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.
Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và Dòng tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu.
Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà thôi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu đặt vào trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, đây là Lễ tưởng niệm cuộc kháng chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống lại đế quốc Hy-Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống lại sự cai trị của đế quốc La-Mã, nhưng những người biệt phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa Giêsu.
Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái. Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn chính họ thì không lay đến ngón tay.
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội tại Việt Nam luôn được sống theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho các Giáo Xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Amen.
6. Mục tử thật - mục tử giả
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật - hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi dạy đàn con".
Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được cân nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ đang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì dòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.
7. Chúa Chiên Lành
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.
Về người Mục Tử:
“Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc (99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã... Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính. Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.
Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên như thế?
Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều lần cho cả tôi và bạn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến thập giá và phục sinh, xin cho con - Alter Christus của Chúa - được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
8. Cửa ràn chiên
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Chương 10 Phúc Âm Gio-an chia thành hai mảng đề tài: Mục Tử nhân lành và Lễ Cung Hiến đền thờ. Mảng đề tài thứ nhất lại đưa ra hai hình ảnh: cửa ràn chiên (câu 1-10) và người mục tử nhân lành (câu 11-18). Phụng vụ ngày Chúa NhậtChúa Chiên Lành hôm nay triển khai hình ảnh thứ nhất là chính: “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Trong nội dung đó Đức Giêsu mới đề cập tới một hạng mục tử chân chính nào đó mà tiên quyết họ phải là những người ‘đi qua cửa’; ‘ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử’. Người xác định: chỉ những mục tử đi qua cửa mới có thể có các phẩm chất tốt đẹp như ‘chiên nghe tiếng anh…; gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra…; anh ta đi trước và chiên đi theo sau…; chúng nhận biết tiếng của anh…” Như vậy thì việc đi qua cửa trở thành dấu hiệu tiên quyết để Hội Thánh và mọi người nhận ra một mục tử chân chính; “người giữ cửa mở cho anh ta vào’, bởi vì bất cứ ai ‘trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp’.
Những ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế nào là ràn chiên và cửa ràn chiên. Người chăn chiên chuyên nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn vịt chạy đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không phải là một thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn (tiếng Anh chính xác dịch là ‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại được rào dậu bằng đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác nhau được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ có một người trực qua đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài. Sáng ra, các người chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện thuận thảo giữa chiên và người chăn dắt, anh giữ cửa hay trực đêm mới xác định được người chăn chiên đó quả thật là mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: tại sao Đức Giêsu lại so sánh mình với cửa ràn chiên trước cả khi giới thiệu mình là mục tử nhân lành?
Hãy nhớ rằng đám thính giả chính của các lời tự giới thiệu này là các Pha-ri-sêu, “Thật, tôi bảo thật các ông…” Nhóm này trong Gio-an chương 9 đã có cuộc đối chất căng thẳng với Đức Giêsu về việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Chính họ đã nêu lên lời phản bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Phải, chính với nhóm lãnh đạo này mà Đức Giêsu muốn xác định: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm kẻ cướp”.
Các Pha-ri-sêu nói riêng, các thượng tế và trưởng lão kinh sư Do Thái nói chung, dựa vào luật pháp mà Mô-sê đã ban hành mà biện minh cho vị thế lãnh đạo của họ; trong tư thế đó họ không quan tâm tới gì khác hơn là làm sao luật được cặn kẽ tuân giữ. Nhiều giai thoại đã cho thấy thái độ này làm cho các Pha-ri-sêu thường xuyên có thái độ cực đoan, xét nét và khắt khe với đám quần chúng, tới độ Đức Giêsu đã phải nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phai-ri-sêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào các người cũng không để cho họ vào!” (Mt 23 13) Vấn đề chính ở đây là: đối với các Pha-ri-sêu, cũng như với bất cứ ai chăn dắt bằng luật pháp, sẽ không hề có cửa hoặc không thể có sự ra vào nào. Luật pháp tự nó bao giờ cũng đóng lại, cũng khép kín, và có khuynh hướng ngày càng chặt chẽ, bưng bít hơn.
Với những con người như thế, thật là ý nghĩa khi Đức Giêsu trịnh trọng tự giới thiệu: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào!” Đây quả là khác biệt một trời một vực giữa Tin Mừng cứu độ và tôn giáo của luật pháp: một bên là rộng mở, còn một bên là đóng chặt. Đức Giêsu đang giới thiệu mình như một Mô-sê mới, mới ở đây không có nghĩa là cùng một Mô-sê luật pháp được đánh bóng lại cho sáng đẹp hơn, nhưng là một tác phẩm hoàn chỉnh so với một phác thảo đầy những khiếm khuyết cần được chỉnh sửa, đôi chỗ là cơ bản; và có lẽ điểm cơ bản nhất chính là “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Luật pháp nào thì cũng không thể khảng định được điều này, trự phi đó là luật pháp của tình yêu, lòng nhân từ và cứu vớt. Thiết tưởng trước khi tự giới thiệu mình là Mục Tử nhân lành, Đức Giêsu đã sử dụng hình ảnh ‘cửa ràn chiên’ là để khảng định mình chính là luật pháp mới của lòng nhân từ và cứu vớt. Do đó Người lên tiếng quả quyết: “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Đương nhiên các Pha-ri-sêu không thể chấp nhận được lối lãnh đạo mới này, đơn giản là vì họ vẫn khư khư với luật pháp Mô-sê và không tin vào Đức Giêsu với thái độ ‘cứu vớt’ của Người (xem giai thoại chữa người mù từ thuở mới sinh Ga 9). Họ thậm chí lên tiếng kết án Người cách cay độc: “Ông ấy bị quỉ ám và điên khùng rồi, nghe ông ta làm gì!” (Ga 10,20)
Như thế đối tượng trước hết của bài Tin Mừng hôm nay chính là giới giáo sĩ chúng ta, được mệnh danh là linh mục, tức là mục tử của Đức Ki-tô. Là linh mục trong một Hội Thánh cứu độ thì luật pháp đối với tôi không được là gì khác hơn là Đức Ki-tô - ‘cửa ràn chiên’. Chính thông qua cửa đó, và chỉ qua cửa đó thôi mà công tác mục vụ của tôi được thi hành và triển khai. Giáo hội đã chẳng luôn nhắc nhở tôi: luật tối thượng của toàn bộ giáo luật chính là cứu vớt các linh hồn là gì? Chỉ có như thế tôi mới có thể là mục tử như lòng Chúa từ nhân mong muốn, “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra; khi đã cho chiên ra hết, anh đi trước và chiên đi theo sau vì chúng nhận biết tiếng của anh!”
Lạy Chúa là ‘cửa ràn chiên’, dầu con đã được học giáo luật… nhưng chính Chúa mới đích thực là cửa ràn chiên, là ‘giáo luật’ mà con phải ra vào trong công tác mục vụ của mình. Nếu chỉ quan tâm tới luật pháp, kể cả luật Hội Thánh, con vẫn luôn có nguy cơ trở thành như các Pha-ri-sêu ‘khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào’. Xin ‘Người giữ của’ mở cho con được vào ràn mỗi sáng tối khi con dâng Thánh Lễ, để qua đó các chiên sẽ không còn thấy tiếng con xa lạ mà chạy trốn. Ước gì chúng cũng luôn nghe được tiếng nói của lòng nhân ái và tự hiến của Chúa vang vọng nơi con! Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 03 MÙA VỌNG (13/12/2025) .: NIỀM VUI THẬP GIÁ (13/12/2025) .: NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG (13/12/2025) .: THẦY CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN? (13/12/2025) .: ĐẤNG PHẢI ĐẾN ĐÃ ĐẾN (13/12/2025) .: VỌNG VÀ HY VỌNG (13/12/2025) .: GIỌNG NÓI CHÚA GIÊSU (13/12/2025) .: HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE (13/12/2025) .: ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ (13/12/2025) .: HÃY VUI LUÔN TRONG CHÚA, ĐẤNG CỨU ĐỘ TA (13/12/2025) .: ĐỨC KITÔ NGÀI LÀ AI? (13/12/2025) .: HÃY VUI LÊN ĐẤNG ĐEM LẠI HẠNH PHÚC ĐANG ĐẾN (13/12/2025) .: VUI MỪNG VÀ KIÊN NHẪN (13/12/2025) .: MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG (13/12/2025) .: CÒN PHẢI ĐỢI AI? (13/12/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam