Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1434507

YÊU SÁCH CỦA TÌNH YÊU

YÊU SÁCH CỦA TÌNH YÊU

 

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ - Suy Niệm và Giảng Lễ Chúa Nhật của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu Radio Veritas Asia)

Tại đảo Sycilia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một họa sĩ tài danh trong vùng sống cách đây vài trăm năm trước và là tác giả của bức họa nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu hiện được trưng tại nhà thờ chánh tòa trong vùng.

Sau thời gian làm việc, họa sĩ này đã vẽ xong dung mạo các tông đồ, nhưng còn hai dung mạo không vẽ được, đó là dung mạo của Chúa Giêsu và dung mạo của Giuđa người môn đệ phản Thầy.

Ông phải đình lại công việc để đi tìm người mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Sau nhiều tháng đi tìm, ông chọn được một thanh niên làm mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Vấn đề khó khăn cuối cùng là đi tìm người làm mẫu cho dung mạo Giuđa. Ông đã phải đi tìm rất nhiều năm mà không gặp, đến lúc gần cuối đời tưởng mình sẽ không thể nào hoàn thành bức tranh được nữa, ông buồn bã đi dạo trên đường phố quanh đó, thì bỗng gặp một người hành khất rách rưới với dung mạo đầy khổ đau mà cũng vừa gian ác. Cho đây là mẫu người lý tưởng cho dung mạo của Giuđa, ông mời người hành khất về nhà làm mẫu cho bức tranh còn dang dở.

Nhìn thấy bức tranh Chúa Giêsu và các môn đệ được trình bày trong phòng, người hành khất bỗng biến sắc và càng lúc càng trở nên bối rối hơn.

Người họa sĩ hỏi lý do tại sao?

Người hành khất trả lời:

- Thưa ông, chính tôi đây là người đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu trong bức tranh này cách đây vài chục năm về trước, và bây giờ cũng chính tôi là người làm mẫu cho ông vẽ chân dung của Giuđa, người phản bội Chúa. Thật tôi không ngờ là tôi đã trở nên tồi tệ như vậy.

Câu chuyện trên giúp chúng ta đi sâu hơn một chút vào ý nghĩa câu nói của Chúa Giêsu ghi lại nơi đoạn Phúc âm của Chúa nhật hôm nay: “Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thày, và người nào đón tiếp Thày là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Trên con đường trở về nhà Cha, đón tiếp Thiên Chúa và được Thiên Chúa đón tiếp, chúng ta cần đi qua một con đường duy nhất, đó là anh em, đó là mỗi người chúng ta cần trở nên giống Chúa Giêsu Kitô, trở nên một Chúa Giêsu Kitô khác, đến độ anh em có thể nhìn vào dung mạo tinh thần của chúng ta mà nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, để rồi từ đó mà lên gặp gỡ Thiên Chúa Cha, Đấng vô hình: “Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”.

Kể từ giây phút Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để con người có thể nhìn được Thiên Chúa vô hình nơi dung mạo hữu hình của Chúa Giêsu Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Kể từ giây phút đó con người chúng ta, mỗi người chúng ta cũng được ban cho quyền năng để trở nên giống như Chúa Giêsu Kitô, để trở nên dấu chỉ hướng dẫn anh em đến cùng Thiên Chúa Cha: “Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”. Và để chúng ta được trở nên một Chúa Giêsu khác, được giống như Chúa Giêsu thì dường như chỉ có một bí quyết duy nhất và bí quyết đó được Chúa Giêsu nhắc lại trong đoạn Phúc âm hôm nay, đó là tình yêu vô điều kiện. Đối với Chúa Giêsu, yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người, tình yêu sẽ làm cho hai người trở nên giống nhau.

Chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta đã được Chúa ban cho hồng ân để trở nên giống như Chúa từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội, như được thánh Phaolô đã nhắc lại trong bài đọc thứ hai hôm nay qua cách nói: “Chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, là chịu phép rửa trong sự chết với Người và cùng chịu mai táng với Người, để được thanh tẩy trong sự chết của Người và nhờ sức mạnh của Người, như Chúa Giêsu sống lại thế nào thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy”. Mỗi người chúng ta đã được đón nhận hồng ân trở nên giống như Chúa và hồng ân này cũng là trách nhiệm mỗi người chúng ta, mỗi người chúng ta cần phải thực hiện điều mà Chúa ban cho, là trở nên giống như Chúa. Hồng ân và trách nhiệm luôn đi đôi với nhau.

Thử hỏi tình yêu được Chúa đổ vào trong tâm hồn chúng ta hiện tại đã được phát triển như thế nào? Chúng ta có trở nên giống như Chúa hơn hay chúng ta đã phung phí tình yêu đó? Phung phí ân sủng Chúa ban cho để rồi chúng ta không còn thể hiện dung mạo của Chúa nữa mà thể hiện dung mạo của một người phản bội của Chúa, như dung mạo của Giuđa.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lắng nghe tiếng Chúa hôm nay, nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho và đồng thời vừa ý thức được trách nhiệm Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta, để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống như Chúa nhiều hơn. Xin Chúa ban cho chúng ta tình thương, cho chúng ta được biết đặt Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người và cho chúng ta được càng ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn, để chúng ta được đồng hóa với Chúa: "Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy và kẻ nào đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy". Tất cả chúng ta, mỗi người chúng ta là con đường để giúp anh chị em đến với Chúa Giêsu Kitô và đến với Thiên Chúa.

 

20.Từ bỏ

Năm 1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Cartarina với bốn đứa con thơ dại.

Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã để lại.

Một hôm, tình cờ cha Bandenla, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn mười năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.

Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.

Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xixilia. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.

Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ. Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không? Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.

Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.

Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.

 

21.Ðòi hỏi và vinh dự của môn ðệ

(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ - Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Với ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta có thể suy nghĩ nhiều điều về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa Yêsu. Ðó cũng là đời sống của chính chúng ta, xét về mặt đạo đức thiêng liêng. Chúng ta đã thực thụ trở thành môn đệ Chúa Yêsu khi cùng chịu mai táng và sống lại với Người trong bí tích Rửa tội, như bài Thánh thư hôm nay nói. Từ ngày đó chúng ta không ngừng phải vác Thập giá hàng ngày để đi theo Người, nhưng đồng thời cũng nhận được vinh dự của người môn đệ đi theo Thầy, như Người đã hứa trong bài Tin Mừng. Và trong Hội Thánh luôn có những Ngôn sứ muốn sống triệt để ơn gọi làm Môn đệ của Chúa như Êlisê ngày trước mà bài sách các Vua còn kể lại nhiều mẩu truyện rất ý nghĩa. Chúng ta thử đọc về đời sống của người môn đệ đi theo Chúa, tức cũng là ơn gọi của chính chúng ta.

A. Chúng Ta Ðã Trở Thành Môn Ðệ

Ðoạn thư Rôma hôm nay được chọn để đọc một cách long trọng đặc biệt trong Canh thức Phục sinh. Chúng ta nên dùng để suy nghĩ mỗi khi có nghi thức Rửa tội. Nhưng bất cứ khi nào tự hỏi về ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta cũng có thể đem đọc để thấy rõ mình đã trở nên môn đệ của Chúa như thế nào.

Vẫn biết ơn Chúa kèm theo lời rao giảng Tin Mừng đã ban nhân đức tin cho chúng ta. Chúng ta đã bắt đầu đi theo Chúa ngay từ khi chúng ta để Lời Chúa và tình yêu của Người lôi cuốn chúng ta. Có thể nói được chúng ta đã là tín hữu của Chúa vì chúng ta đã tin Người có lời ban sự sống cứu độ chúng ta. Một phần nào chúng ta đã là môn đệ của Chúa rồi, vì theo Thánh Kinh người môn đệ luôn để tai nghe Lời Chúa. Tuy nhiên, chưa có hành vi nào xác nhận chúng ta là tín hữu và môn đệ. Phải đợi đến ngày chúng ta chịu phép Rửa nhân Danh Chúa Yêsu Kitô.

Phép Rửa này độc nhất vô nhị. Không thể so sánh với một nghi lễ tôn giáo nào, kể cả phép rửa của Yoan Tẩy giả. Thánh Kinh nói rõ và chính Yoan đã khẳng định: "Tôi rửa trong nước; còn Người rửa trong Thánh Thần". Do đó đây không phải là biểu tượng và lễ nghi, nhưng là hoạt động của Thánh Linh. Sức mạnh của Thiên Chúa làm việc thật sự trong Hội Thánh dội nước trên con người. Nước chảy trên đầu không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tội lỗi. Và việc chịu phép Rửa không phải chỉ là một nghi lễ phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Có hoạt động thật sự của Thiên Chúa trong việc dội nước và làm nghi lễ này. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nói: Chúng ta đã chịu phép Rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu mai táng với Người. Chúng ta cùng chết với Người trong cái chết xóa sạch tội lỗi mà Người đã chịu trên thập giá. Vì chấp nhận muốn cùng chết với Người cho tội lỗi như vậy mà chúng ta được tha tội và nước dội trên đầu chúng ta có sức mạnh thanh tẩy tâm hồn. Thế nên mọi người lớn, khi chịu phép Rửa tội, đều phải có lòng thống hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Và tất cả chúng ta, khi muốn ý thức lại ơn trở thành môn đệ và tín hữu của Chúa đều phải tuyên xưng lại ý chí muốn chết cho tội lỗi và các khuynh hướng xấu xa. Không có việc muốn kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi dù người ấy có lòng thống hối ăn năn và chịu rửa như nhiều người dưới thời ông Yoan Tẩy giả. Mọi hành vi thú nhận tội lỗi và ăn năn thống hối của con người đều không làm cho con người được khỏi tội. Chỉ có lòng từ bỏ tội lỗi trong tinh thần kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm tử nạn cứu thế của Người mới mang lại ơn thanh tẩy tâm hồn.

Vì sao vậy?

Vì mọi lễ đền tội mà loài người dâng lên đều bất xứng và không được chấp nhận nếu không tựa vào lễ hy sinh đền tội mà Người Con Chí Ái của Thiên Chúa đã dâng lên khi Người chịu chết trên Thập giá. Thiên Chúa đã tỏ ra ưng thuận lễ dâng này khi cho Con Người sống lại từ kẻ chết. Người đã chết vì tội lỗi loài người, thì khi phục sinh Người trong sự chết này, Thiên Chúa đã tỏ ra chấp nhận tha thứ hết mọi tội lỗi cho loài người chúng ta. Sự sống lại của Con Thiên Chúa là ơn tha thứ tội lỗi vậy. Người ta được ơn tha thứ tội lỗi không phải khi kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong sự chết của Người nhưng là khi được cùng Người sống lại trong sự phục sinh của Người. Không thể tách rời việc cùng chịu mai táng với Ðức Kitô và việc cùng Người sống lại, vì sự chết của Người chỉ có giá trị cứu thế khi Thiên Chúa phục sinh Người từ kẻ chết. Thế nên chết đi cho tội lỗi là việc của con người, nhưng ban ơn thanh tẩy đổi mới tâm hồn là ơn của Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa hoạt động và ban Thánh Thần cho con người khi họ chấp nhận chết đi cho tội lỗi trong mầu nhiệm Tử nạn cứu thế của Ðức Yêsu Kitô. Nhờ và trong bí tích Rửa tội, con người tội lỗi cũ kỹ đã chết đi để Thánh Thần tạo dựng con người mới sạch tội và thánh thiện trong Con Thiên Chúa.

Như vậy lễ nghi Rửa tội không phải chỉ là nghi thức phải làm để được công nhận là tín hữu và môn đệ. Và Nước Rửa tội không phải chỉ diễn tả ơn thanh tẩy tâm hồn. Nhưng thật sự Thiên Chúa hành động trong lễ nghi này. Người dùng Thánh Thần để mai táng tội lỗi trong sự chết của Ðức Kitô và để tạo dựng con người mới trong sự phục sinh của Người. Có một biến đổi thật sự nơi người chịu phép Rửa. Từ thân phận một kẻ xa lạ thù địch với Thiên Chúa, con người nhờ ý chí kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Người, trở nên tạo vật mới đối với Thiên Chúa, không những sạch tội mà còn thánh thiện vì đã đồng hình, đồng dạng, đồng hóa với Con Thiên Chúa. Chúng ta không còn thuộc về thế giới tội lỗi nữa, nhưng đã được đưa sang Nước sáng láng của Chúa Yêsu Kitô phục sinh. Người đang sống sự sống mới và ban sự sống mới ấy cho hết thảy những ai sống trong Nước của Người.

Như vậy việc trở nên tín hữu và môn đệ của Người thật là vô thường, không thể dùng nghi thức xã hội nào để so sánh được. Trong mọi nghi thức xã hội công nhận một môn sinh hay môn đệ, chỉ có sự công nhận có thể nói là bề ngoài, không thay đổi gì bản chất con người môn đệ. Còn ở đây, trong bí tích Rửa tội, có sự biến đổi, tạo dựng thật sự, khiến một kẻ trước đây là tội nhân nay trở nên công chính; trước đây là xa lạ, thù địch, nay là nghĩa tử và là con cái Thiên Chúa; trước đây ở ngoài Ðức Kitô, nay là Kitô hưũ và kết hiệp với Người như cành với thân cây, như chi thể với thân thể.

Ai hiểu như vậy mà không quý trọng ơn của bí tích Rửa tội? Ai thấy như thế mà không xác tín về nội dung của ơn làm môn đệ của Ðức Kitô? Chúng ta hết thảy đã trở thành môn đệ của Người khi chịu phép Rửa tội. Chúng ta phải sống ơn gọi môn đệ ấy thế nào đây?

B. Ðòi Hỏi Và Vinh Dự Của Môn Ðệ

Bài Tin Mừng hôm nay nói rất rõ. Chúa Yêsu tuyên bố: ai yêu mến cha mẹ, con cái hơn Người thì không xứng đáng là môn đệ của Người. Và Người còn đòi hỏi hơn nữa khi tuyên bố tiếp theo: "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta". Nếu được phép làm một phân tích văn chương nho nhỏ, chúng ta có thể nói các đòi hỏi đã được đưa ra càng ngày càng gắt gao hơn. Ðầu tiên Chúa chỉ đòi người môn đệ phải yêu Người hơn cha mẹ; rồi Người bảo họ phải yêu Người hơn cả con cái là những giọt máu của chính bản thân mình; cuối cùng Người lại buộc họ phải vác lấy khổ giá mà đi theo Người tức là phải yêu Người đến nỗi không sợ chết và dám bỏ mạng sống vì Người.

Nói cách khác, Chúa đòi người môn đệ phải từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để đi theo và yêu mến Người. Người không cho phép môn đệ nào được lấy cớ yêu cha yêu mẹ, yêu con cái hay sự sống của mình mà từ chối với Người một điều gì khiến Người thấy tình yêu của môn đệ đối với Người chưa thật hoàn toàn và Người chưa là tất cả đối với họ. Người đòi hỏi tình yêu tuyệt đối, nên Người không nhận làm môn đệ những kẻ muốn đi theo Người nhưng lại còn xin phép về nhà lo an táng cha hay thu xếp những công việc khác. Người có thể đòi hỏi như thế bởi chính Người đã từ bỏ tất cả vì môn đệ và để cho người ta trở thành môn đệ. Chúng ta đã thấy Người đã nộp mình chịu chết cho những kẻ Người thương yêu như thế nào. Tình yêu lớn lao như vậy và tuyệt đối như thế chỉ thấy người môn đệ xứng đáng khi họ cũng yêu tuyệt đối và lớn lao như vậy.

Tuy nhiên luận lý như trên hãy còn quá đơn giản. Chúng ta chưa hiểu bản chất con người đòi hỏi như vậy là ai. Không phải Người đã yêu và làm cho môn đệ như vậy nên Người đòi môn đệ phải yêu và phải làm như thế. Thực ra khi tuyên bố những đòi hỏi kia, Ðức Yêsu Kitô chưa nộp mình chịu chết cho môn đệ và môn đệ chưa thấy Người vác Thập giá đi trước để bảo mình phải vác khổ giá đi sau. Ðức Yêsu đã đưa ra những đòi hỏi tuyệt đối, không phải nhân danh sự chết của mình cho những người mình yêu thương, nhưng nhân danh bản tính Thiên Chúa ở nơi mình và vì mình là Thiên Chúa. Và Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi một cách tuyệt đối như vậy. Mọi sự, mọi người và nhất là sự sống đều là của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người có quyền đòi chúng ta phải dâng tất cả lại cho Người, nhất là khi hiến dâng đây, chúng ta không những không mất mát mà còn được lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn.

Ðó là ý tưởng của Lời Chúa tiếp theo. Người tuyên bố: Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại. Ðừng vội kết luận rằng sự hy sinh của người Kitô hữu cuối cùng vẫn có tính cánh vụ lợi và tính toán. Vẫn biết có lần Chúa Yêsu đã trả lời cho Phêrô khi ông này lên tiếng: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy". "Qủa thật, Người nói, không ai bỏ nhà cửa, hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng, mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đời này... và sự sống đời đời trong thời sẽ đến" (Mc 10,28-31). Nhưng nếu đọc kỹ, đọc hết mọi lời của Chúa, chúng ta sẽ thấy Người đã mau lẹ chuyển từ bình diện tự nhiên sang bình diện siêu nhiên, từ những sự ở đời này sang những thực tại vô hình. Những hy sinh mà người môn đệ phải chịu rất là thực tế, còn phần thưởng dành cho họ vẫn đòi hỏi một niềm tin. Thế nên không thể nói đến sự hy sinh của họ không thoát khỏi vòng danh lợi. Ngược lại chính để thoát khỏi vòng danh lợi giam hãm con người trong vũ trụ vật chất chóng qua mà họ chấp nhận hy sinh để đạt được những giá trị và chân lý mà cùng lắm những giá trị đời này chỉ là hình ảnh.

Ở đây chúng ta không cần suy tư triết học. Chúng ta ý thức rõ ràng Chúa Yêsu Kitô đòi người môn đệ phải dám hy sinh tất cả cho Người để chứng tỏ tình yêu tuyệt đối đối với Người và để minh chứng Người thật là Thiên Chúa. Và khi hy sinh như vậy họ tìm được sự sống.

Trong khi ấy họ đẹp lòng Thiên Chúa đến nỗi Người sẵn sàng thưởng công cho những ai có một cử chỉ tốt lành nào đó đối với họ, dù chỉ cho họ một bát nước lã mà thôi. Với lời hứa này Người khuyến khích mọi người yêu mến các môn đệ của Người, cho dù họ thật bé mọn trước mặt thế gian. Và như thế chúng ta có thể tạm kết luận về bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Yêsu tuyên bố rõ ràng là người môn đệ đi theo Người phải có lòng yêu mến Người đến nỗi sẵn sàng hy sinh đến cả mạng sống vì Người. Và điều này phù hợp với lời thư Phaolô hôm nay nói: người môn đệ hãy tự kể mình như đã chết cho tội lỗi và nay sống cho Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Ðó là nếp sống mới, nếp sống của người môn đệ đối với Thiên Chúa. Còn đối với nhau họ được vinh dự như là "báu vật" của Người đến nỗi ai làm cho họ việc gì tốt đều không mất phần thưởng trên Nước Trời. Từ đó họ phải sống bác ái phục vụ nhau như thế nào!

C. Những Bậc Thang Giá Trị

Bài sách các Vua có thể dùng để nói về việc phục vụ này. Quả vậy, bà lớn ở thành Shunem nọ đúng là "người đã đón tiếp một vị tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, nên đã lãnh phần thưởng của nhà tiên tri". Bà là người sang trọng. Bà thấy tiên tri Êlisê đến thăm thành mình. Bà mời ông quá bộ đến ở tại nhà bà vì bà là con người đạo đức, nghĩ rằng Thiên Chúa đã cho mình có của thì mình phải phục vụ những "người của Thiên Chúa", tức là các môn đệ đặc biệt của Người. Và hiểu rằng nhà tiên tri có nhiều dịp qua lại Shunem, bà bàn với chồng phải trang bị cho người một phòng đặc biệt dành riêng và ở trên gác cao để người được tự do giao tiếp với Thiên Chúa. Bà ta thật tế nhị và am hiểu các đòi hỏi của đời sống một tiên tri: không thể để người chung đụng với phàm tục. Thái độ và cử chỉ của bà thật quý hóa. Nhà tiên tri mủi lòng, và muốn thưởng công. Ông hứa cho bà sẽ sinh con trong tuổi già của người chồng.

Chắc chắn đó là phần thưởng quá mức mong đợi đối với hai người. Nhưng câu nói của bài Tin Mừng hôm nay như muốn so sánh và bảo chúng ta rằng: đó chỉ là phần thưởng của một tiên tri cho một việc lành đối với nhà tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa cho người làm phúc cho môn đệ của Người một bát nước lã, còn đáng trông đợi hơn nhiều!

Nhưng chúng ta cũng có thể đọc câu truyện trên về phía nhà tiên tri để thấy Êlisê cũng là hình ảnh người môn đệ đi theo Chúa. Ông như không có gia cư và không bám vào đâu cả. Ông sống cho Thiên Chúa và luôn đi làm theo ý của Người. Người ta thấy rõ ông đã thoát tục, chết cho thế gian này nên bà lớn kia khi rước ông vào nhà đã dọn cho ông một phòng riêng biệt và ở trên gác cao, để ông xa tránh phàm tục và sống cho Thiên Chúa. Chắc chắn ông thông thạo các việc của Người, nhưng khi muốn khen thưởng người đã có công đối với mình, ông phải nhờ đến ý kiến của người tiểu đồng đi theo. Anh này gần các thực tại thế gian này hơn. Anh biết gia đình chủ nhà đây đang cần gì hơn hết. Nhà tiên tri cho gọi bà chủ. Bà này lên đứng ở ngoài cửa để vẫn kính trọng nhà tiên tri là người đã thuộc về Thiên Chúa. Và nhà tiên tri đã thưởng công cho bà.

Như vậy, ngay từ thời Cựu Ước, người ta đã ý thức rằng đời sống của con người sống cho Thiên Chúa phải như đã chết đi cho thế gian và tội lỗi. Ðó là giáo lý của bài Thánh thư và của bài Tin Mừng. Tuy nhiên đây không phải là sự chết mất mát, từ bỏ và tiêu hủy những giá trị chân thật. Nhà tiên tri sống cho Thiên Chúa nhưng vẫn quan tâm đến hạnh phúc của người khác và nhất định muốn chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân. Khi nói chết cho thế gian, chúng ta chỉ có ý nói đến việc chết cho tội lỗi và những sự xấu xa, để tỉnh táo và đầy đủ hơn đối với những việc lành phải làm.

Vậy, nếu trong thánh lễ sắp cử hành đây chúng ta muốn nhắc lại việc Chúa Yêsu chịu chết để hủy diệt tội lỗi nơi chúng ta, thì chịu lấy Mình Thánh Người để nuôi sống mình chúng ta phải quyết tâm sống cho Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tỏ ra muốn yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người; mà chúng ta cũng phải làm đầy đủ mọi nghĩa vụ đối với tha nhân và xã hội. Việc thi hành tốt mọi phận vụ ấy không bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa đâu. Chính những việc làm như vậy chứng tỏ chúng ta là môn đệ tốt của Người. Nhờ các bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta cứ suy nghĩ thêm về ơn gọi, đời sống, đòi hỏi cũng như vinh dự của người môn đệ đi theo Chúa, để đời sống chúng ta mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn.

 

22.Đón tiếp

Một số người nghĩ rằng Giáo Hội đã lỗi thời và không còn cần thiết nữa. Có người cho rằng giảng huấn của Tin Mừng là khùng điên. Trong số báo The World xuất bản tháng 11 năm 1989, Ted Turner chủ nhân của cơ quan truyền thông Turner Broadcasting đã tuyên bố: “Kitô giáo là một tôn giáo dành cho những kẻ thua cuộc”. Ngoài câu nói này, ông còn vung vít nhiều điều khác nữa, nhưng câu này gồm tóm điểm chính yếu những gì ông ta đã phát biểu.

Trước mặt người đời những người Kitô hữu là những người khùng điên, dại khờ, thua lỗ. Nhưng điều người đời nghĩ rằng điên dại thì thật ra lại là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Phaolô đã nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”.

Bài Phúc âm hôm nay, là phần kết luận của chương 10, “Bài giảng về những Sứ Mệnh Truyền Giáo”. Đây là những hướng dẫn của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ trước khi sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Sau khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã ban quyền hành và sai họ ra đi thi hành mục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Người ta chỉ thị cho họ phải chấp nhận cuộc sống hy sinh, khó nghèo, làm việc vất vả, gặp nhiều thử thách, bị bắt bớ hành hạ và bị giết chết. Đứng trước viễn tượng đó Người đã khuyên họ không nên vì sợ hãi mà thiếu lòng tự trọng, rồi mang mặc cảm tự ti làm hủy diệt nhân cách con người. Bởi, tuy không được tôn trọng trước mặt người đời, nhưng trước mặt Thiên Chúa họ rất quan trọng. Đây chính là Tin Mừng đối với các tông đồ.

“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Chúng ta có bao giờ thực sự nghĩ rằng khi một người nào đó đón tiếp chúng ta là họ đón tiếp Chúa Giêsu Kitô không?

Theo những cuộc thăm dò cho biết hai trong ba người có quan niệm rất thấp về bản thân mình. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự tự đánh giá thấp về chính mình. Thiếu lòng tự trọng thường là nguyên do của nhiều vấn đề xã hội và tâm lý. Người có lòng tự trọng cao thường lành mạnh hơn là những người thiếu lòng tự trọng. Họ sống lâu và ít có tai nạn hơn. Họ tránh được những thái độ khiêm nhã. Họ không cần phải dùng đến thuốc kích thích hay bia rượu, và cũng không cần phải khoe khoang hay làm những sự liều lĩnh ngu xuẩn để gây sự chú ý. Những người có lòng tự trọng cao thường thành công và kiếm được những việc làm lương bổng cao hơn. Tại sao? Những nhà tâm lý học trả lời rằng vì họ có niềm hy vọng và tinh thần lạc quan. Đây chính là yếu tố tạo nên thành công.

Martin Seligman, giáo sư tâm lý học của trường đại học University of Pennsylvania đã làm cuộc thăm dò các nhân viên của một hãng bán bảo hiểm lớn. Kết quả cho thấy rằng những người mong mỏi thành công đã bán bảo hiểm được 37/o nhiều hơn những người không mong đợi gì. Điểm then chốt là khi một người tự coi mình là một người thất bại thì tương lai sẽ thể hiện đúng điều dự đoán đó!

Tôi nghĩ Chúa Giêsu cũng đã hiểu tâm trạng của các tông đồ khi bị hất hủi và bị bắt bớ, họ phải trải qua những thời gian khó khăn để kiến tạo sự tự trọng. Suy nghĩ tích cực về chính mình đang khi bị phê bình gay gắt là những thử thách tâm lý khó khăn nhất các môn đệ đang gặp phải

Những lời khích lệ của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có giá trị vì được Thiên Chúa yêu thương. Giá trị của chúng ta không hệ tại ở lời phê bình của người đời, hay do tài năng khéo léo của chúng ta, nhưng vì chúng ta là môn đệ của Người, cho dù nam hay nữ, già hay trẻ, giáo dân hay tu sĩ, hay chỉ là một trong những con người “bé nhỏ”.

“Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy… người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Có khi nào chúng ta nghĩ rằng chúng ta đón tiếp một người nào đó là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu không? Những người Công giáo ở Ao Quốc thường treo khẩu hiệu này ở nhà mình: “Người khách là Chúa Kitô”.

Trong suốt 58 năm làm linh mục (1910-1968), thánh Padre Piô đã nghe hàng ngàn người xưng tội. Thế nhưng, hiều vị giáo sĩ lúc bấy giờ đã coi cha Padre Piô là kẻ dối trá. Từ những năm mới bắt đầu, dân chúng tung tin đồn ngài là nhà huyền bí giả hiệu với những vết thương tự làm khổ mình, và cả chuyện lăng nhăng về tình dục. Năm 1931 với sự đồng ý của Vatican, bề trên đã cấm ngài không được giải tội và dâng thánh lễ công khai. Phải mất 2 năm để điều tra và phục hồi năng quyền cho ngài được dâng thánh lễ. Mãi đến ngày 5 tháng 3 năm 1934 ngài mới được phép giải tội, nhưng chỉ ngồi tòa cho đàn ông mà thôi. Hai tháng sau đó, ngày 12 tháng 5, ngài mới được phép giải tội cho cả phụ nữ nữa. Vì sự nghi ngờ này, nhiều vị trong Giáo Hội tránh né cha Padre Piô. Nhưng vị giáo hoàng tương lai đã không thèm để ý tới những tin đồn. Ngài đã chỉ dựa vào cảm giác tốt lành của những người Công giáo bình thường: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri“.

Đức Giáo Hoàng đã đón nhận một phần thưởng tốt đẹp. Năm 1962, đang khi tham dự Công đồng Vatican II, ngài nghe tin một bè bạn đang hấp hối vì ung thư cổ họng. Ngài viết thư xin cha Padre Piô cầu nguyện cho bà. Dr Wanda Poltawka đã được khỏi bệnh và phục hồi sức khỏe. Và 40 năm sau, bà đã có mặt trong buổi lễ phong thánh của cha Padre Piô.

Chúng ta cầu xin Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những vị thánh, giống như cha Padre Piô. Nhưng chúng ta cũng phải cầu xin cho chính chúng ta có sự khiêm tốn để đón nhận họ như một vị thánh nữa.

home Mục lục Lưu trữ