Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1433314

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

“YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT” - Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

 

Lòng ham muốn và tình thương

Trong bài đọc 2, trích thư Roma, thánh Phao-lô nhắc lại một số điều răn căn bản liên quan cách chúng ta ứng xử với nhau: “Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp…” Và còn nhiều điều răn nữa, của Thiên Chúa và của Hội Thánh, mà chúng ta vẫn nhắc lại trước khi dâng Thánh Lễ vào ngày Chúa Nhật. Những điều răn thánh Phao-lô vừa kể, liên quan đến những hành vi ngoại tình, giết người và trộm cắp.

Tuy có lúc này lúc kia, nhưng tất cả chúng ta đều có thể giữ tốt ba giới răn này. Tuy nhiên, thánh Phao-lô còn kể ra một giới răn khác, mà ai trong chúng ta cũng “chịu thua”, đó là giới răn: “Không được ham muốn” (Rm 13,9), bởi vì lòng ham muốn không phải là một hành vi bên ngoài, để chúng ta cố gắng xa tránh, nhưng là một khuynh hướng của nội tâm, của con tim, mà không ai trong chúng ta không có và và không ai trong chúng ta có thể làm chủ được.

* Chúng ta không có hành vi ngoại tình, nhưng lòng ham muốn, thì không thể không có. Thế mà Đức Giê-su nói trong bài giảng trên núi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình.Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi (Mt 5,27-28).

* Chúng ta không giết người, nhưng lòng chúng ta đầy ghen ghét muốn loại trừ người khác. Thế mà Đức Giê-su nói: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà” (c. 22); và thánh Gioan còn nói mạnh hơn: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân (x. 1Ga 3,15); bởi vì, khi ghét người anh em, chúng ta loại trừ người anh em ra khỏi lòng chúng ta, chúng ta “giết” người anh em trong lòng chúng ta.

* Cũng vậy, chúng ta không trộm cắp, nhưng trong lòng chúng ta khó tránh được lòng ham muốn của cải của người khác, ham muốn điều người khác có. Chúng ta ham muốn điều người khác có, và khi chúng ta không có được, chúng ta muốn phá hủy. Bởi vì, điều chúng ta muốn có, nhưng không có được, thì người khác không được phép có.

***

Không ai giữ được, nhưng tại sao thánh Phao-lô nêu ra giới răn “không được ham muốn”? Bởi vì đó là căn nguyên của mọi hành vi vi phạm Lề Luật. Lòng ham muốn như một năng lực bị dồn nén và có thể bùng phát thành hành động vi phạm và bạo lực bất cứ lúc nào. Và những điều này vẫn xẩy ra chung quanh chúng ta, trong môi trường sống chúng ta và có khi nơi gia đình chúng ta và nơi chính chúng ta nữa. Vậy thì phải làm sao? Điều gì giúp chúng ta làm chủ lòng ham muốn, chiến thắng lòng ham muốn, loại bỏ lòng ham muốn.

Đây là một thứ bệnh của con tim, thì chỉ có phương thuốc của con tim mới chữa lành được thôi: Đó là tình thương; và thánh Phao-lô, trong bài đọc 2, nhắc đi nhắc lại “phương thuốc tình thương”:

Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.

Các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy (Rm 13,8.9b-10).

Tình thương chiến thắng lòng ham muốn. Nhưng làm sao có thể yêu thương, nếu không phải chính bản thân chúng ta đã được yêu thương, đã được bao dung, đã được tha thứ, đã được thương xót. Cũng trong thư Roma, thánh Phao-lô xác tín:

Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8,38-39).

Chính Thiên Chúa yêu thương và bao dung chúng ta trước, nên chúng ta con tim chúng ta được tái tạo để có thể yêu thương và bao dung nhau, và có thể ứng xử với nhau như lời dạy của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng:

* Hết lòng kiên nhẫn và kiên nhẫn cho đến cùng đối với người anh em phạm tội.

* Được Đức Giê-su tin tưởng trao ban quyền bình ràng buộc và tháo cởi, nhưng không phải để kết án và giết chết, nhưng để cứu sống và tò bày tình thương và lòng thương xót của Đức Ki-tô cho mọi người.

* Và vì được Thiên Chúa yêu thương và bao dung, nên chúng ta có thể hiệp nhất với nhau trong cầu nguyện và có thể họp nhau nhân danh Đức Ki-tô. Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa là bầu khí hiệp nhất, vì chúng ta được dựng nên là một như Thiên Chúa là một; và Đức Ki-tô hiện diện ở giữa tương quan hiệp nhất yêu thương của gia đình và cộng đoàn của chúng ta.

Bài giảng của Đức Giê-su về Giáo Hội kết thúc, hay đúng hơn là hướng tới, với lời mời gọi tha thứ cho nhau đến “bảy mươi lần bảy”; và sự tha thứ vô hạn chúng ta được mời gọi trao ban cho nhau đặt nền tảng và hướng tới chính ơn tha thứ vô hạn của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Như thế, chính Thiên Chúa yêu thương và bao dung chúng ta trước, nên con tim chúng ta mới được tái tạo để có thể yêu thương và bao dung nhau, và để có thể ứng xử với nhau như lời dạy của Đức Giê-su về Giáo Hội.

2. Quyền bính và hoán cải

Ngay trước đó, Đức Giê-su đã trao quyền “tháo cởi và cầm buộc” cho chính thánh Phê-rô, với tư cách là “Đá Tảng”: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). Nhưng ở đây, quyền bính này, được Người phát biểu với cùng những từ ngữ, lại được trao cho nhóm, nghĩa là cho Giáo Hội:

Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy (Mt 18,18; x. Ga 20,23).

Việc thi hành quyền bính được thực hiện vừa bởi một người và vừa bởi cả nhóm; như thế, sự quân bình được hình thành. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi vượt qua bình diện tổ chức và quyền bính để nhận ra sự tin tưởng mà Đức Ki-tô đặt để nơi Giáo Hội, vì quyền ở trên trời, nhưng lại được trao hết cho những con người mỏng dòn ở dưới đất! Sự tin tưởng thật trọn vẹn, trọn vẹn đến độ trời và đất như trở nên một. Vấn đề là Giáo Hội thi hành quyền bính theo năng động nào, của trời cao được thể hiện nơi ngôi vị và nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, để giáo huấn, làm cho lớn lên và cứu sống, hay theo năng động của đất thấp, nghĩa là thế gian, sự dữ, ma quỉ, để lên án, loại trừ và giết chết.

Một cách cụ thể khi phải đối diện với một thành viên phạm tội, là điều không thể tránh được trong đời sống đức tin của Giáo Hội: “Nếu người anh em trót phạm tội”. Nhưng thay vì dùng quyền để lên án và loại trừ, Đức Giê-su mời gọi sửa lỗi người anh em: “anh hãy đi sửa lỗi nó”. Và Đức Giê-su đề nghị cả một tiến trình rất sư phạm để giúp tội nhân hoán cải: ban đầu là cuộc gặp gỡ riêng tư và huynh đệ giữa hai người; tiếp đến, nếu tội nhân không nghe, thì thêm một hay hai người nữa; và cuối cùng, nếu tội nhân vẫn không nghe, thì Hội Thánh mới can thiệp. Và nếu tội nhân cũng chẳng nghe Hội Thánh, thì như Đức Giê-su nói: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”; bị coi là “người ngoại hay người thu thuế”, theo cách nói của Do thái giáo, điều này có nghĩa là, người này không còn thuộc về cộng đồng.

Nhưng thực ra, khi từ chối lắng nghe lời khuyên bảo đến ba lần, tội nhân đã quyết định tự loại mình ra khỏi Hội Thánh rồi. Như thế, quyền bính chỉ được dùng đến khi giải pháp đối thoại trong kiên nhẫn và đức mến đã đi tới cùng và bị từ chối.

3. Quyền bính và cầu nguyện

Trong bài Tin Mừng, khi nói về đời sống Giáo Hội, Đức Giê-su còn nói đến bầu khí hiệp nhất trong lời nguyện xin và lời đáp trả chắc chắn của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời:

Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.

Lời của Đức Giê-su vừa mang lại cho chúng ta niềm hi vọng khi nguyện xin, và vừa làm cho chúng ta nhận ra rằng, điều làm đẹp lòng Thiên Chúa, chính là bầu khí hiệp nhất trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện, vì chúng ta được dựng nên là một như Thiên Chúa là một; và Đức Giê-su cũng cầu nguyện và làm tất cả mọi sự để cho chúng ta nên một: “Xin cho họ nên một, như chúng ta là một”. Xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta biết kiên nhẫn cùng nhau nguyện xin và hướng chúng ta tới những ơn xin làm đẹp lòng Chúa Cha, nhất là những ơn xin làm cho chúng ta nên một, như Người dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha.

Tuy nhiên, vì lời giáo huấn của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay hướng tới việc cầu nguyện, chúng ta có thể hiểu lời của Đức Giê-su về “lời nguyện chung” còn phải là nền tảng của việc thi hành quyền bính, nhất là thi hành quyền bính trong việc sửa lỗi nhau cho nhau. Như thế, quyền bính không chỉ nhường bước cho đối thoại huynh đệ, nhưng còn phải được thực hiện, từ đầu đến cuối, trong cầu nguyện. Và cả khi tội nhân đã bị loại trừ khỏi cộng đồng, Giáo Hội vẫn được mời gọi kí thác người anh em cho lòng thương xót của Thiên Chúa và vẫn được mời gọi cầu nguyện cho người anh em ấy, tương tự như khi Người mời gọi chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù (x. Mt 5,43-48).

***

Và trong mọi sự, nhất là trong việc thi hành quyền bính, để mời gọi hoán cải trong bầu khi cầu nguyện, Đức Giê-su mời gọi Giáo Hội “họp lại nhân danh Thầy”. “Nhân danh Thầy”, có nghĩa là, trong đời sống đức tin, Giáo Hội và từng người chúng ta được mời gọi, không chỉ nhân danh Đức Ki-tô bằng lời nói, nhưng còn mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô. Chính khi đó, như Đức Giê-su nói:

Thầy ở đấy, giữa họ.

Như thế, ở mức độ tận cùng và sâu xa nhất, Giáo Hội được mời gọi để cho Đức Ki-tô tiếp tục hiện hiện, lên tiếng và hành động ở giữa loài người chúng ta, để tha thứ, chữa lành, giải thoát và tỏ bày tình yêu đến cùng của Thiên Chúa Cha, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

 

 

 

 

 

5. Ngôn sứ của niềm hy vọng - ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

 

Khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được trao ban ba chức năng quan trọng, đó là: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Chức năng ngôn sứ để rao giảng Lời Chúa; chức năng tư tế để thánh hoá bản thân và góp phần thánh hoá môi trường xã hội; chức năng vương đế để cộng tác trong việc quản trị và xây dựng cộng đoàn đức tin. Cả ba chức năng này làm thành vẻ đẹp của đời sống Kitô hữu. Nhờ ba chức năng này, người tín hữu giáo dân không chỉ là những thành viên thụ động, dửng dưng với những sinh hoạt chung, nhưng là những thành viên tích cực tham gia làm cho cộng đoàn Giáo Hội địa phương sinh động và phát triển.

Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chức năng ngôn sứ. Như vừa nói ở trên, chức năng này giúp chúng ta loan báo Lời Chúa. Ngôn có nghĩa là Lời; Sứ là được sai đi. Người tín hữu được Chúa sai đi để nói Lời Ngài trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp khó khăn.

Lịch sử và truyền thống Do Thái giáo ghi đậm dấu ấn từ giáo huấn của các ngôn sứ. Trong Cựu ước, Chúa dùng các ngôn sứ để ngỏ lời với dân riêng được tuyển lựa. Thông điệp của các ngôn sứ mang nội dung rất phong phú: khiển trách, cảnh cáo, lên án, báo trước tai hoạ, khen ngợi, tuyên dương. Dù được sai đi để chuyển tải sứ điệp nào, các ngôn sứ đều phải trung thành với nhiệm vụ được trao. Bài đọc I hôm nay ghi lại lời Chúa căn dặn ngôn sứ Egiêkien. Ông sống và thi hành sứ vụ ở thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Chúa nói rõ với ông: “Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel”. Chúa cũng cảnh báo: phải trung thành với sứ mạng, và phải chuyển tải thông điệp một cách trung thực, không sợ hãi. Nếu ngôn sứ tránh né không dám nói sự thật, thì chính ông phải gánh chịu những hậu quả và tai ương. Egiêkien là ngôn sứ của niềm hy vọng. Ông chuyển tải cho dân chúng giáo huấn của Chúa nói về những bộ xương khô sẽ trở lại thành những con người sống động, những nấm huyệt sẽ được mở ra và những trái tim khô cằn chai đá sẽ được thay thế bằng trái tim bằng thịt biết yêu thương. Giáo huấn của ông đã góp phần nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân Israel trong cảnh lưu đày, giúp dân chúng vững tin vào Chúa trong khi chờ đợi ngày trở về quê cha đất tổ (x.Ez chương 36 và 37).

Đối với chúng ta hôm nay là người Kitô hữu, đâu là nhiệm vụ của người ngôn sứ? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong Tin Mừng. Thánh Mátthêu đã tổng hợp trong một đoạn văn ngắn giáo huấn của Chúa ở ba lãnh vực: sửa lỗi anh em, bao dung tha thứ, và cầu nguyện cộng đoàn. Mặc dù phân chia ba nội dung, nhưng đều có chung một ý tưởng, đó là sống với tha nhân, sống cho tha nhân và cùng cầu nguyện với tha nhân. Đây chính là nhiệm vụ của người ngôn sứ: nhắc nhở người khác trong tình bác ái khi họ làm điều sai lỗi, với sự khiêm nhường và với trái tim chân thành. Cộng đoàn xã hội cũng như cộng đoàn Đức tin luôn bao gồm những người tốt và những người chưa tốt. Chẳng ai có thể tự nhận mình là đã hoàn hảo. Mỗi chúng ta còn mang nhiều khiếm khuyết, mặc dù có thể hoàn hảo ở một khía cạnh nào đó. Chính vì vậy mà mỗi khi cử hành Thánh lễ, điều đầu tiên là chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm của mình và thân thưa với Chúa: Xin Chúa thương xót chúng con!. Việc sửa lỗi anh em là một nghĩa cử của đức bác ái, nên phải được thực hiện trong tình yêu thương như Chúa đã dạy. Người tín hữu vừa có bổn phận sửa lỗi người khác, vừa phải khiêm tốn lắng nghe những lời góp ý để hoàn thiện bản thân.

Con người sống trên trần gian không như những ốc đảo riêng biệt và khép kín, theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”, nhưng liên đới với nhau và cùng chung chia hạnh phúc cũng như đau khổ. Một người sống vô trách nhiệm, hoặc không quan tâm đến ích chung sẽ làm cho những người xung quanh bị ảnh hưởng lây, giống như đại dịch Covid-19 đang hoành hành nhân loại, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn xã hội. Ngày nay người ta cũng nói nhiều đến ô nhiễm môi trường do các công ty xí nghiệp tự tiện xả rác thải hoặc do nhiều người dân không có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Xã hội không chỉ ô nhiễm môi trường trong không gian, mà còn trong lãnh vực luân lý do lối sống buông thả và coi thường đạo lý. Hậu quả là ngày càng có nhiều vụ giết người cướp của, bạo lực và thù hằn ngay giữa những thành viên trong cùng một gia đình. Những đứa trẻ vừa sinh ra đã bị chính mẹ ruột của mình giết chết hoặc bỏ rơi. Tình mẫu tử đã khô cạn và tình nhân loại cũng không còn.

“Dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Trong Tin Mừng Thánh Mátthêu, đây là lần thứ hai Chúa Giêsu nói đến “Cầm buộc” và “Tháo cởi”. Tuy vậy, dựa theo ngữ cảnh, thì hai lần Chúa nói mang ý nghĩa khác nhau. Lần trước Chúa trao quyền cho thánh Phêrô chìa khoá Nước Trời với lời tuyên bố: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). Qua lời này, Chúa trao cho thánh Phêrô và Giáo Hội quyền lãnh đạo đoàn chiên của Chúa, duy trì kỷ luật và giúp các tín hữu nên hoàn thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói đến sự tha thứ bao dung, như một nhân đức cần phải có nơi mỗi người tín hữu. Nếu họ cố chấp không tha thứ cho người khác, Chúa cũng sẽ không tha thứ cho họ. Lòng bao dung quảng đại đối với tha nhân là một điều kiện căn bản để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đây cũng là ý nghĩa của lời cầu nguyện chúng ta vẫn đọc trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đó là nguyên tắc “gieo nhân nào gặt quả nấy” trong truyền thống Việt Nam, hoặc “đong đấu nào nhận đấu ấy” mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng. Nếu chúng ta khe khắt với anh chị em mình, thì Chúa cũng khe khắt với chúng ta.

“Yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” – Thánh Phaolô quả quyết với chúng ta như thế. Vị tông đồ dân ngoại có lý, vì luật yêu thương bao trùm tất cả. Chính tình yêu nâng tâm hồn chúng ta lên với Chúa và giúp ta sống hài hòa với anh chị em mình. Thánh Augustinô cũng nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”: Cứ yêu đi rồi sẽ làm được mọi sự”. Ở nơi khác, ngài cũng viết: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân”. Đó chính là hoa trái của Đức yêu thương. Tình yêu giúp chúng ta chiến thắng tất cả. Tình yêu là chu toàn Lề Luật.

Tình yêu đối với tha nhân còn là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa nhận lời chúng ta cầu xin. “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thày, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”. Lời cầu nguyện chung giữa hai hoặc nhiều người là lời cầu nguyện đặt nền tảng trên tình yêu thương. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa Giêsu nhấn mạnh “Xin bất cứ điều gì” cũng được Chúa Cha nhận lời.

“Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác nhà Israen…”. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, Chúa đang đặt chúng ta làm “người canh gác”, tức là người có khả năng và có trách nhiệm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm đang rình rập: có thể đó là lối sống buông thả, coi thường luân thường đạo lý. Có thể đó là sự dửng dưng với Thiên Chúa và những giá trị tâm linh. Đó còn là những mâu thuẫn, hận thù, dối trá, lừa lọc, chỉ nhìn những lợi lộc nhất thời trước mắt mà không chú ý đến tiếng nói của lương tâm và những ích lợi lâu dài. Một cuộc sống ngay thẳng, tốt lành của người tín hữu sẽ giống như lời nhắc nhở và cảnh báo đối với những người xung quanh. Họ giống như những biển báo giao thông được đặt hai bên đường, giúp người giao thông tránh những chỗ nguy hiểm, tuân thủ những quy định, hầu đem lại an toàn và hạnh phúc cho mọi người. Như ngôn sứ Egiêkien, mỗi chúng ta hãy trở nên ngôn sứ của niềm hy vọng, chiếu rọi ánh sáng của Chúa vào những góc khuất của cuộc đời và đem niềm vui của Chúa đến cho đồng loại hôm nay.

 

 

 

 

 

6. Sửa lỗi anh em – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

 

“Tu thân” là nền tảng đạo đức của Nho giáo trong việc đào tạo con người hữu ích cho gia đình, đất nước và nhân loại. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Tu thân là sửa mình, mình lại rất chủ quan dễ “thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt mình”. Đại đế Napoleon cũng nói: “Thắng mình còn khó hơn thắng vạn quân thù”. Bà Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết: “Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”. Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz. Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói: “Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai”. Capone đã tự tuyên bố: “Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”. Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả: “Ta là ân nhân của thiên hạ” (Đắc Nhân Tâm – trang 33,35).

Phương pháp chủ quan: Tự mình sửa mình thì rất khó, cho nên cần thiết phải dùng phương pháp khách quan mới dễ dàng giúp tu thân.

Khách quan cũng có nhiều cách như người ta thường nói: “Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”.

– Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt pháp luật:

Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đày biệt xứ, tử hình như thế quyền vẫn làm.

– Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả theo lối sống tự nhiên như chủ trương giáo dục của Rouseau.

Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo bản năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tâng bốc tính kiêu ngạo.

Đường lối giáo dục của Chúa là biểu lộ lòng thương yêu giúp đỡ tội nhân sửa lỗi, tôn trọng tội nhân như anh em, như bạn hữu, tôn trọng chủ quyền tự do quyết định của tội nhân; nhưng cũng rất chân thành và cương quyết loại trừ tội lỗi, không để tội lỗi lây lan ra cộng đồng. Loại trừ tội lỗi chứ không loại trừ tội nhân, vì vẫn luôn luôn cầu nguyện cho tội nhân.

Tin mừng cho chúng ta thấy vừa biết cách thức sửa lỗi anh em, vừa thấy trách nhiệm bác ái đòi buộc ta phải lo cải thiện anh em.

Để sửa lỗi anh em, trước nhất phải tế nhị, kín đáo, riêng tư khuyên bảo nhau sửa chữa lỗi lầm. Cố gắng hết sức mình mà không hữu hiệu, nhờ đến những người khôn ngoan, đạo đức, uy tín thân thuộc để khuyên bảo, hướng dẫn, chỉ rõ cái hay cái dở, cái tốt cái xấu, phải trái cho anh em theo con đường tốt lành thánh thiện và con đường cứu độ thương yêu của Đức Kitô.

Nếu nhiều người giúp đỡ hết cách, hết sức, cũng không lay chuyển được tội nhân, thì biện pháp sau cùng phải trình với Giáo hội, những vị đại diện cộng đoàn, bề trên trong Giáo hội tìm cách giáo dục bằng lời giảng dạy của Chúa, giáo lý của Chúa, luân lý của Chúa và sự thưởng phạt đời đời trong ngày phán xét.

Công đồng Vatican II đã đặc biệt đề ra con đường đối thoại trong Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 4 và Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 27 và 28 (Gaudium et Spes – Vui Mừng và Hy Vọng). Những tiêu chuẩn giúp ta biết đối thoại và tôn trọng nhân vị:

Thứ nhất là kính trọng yêu thương đối tác: dù là người tội lỗi thế nào, họ cũng được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu độ bằng giá máu Con Thiên Chúa.

Thứ đến là loại bỏ những lời nói, phán đoán và việc làm không đúng với hoàn cảnh anh em. Rồi đến trình bày rõ ràng minh bạch đúng sự thật, không úp mở, tránh né, giấu diếm hay mỵ dân.

Sau cùng là tín nhiệm: Tin lời mình nói và thiện chí người nghe. Biện pháp cực chẳng đã là kể họ như người ngoại đạo, để tránh gương xấu gương mù do tội lỗi họ gây ra. Tuy nhiên, không phải thế là hết, luật bác ái luôn luôn đòi buộc chúng ta mắc nợ họ, như lời thánh Phaolô đã nêu rõ trong Bài đọc I (Rm. 13,8-10). Nợ thì phải trả, không trả thì mắc nợ. Luật bác ái đòi buộc chúng ta phải cầu nguyện cho họ, đòi buộc cộng đồng cầu nguyện để Chúa đến ngự giữa họ (Mt. 18,15-20). “Chỉ nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới hòa giải họ với Người” (Allêluia).

“Hợp nhau cầu nguyện” đồng thời “mọi người hãy kiểm điểm mình có trung thành” với nhiệm vụ chu toàn luật Chúa chưa: Biết đâu vì lỗi nhiệm vụ ta đã làm cho anh em phạm tội như Chúa đã nhắc nhở tiên tri Êgiêkiel: “Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel …”. “Nếu ngươi không cảnh cáo nó bỏ đường gian ác, khi nó chết vì tội nó, thì máu nó sẽ đòi ngươi, như tuần canh thấy quân giặc kéo đến mà không thổi tù và, thì dân chết… Ta sẽ đòi máu nó nơi tuần canh. Nếu ngươi đã cảnh giác nó… nó chết vì tội nó, thì ngươi sẽ được thoát mạng” (Ej. 33,6-9).

Lạy Chúa, Chúa dạy con phải sửa lỗi anh em, nhưng chính con chưa sửa được lỗi mình, làm sao dám sửa lỗi người. Chỉ có Chúa là ánh sáng thế gian, xin soi sáng cho chúng con để chúng con biết cảm thông và soi sáng sửa lỗi cho nhau.

 

 

 

 

 

7. Sửa lỗi

 

Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm nổi bật tình liên đới giữa các phần tử của một cộng đoàn. Thực vậy, một cộng đoàn du lớn hay nhỏ, không phải lúc nào cũng chỉ có những con người tốt lành và thánh thiện. Trái lại rất nhiều kẻ cũng đã sai lỗi, cũng đã đi ngược lại với đường lối và chủ trương. Vậy trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta sẽ phải xử trí ra làm sao?

Nhiều người, trong chúng ta chủ trương trong một khuynh hướng cực đoan, đó là phải loại trừ tức khắc những kẻ phạm lỗi ra khỏi cộng đoàn, với nhiều lý do xem ra chính đáng: Nào là để giữ uy tín cho cộng đoàn, nào là để duy trì sự thánh thiện của cộng đoàn, nào là để ngăn đe cho tội lỗi khỏi lây lan.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nghĩ và đã hành động một cách khác. Đối với Người vấn đề chính yếu đó là phải làm thế nào cho kẻ phạm tội biết ăn năn trở lại. Người đã từng tuyên bố Người đến vì những con chiên lạc, để họ biết tìm về đường ngay nẻo chính. Người đến để đem lại sự sống chứ không phải cái chết. Lần kia người ta dẫn đến trước mắt Người một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Chiếu theo luật lệ hiện hành, thì chị sẽ bị ném đá cho đến chết. Còn Chúa Giêsu thì khác, thay vì ném đá, Người đã nói lên những lời tha thứ: Con hãy về và đừng phạm tội nữa.

Tính cách lành mạnh của một cộng đoàn không dựa trên sự thánh thiện của mỗi người, nhưng dựa trên mối quan hệ giữa các người trong cộng đoàn có khả năng làm cho kẻ phạm tội chỗi dậy, dựa trên một tình liên đới huynh đệ.

Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là bao che, là xí xoá. Tin Mừng cho chúng ta thấy một cuộc đấu tranh bền bỉ trong tình huynh đệ, nhưng không khoan nhượng. Khởi đầu bằng sự sửa lỗi giữa hai người với nhau, để giữ uy tín cho kẻ phạm lỗi trước mặt cộng đoàn khi họ trở lại. Vấn đề không phải là phạt, mà là sửa. Nếu không có kết quả, thì việc sửa lỗi sẽ được thực hiện với sự chứng kiến của người thứ ba. Và nếu kẻ phạm lỗi vẫn tứ tiếp tục ngoan cố, thì vấn đề sẽ được đưa ra cộng đoàn và nếu cũng không có kết quả, thì bấy giờ kẻ phạm lỗi mới bị coi như không còn thuộc về cộng đoàn nữa.

Những bước đi này cho thấy một sự kiên nhẫn, cũng như tính cách quyết liệt đối với những sai lỗi. Bằng sự sửa lỗi, chúng ta giúp nhau thăng tiến bản thân. Đồng thời đó cũng là cách thức chúng ta cộng tác với nhau để xây dựng Giáo Hội.

 

 

 

 

 

8. Sửa lỗi

 

Tại một góc phố nhộn nhịp của thành phố Nữu Ước, một chú cảnh sát gốc Việt Nam đang chỉ huy sự lưu thông. Dòng thác xe cộ và dân chúng xoay quanh chú. Bất thình lình chú phát hiện ra một người đi bộ cứ băng qua đường khi còn đèn đỏ. Chú liền thổi còi, giơ tay ngăn chặn và bước qua chỗ người vi phạm và nhận thấy đó là một người đồng hương. Chú bình tĩnh nhưng kiên quyết giải thích: Bạn hãy đợi một chút, khi đèn xanh bật sáng mới được đi. Với một nụ cười ngượng ngập, người vi phạm trở lại lề đường, nhìn đèn đỏ đổi sang vàng và rồi bước đi khi đèn xanh bật sáng. Tuy nhiên, thay vì đi thẳng qua, thì người đó lại nhún nhảy đi tới gần người cảnh sát gốc Việt Nam và thì thầm khi đi ngang qua viên cảnh sát: Chú hãy ý tứ, đừng cho những người da vàng này đi qua mặt.

Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta áp dụng vào điều Chúa Giêsu nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Lỗi phạm ở đây không phải chỉ là những xúc phạm đến bản thân chúng ta mà còn là tất cả những hành vi sai trái, khả dĩ gây nên gương mù gương xấu. Sửa lỗi người khác là bổn phận của một số người như chú cảnh sát Việt Nam trong câu chuyện, như cha mẹ, thầy dạy, huấn luyện viên và những người có trách nhiệm. Nhưng vấn đề là làm thế nào để thi hành điều đó. Câu chuyện trên cho chúng ta một số gợi ý.

Trước hết là khía cạnh tích cực. Thực vậy, chú cảnh sát không nhấn mạnh đến điều lầm lỗi là qua đường khi đèn đỏ, nhưng nhấn mạnh đến điều cần thiết là chỉ đi qua đường khi đèn xanh bật sáng. Chú không la hét cho người khác nghe được, nhưng chỉ nói nhỏ nhẹ mà kiên quyết với người vi phạm. Chú bảo người ấy điều phải làm cũng như điều phải tránh.

Tiếp đến là lời nói của chú thật đúng lúc và tế nhị. Tất cả đều giúp ích cho việc sửa lỗi anh em. Vì như chúng ta thường bảo: Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhiều khi chỉ vì những lời nói thiếu tế nhị, chúng ta chỉ tạo nên những bực bội và tức tối, khiến cho hành động thiện chí của chúng ta trở thành uổng công vô ích mà thôi. Đồng thời khi chỉ ra lầm lỗi của người khác, chúng ta nên lưu ý: Lầm lỗi đó không xúc phạm quá nhiều đến chúng ta; nhưng là lỗi nghịch với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân. Lầm lỗi của họ có thể làm mất lòng chúng ta, nhưng quan trọng hơn, đó là làm mất lòng Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã nhắc nhỏ: Chúng ta có thể đem theo một hay hai người khác để sửa sai. Và cuối cùng, nếu người ấy vẫn không chịu nghe, thì cực chẳng đã, mới phải trình bày với Giáo Hội hay vị có thẩm quyền. Còn nếu như chúng ta được người khác nhắc bảo thì hãy có can đảm lắng nghe và chấp nhận nếu như những lời nhắc nhở đó là đúng, bằng không chúng ta sẵn sàng bỏ qua, không vì chút tự ái vụn vặt mà làm cho bầu khí trở nên căng thẳng, bởi vì: Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.

 

home Mục lục Lưu trữ