Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1435153

VUA GIÊSU

VUA GIÊSU

 

(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.

Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Lễ này kết thúc năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.

Ed 34: 11-12, 15-17

Bài Đọc I, trích sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành, trong đó ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a mà muôn dân mong đợi không chỉ là vua, nhưng còn là mục tử nhân lành chăn dắt dân Ngài.

1Cr 15: 20-26, 28

Bài Đọc II, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Chúa Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài. Vào ngày chung cuộc, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực của Sự Ác và Tử Thần.

Mt 25: 31-46

Tin Mừng trình bày Ngày Chung Thẩm, vào ngày đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.

BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 tCn, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon.

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa này bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân đội Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân đội Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa.

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các vua Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.

Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en từ ngôn sứ loan báo tai họa biến thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng: Sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.

1. Sứ điệp hy vọng

Trước hết, sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa): mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày sang Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.

Ngôn sứ hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và quy tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tích, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Ngài sẽ trừng trị những mục tử gian ác, những kẻ cậy quyền dựa thế chà đạp những kẻ nghèo hèn thấp cổ bé miệng.

Sứ điệp chứa chan hy vọng gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ lãnh đạo dân Ngài.

2. Tôn giáo tình yêu

Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi sứ điệp còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”.

Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính trên những tiêu chuẩn tình yêu này mà vị Vua Mục Tử tuyên án.

BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)

Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, được thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác vốn ngăn trở linh hồn lại được thăng hoa cách viên mãn, vốn ngục tù giam hãm linh hồn lại được sống lại?

Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rễ trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành phần kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô nêu lên.

1. Một sự liên đới giữa sự phục sinh của Đức Giê-su và sự phục sinh của chúng ta

“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta, liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô, Ngài là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta được cứu.

2. Vương quyền của Đức Giê-su

Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về ngày chung cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Ngài đã được trao ban. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.

TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)

Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến này đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.

1. Con Người

Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).

Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi thuật ngữ “Con Người” được đặt ở đầu. Tước vị “Con Người” theo nguyên ngữ: “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân”: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thiên giới, nhưng không kém phàm nhân.

Như vậy, Đức Vua, được gọi “Con Người”, giáng trần để xét xử trần gian nhắc nhớ, trước tiên Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng này ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua -Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo khổ thua thiệt và bênh vực họ, đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.

Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức (Xh 2: 23-25). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo những từ ngữ loan báo Tin Mừng:

“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do,

lại còn lột cả áo che thân của họ.

Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống,

người đói lả, anh từ chối bánh ăn.

Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành,

và cho người thần thế được định cư.

Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng,

các cô nhi, anh bắt phải bó tay.

Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía

làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).

2. Mến Chúa và yêu người

Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất ở nơi Ngài Thiên Chúa và nhân loại chúng ta?

Trong hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu của Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy”.

3. Bối cảnh lịch sử

Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng này đã có thể có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn văn này, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bị bách hại, chịu những gian truân tứ phía, bị tù đày. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải chính trên đường Đa-mát Đức Giê-su đã nói với Phao-lô, kẻ bách hại các tín hữu của Ngài: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9: 4) sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn nhiều.

4. Tầm mức hoàn vũ

“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa… Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Hơn nữa, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ‎ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).

Đức Giê-su nối kết diễn từ “Cánh Chung” với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Ki-tô: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.

Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.

 

12.Đức Kitô Vua.

Đức Kitô có phải là Vua không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một đảng phái đối lập, cũng chẳng phải là một vị vua chúa như người đời vẫn quan niệm. Suốt cuộc sống công khai, Ngài không bao giờ chấp nhận tước hiệu Messia, tước hiệu là vua theo mơ ước của dân chúng. Vì mơ ước của họ pha trộn quá nhiều những yếu tố trần tục, quá nhiều những tham vọng chính trị. Thực vậy, sứ mệnh của Ngài không như sứ mệnh của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Ngài không như quyền bính của hoàng đế Lamã hay như bất kỳ một vị vua chúa nào trên trần gian.

Sứ mệnh của Ngài thuộc một lãnh vực khác. Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều lần Ngài đã từ chối cái cách tôn phong Ngài lên làm vua của dân chúng. Sau phép lạ bánh hoá nhiều dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trốn. Nhưng cũng có lần Ngài sẵn sàng biểu dương trước công chúng, khi Ngài hiên ngang tiến vào Giêrusalem, xuất hiện với những phương tiện khiêm tốn, phù hợp với lời tiên báo của Giacaria. Ngài để cho dân chúng tung hô như là vua Israel. Trong phiên toà dân sự tại dinh Philatô, đề tài xét xử chính là vương quyền của Ngài. Khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu ấy, nhưng Ngài đã minh xác rằng: Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này.

Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Ngài lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Đức Kitô đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, của tình yêu. Kẻ thù duy nhất của Ngài là vương quốc của Satan, của thù hận, của chia rẽ và của tội lỗi.

Các ngai vàng, các vương miện, các triều thiên và áo cẩm bào chỉ là những đồ trang sức tạm bợ chóng qua, chúng ta không được phép hiểu vương quyền của Đức Kitô qua những hình ảnh đó. Chính Ngài cũng đã tự tách mình ra khỏi các thủ lãnh của trần gian như lời Ngài đã phán: Vua chúa các nước thì cai trị ân, và những kẻ làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân. Đức Kitô không phải là một thủ lãnh áp chế, trái lại cai trị theo Ngài có nghĩa là lột sạch mọi tự cao, hào nhoáng và vênh vang, cai trị đối với Ngài chính là phục vụ.

Đức Kitô phục vụ chúng ta và Ngài phục vụ một cách khiêm tốn, thận trọng và kín đáo. Ngài đã phục vụ đến độ hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Sự tự hạ của Ngài đi đến chỗ đồng hoá với những kẻ bé mọn và thấp kém nhất. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự dấn thân để phục vụ và giúp đỡ những kẻ bé mọn thấp kém chung quanh chúng ta hay chưa?

 

13.Suy niệm của Lm Jos Tạ Duy Tuyền

THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG NHƯ BẠN VÀ TÔI

Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu nữa mình hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để hai người có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.

Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?

Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.

 

14.Quyền lực của đồng tiền

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một chú rể trước khi tập sự cho hôn lễ, đã bí mật gặp vị mục sư và đưa ra lời đề nghị.

- Tôi sẽ đổi 100 đô la lấy việc bỏ các từ ‘yêu thương, tôn trọng, vâng lời và chung thủy với cô ấy mãi mãi’ trong lời thề kết hôn.

Vị mục sư đồng ý và nhận lấy 100 đô la với vẻ hài lòng.

Hôm sau, vào buổi lễ chính thức, vị mục sư nhìn thẳng vào mắt chàng trai, mỉm cười nhẹ nhàng và chậm rãi nói:

- Chàng trai, bạn có hứa sẽ luôn sẵn sàng phủ phục mình trước mặt cô gái đứng trước mặt đây, vâng theo mỗi mệnh lệnh của cô ấy, mang đồ ăn sáng đến bên giường cô ấy vào mỗi buổi sáng trong suốt cuộc đời của bạn. Đồng thời thề trước mặt Chúa sẽ không bao giờ thèm nhìn bất kỳ người phụ nữ nào khác cho đến khi cả hai không còn trên cõi đời này nữa không?

Chú rể nuốt nước bọt và nhìn xung quanh, đáp lại bằng một giọng rất nhỏ nhẹ:

- Vâng.

Sau nghi thức, chàng trai ngay lập tức bám chặt lấy vị mục sư và rít lên:

- Tôi nghĩ chúng ta đã có một thỏa thuận?

Lúc này, vị mục sư mới đặt lại vào tay chú rể tờ tiền cũ và thì thầm:

- Cô ấy đã đưa cho tôi 200 USD cơ!

Chưa bao giờ chúng ta thấy quyền lực của đồng tiền lên ngôi như ngày hôm nay. Có tiền thì có chức. Có chức thì có tất cả. Có tiền có thể sai khiến. Sai khiến người khác làm cả những chuyện bất chính hay phi đạo đức. Có tiền có thể bẻ cong công lý. Đồng tiền có thể giúp người có tội trở thành không!

Có lẽ vì đồng tiền có một sức mạnh như thế nên người người đi kiếm tiền. Kiếm tiền bằng mọi cách. Kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn miễn sao có tiền! Thực tế, ai đã vào đời, bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh đua với người đời mà không một lần cảm nghiệm cái mãnh lực của đồng tiền? Đồng tiền nối liền với khúc ruột của con người, nó cũng chính là cái nguyên do đưa đến buồn vui sướng khổ của nhân loại? Cũng chính đồng tiền đã đưa đẩy con người tới thành công hay thất bại, được thiên hạ nể vì, nhân nhượng hay khinh khi coi thường! Vì thế tiền bạc đã biến thành một thứ quyền lực vô song, có ảnh hưởng trong cuộc sống con người. Thế sự thăng trầm, con người thay lòng đổi dạ, xã hội đảo điên, luân thường đạo lý bị xáo trộn, tất cả cũng vì ảnh hưởng của đồng tiền.

Đồng tiền thực sự có một sức mạnh và quyền lực nhất định trong cuộc sống. Nó mang đến hạnh phúc cho con người nếu con người tạo ra nó từ sự chính nghĩa, nhưng nó cũng có thể làm sa ngã hoặc huỷ hoại một nhân cách khi ai đó tôn sùng nó hơn tất cả mọi điều khác trong cuộc đời. Cái giá phải trả cho sự mù quáng trước "Quyền lực của đồng tiền" là đánh mất bản thân, tình thân, tình yêu - những điều mà đồng tiền không bao giờ có thể “mua” lại được.

Hôm nay lễ Chúa Kitô Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta còn có một giá trị quý hơn tiền, hơn danh lợi thú là có được Đức Kitô ngự trị. Đồng tiền sẽ không mua được Nước Trời. Đức Kitô thì hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng tiền không mang lại bình an cho con người, nhưng Đức Kitô là niềm hoan lạc nếu chúng ta để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời. Đồng tiền khiến chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ. Đức Kitô biến chúng ta thành những con người có ích cho tha nhân với thái độ phục vụ quảng đại và vô vị lợi.

Đồng tiền là nguyên nhân gây nên những chia rẽ, tranh chấp, hận thù. Đức Kitô là nguyên lý cho sự hiệp nhất bình an. Chiếm được đồng tiền thì con người bo bo giữ lấy trong ích kỷ, xa lánh mọi người. Chiếm được Đức Kitô thì con người sẽ chia sẻ đến cho muôn người. Thế nê, có Đức Kitô trong cuộc đời là có bình an, có hạnh phúc, có niềm vui. Vắng Đức Kitô sẽ chỉ còn những tranh chấp, xa lánh và đố kỵ lẫn nhau.

Ước gì chúng ta luôn tìm kiếm Đức Kitô và dành cho Ngài vị trí số một trong cuộc đời. Ước gì loài người chúng ta hãy hãnh diện là loài làm chủ đồng tiền chứ không phải là nô lệ của đồng tiền. Có chăng là biết quy phục một mình Đức Kitô mà thôi.

Xin Chúa giúp chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn can đảm chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhoáng của danh lợi thú mau qua. Amen.

 

15.Chúa Kitô Vua – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường nói: Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.

Bên Đông Phương, Khổng Tử đã thấy rõ Vua Nghiêu, Vua Thuấn, Vũ Vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng. Kinh Thư viết: "Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ: Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư" (Thái hệ thượng 7).

Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng, hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết " chỉ vì phục vụ Thượng Đế giúp nhân dân bốn phương: "Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phương" (Thái thượng 7). Người ta đã gọi thời đó là Hoàng kim thời đại: dân được tôn trọng: "Lấy dân làm gốc: Duy dân bang bản". "Gốc kiên cố, nước được an ninh thịnh vượng: Bản cố, bang minh". "Khắp nơi bốn bể thông thương, hòa hợp: Tứ hải hội thông" (Ngũ Tử 4 và Vũ Công 30).

Do đó về sau, các Vua Tầu, Nhật và Việt Nam đều được gọi là con Trời: Thiên Tử, Quân Tử, tuy nhiều kẻ bất xứng. Bên Tây phương, Ba Tư, Ai Cập, Hy Lạp hay La Mã, đều coi vua là con Thần Trời.

Dân Do Thái khi chưa có vua, họ đòi Tiên tri Samuel: "Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi" (1Sm. 8,19). Và ai được chọn làm Vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa: Thiên Chúa nói với Sứ ngôn Nathanael: Hãy đi nói với Đavít: "Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta" (2Sm. 7, 5.14 và Tv. 2,7). Nếu Vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ Vua khỏi tay quân thù (Tv. 20, 21 và 45, 4-8).

Nhưng ngay cả Đavít được gọi là Thánh Vương và Salomon được khôn ngoan không ai bằng, vẫn đầy bất xứng, bất trung. Loài người dù Nghiêu, Thuấn, Đavít hay Tổng thống, Thủ tướng không thể làm vua xứng đáng với ơn Thiên Chúa, và sự mong muốn của nhân dân. Vì thế Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến cứu vãn nhân loại. Chỉ có Người Con duy nhất đó mới chính là vua thật của nhân loại đến muôn đời: Đó là Đức Giêsu Kitô. Vua Giêsu khác với vua thế gian ở hai lĩnh vực trần thế và nước Trời. Ở trần thế, Ngài là Vua như mục tử nhân lành, Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài I - Êz. 34, 11-17).

Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: "Tôi là Mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi" (Ga. 10, 10. 11-14) Tôi đến để cho chiên Tôi được sống và được sống dồi dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.Ngài còn là vua như tôi trung đau khổ: Ngài hạ mình khiêm tốn, nhường nhịn, dịu hiền, khả ái: "Đây là tôi trung Ta đã tuyển chọn, rất yêu dấu, rất đẹp lòng Ta. Thần khí Ta ngự trên Người. Người loan báo công lý trước muôn dân, Người không cãi vã, kêu to, chẳng ai nghe thấy tiếng Người ngoài phố xá. Người không đành bẻ gẫy cây lau đã giập, chẳng nỡ tắt tim đèn leo lét, cho đến khi Người đưa công lý toàn thắng và muôn dân hy vọng danh Người". (Mt. 12, 18-21).

Ngài làm Vua chỉ chuyên chăm lo phục vụ và hy sinh, Ngài nói: "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người", "chứ không như vua thế gian lấy quyền thống trị dân bắt dân phục vụ mình" (Mt. 20, 25. 27-28)

Từ hơn 700 năm trước, tiên tri Isaia đã loan báo về Người Tôi Trung đau khổ đã hy sinh đến cùng cực: "Ngài đã bị khinh bỉ như đồ phế thải, bị trừng phạt đầy đọa, bị đâm, bị tra tấn, bị nghiền nát làm hy lễ tạ tội, Ngài chịu đựng, không mở miệng, ngậm câm như chiên cừu bị dẫn đến lò sát sinh ". Ngài bị liên lụy vì tội vạ hết thảy chúng tôi để giải án tuyên công nhiều người (Is. 53, 1-11) và Thiên Chúa đã đặt Ngài làm "Cố vấn kỳ diệu, Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền binh Ngài bao la vô tận, cho nước được bền vững kiên cố từ nay cho đến muôn đời, nhờ công minh đức nghĩa Ngài" (Is. 9, 5-6)

Ở nước Trời, Đức Giêsu là vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung, làm mục tử, vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về tôn vinh Thiên Chúa Cha trong nước vinh phúc hằng sống, "chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hỏa ngục phải bái quỳ khi nghe danh thánh Giêsu" (Phil. 2,6).

Ở trên trời, "Ngài ngự trên ngai vinh quang, có các Thiên Thần hầu cận, để đón rước chúc phúc cho những ai cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón khách lạ, cho kẻ trần truồng mặc, thăm nom kẻ đau yếu, tù đầy. Ai có lòng trong sạch, hiếu hòa, hy sinh vì nước Trời, Ngài thưởng công cho họ được thừa hưởng vương quốc, được Cha Ngài ban phúc hưởng sự sống muôn đời. Còn kẻ không biết thương người đói khát, rách rưới, đau yếu, đau khổ, không biết hy sinh vì nước Trời bị Ngài loại bỏ, chúng phải vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 31-46)

Lạy Chúa Giêsu là Vua, xin cho các vị lãnh đạo biết sống theo gương Chúa là Mục tử nhân lành và Tôi Trung đau khổ để họ sáng suốt phục vụ và hy sinh cho đồng loại. Xin cho con tận tâm chăm lo cho kẻ đói ăn, khát uống, giúp đỡ những ai rách nát nghèo hèn, an ủi những người đau khổ, bệnh tật để họ được sống lại trong tình thương muôn đời của Chúa. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ