Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1438913

VINH QUANG CỦA ĐỨC GIÊSU

VINH QUANG CỦA ĐỨC GIÊSU

 

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui..." Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Đức Giêsu đã chẳng phải chọn một niềm vui. Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.

Đêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ. Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha. Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình: khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22). Đức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.

Đêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha. Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ. Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường. Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia. Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng. Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác. Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.

Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu, nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó. Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Đức Giêsu, ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.

Đêm đẹp quá, đêm huyền diệu! Đêm bừng sáng như ban ngày! Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ, đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh. Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.

Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:

"Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn",

và đón nhận lời Cha nhắn nhủ: "Hãy vâng nghe lời Người".

Kinh nghiệm thấy Đức Giêsu toả sáng thật cần thiết. Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem. Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy, để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc 9,23-26).

Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người. Vinh quang ấy loé sáng lúc Ngài biến hình trên núi. Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.

Vinh quang tỏ tường chỉ bừng toả khi Ngài trở lại.

Đám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi. Chỉ còn mình Đức Giêsu ở lại, với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.

Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.

Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng. Và chúng ta cũng cần được biến hình.

Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.

Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.

Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.

Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ cho người nghèo: đó là 3 hướng chính của mùa Chay. Bạn thấy 3 hướng đó cần thiết không và bổ sung cho nhau như thế nào?

Nhiều đoàn phẫu thuật giúp trẻ em tìm lại nụ cười trên khuôn mặt tươi tắn. Bạn nghĩ mình có thể đem lại nụ cười cho ai trong mùa Chay này?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

2.Khuôn mặt Ngài biến đổi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.

Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến. Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt, vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.

Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này: "Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi".

Gần đèn thì sáng.

Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người, thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt, và cả những gì con người sử dụng cũng bừng toả: "y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng".

Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.

Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.

Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.

Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.

Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng... Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện. Họ ngủ li bì.

Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ. Thế nên họ chẳng biến đổi gì.

Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa, điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua, nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.

Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này, vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu. Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ, để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.

"Các ngươi hãy nghe Ngài": một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.

Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?

"Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới": Bạn có tin điều đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

 

3.Học hỏi Phúc Âm CN 2 Mùa Chay

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.

1. So sánh Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Có gì khác biệt không? Đâu là nét đặc biệt của Luca?

2. So sánh Lc 3,21-22 với Lc 9,28-35. Có gì giống nhau và khác nhau không?

3. So sánh tiếng nói từ trời ở Lc 3,22 với tiếng từ đám mây ở Lc 9,35, có gì khác nhau không?

4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau những biến cố nào? Đọc Mt 17,1-9; Mc 9,2-10; Lc 9, 28-36 và những đoạn đi trước ba đoạn này.

5. Mục đích chủ yếu của việc Đức Giêsu được Chúa Cha hiển dung là gì?

6. Hai vị Môsê và Êlia nói về cuộc xuất hành của Đức Giêsu mà Người sẽ hoàn tất ở Giêrusalem (câu 31). Cuộc xuất hành (exodos) ở đây nghĩa là gì? Đọc Lc 24,246.

7. Trong bài Tin Mừng này có mấy từ vinh quang, mây. Tại sao ba môn đệ lại hoảng sợ?

8. Tại sao Giáo hội luôn cho đọc bài Tin Mừng về việc Chúa Hiển dung vào tuần 2 Mùa Chay? Chúa Giêsu được hiển dung, có nâng đỡ chúng ta trong Mùa Chay không?

9. Chúa Cha phán: “Các ngươi hãy lắng nghe Người” (Lc 9,35). Câu này có giống chút nào với câu Đức Maria nói với gia nhân ở tiệc cưới Cana không: “Các anh hãy làm tất cả những gì Người bảo.”

CÂU HỎI SUY NIỆM:

Nhiều người đi thẩm mỹ để có được khuôn mặt đẹp. Trong Mùa Chay, chúng ta cần làm gì để có được khuôn mặt bừng sáng như Chúa Giêsu?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Có hai khác biệt giữa Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Theo Mác-cô, biến cố Hiển Dung xảy ra “sáu ngày” sau khi Đức Giêsu tiên báo cái chết và sự phục sinh của Ngài, nghĩa là vào ngày thứ bảy (xem Xh 24,16). Còn theo Luca, biến cố này xảy ra “khoảng tám ngày sau.” Nhìn chung biến cố Hiển Dung xảy ra khoảng một tuần sau khi Đức Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn. Điểm khác biệt quan trọng hơn, đó là chỉ Luca mới nói rõ mục đích của Đức Giêsu khi lên núi là để cầu nguyện. Và Ngài đã được bừng sáng khi đang cầu nguyện.

2. Lc 3,21-22 và Lc 9,28-35 có những điểm giống nhau: đang khi Đức Giêsu cầu nguyện thì xảy ra biến cố, và có tiếng của Chúa Cha. Tuy nhiên cũng có những điểm khác nhau: lúc Đức Giêsu chịu phép rửa thì chưa có mặt các môn đệ; lúc Đức Giêsu hiển dung thì không nói đến sự hiện diện của Thánh Thần, nhưng lại có mặt hai ông Môsê và Êlia; khi chịu phép rửa, tiếng Chúa Cha từ trời nói trực tiếp với Đức Giêsu (Lc 3,22), còn khi hiển dung, tiếng Chúa Cha từ đám mây nói với các môn đệ (Lc 9,35).

3. Trong Mc 3,22, Chúa Cha từ trời long trọng tuyên bố cho Đức Giêsu biết Ngài thật là Con yêu dấu của Cha, được Cha yêu dấu và hài lòng. Còn trong Lc 9,35, Chúa Cha từ dám mây giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ và khuyên họ hãy vâng lời Người.

4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin (Mc 9, 27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21), sau khi Ngài tiên báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (Mc 8,31-33; Mt 16,21-23; Lc 9,22), và dạy về những đòi hỏi của ơn gọi làm môn đệ (Mc 8,34 – 9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).

5. Ba môn đệ thân tín đã có những kinh nghiệm độc nhất vô nhị trên núi. Họ đã được thấy vinh quang của Đức Giêsu, và của hai ông Mô-sê và Êlia (Lc 9, 31-32). Kinh nghiệm được thấy tận mắt khuôn mặt và y phục của Đức Giêsu bừng sáng khi Ngài đang cầu nguyện (câu 29), kinh nghiệm thấy Ngài trò chuyện với hai nhân vật quan trọng là Mô-sê và Êlia (câu 30), cùng với kinh nghiệm được nghe tận tai lời nhắn nhủ của Chúa Cha từ đám mây (câu 35). Tất cả những kinh nghiệm đó chủ yếu nhằm nâng đỡ đức tin của ba môn đệ, trước khi họ chứng kiến cuộc khổ nạn nhục nhã và cái chết kinh hoàng của Đức Giêsu trên thập giá.

6. Trong Lc 9,31, hai ông Mô-sê và Êlia nói đến cuộc xuất hành mà Đức Giêsu sắp hoàn tất tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành ở đây (exodos) để chỉ cái chết, sự phục sinh và lên trời của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ chết ở Giêrusalem, sẽ được phục sinh và hiện ra ở đó, rồi cuối cùng lên trời từ đó (Lc 24,51). Cuộc xuất hành cũng là cuộc Vượt qua của Đức Giêsu, vượt qua đau khổ mà vào vinh quang (Lc 24,26), vượt qua cõi chết để vào cõi sống (Lc 24,46).

7. Trong bài Tin Mừng này có hai từ vinh quang (các câu 31 và 32) và ba từ đám mây (các câu 34 và 35). Ba môn đệ hoảng sợ khi thấy mình ở trong đám mây (Lc 9,34). Đối với người Do-thái, đám mây là dấu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 24,15-18), và Thiên Chúa phán ra từ đám mây (Lc 9,35). Các môn đệ hoảng sợ vì họ tin rằng “không ai thấy Thiên Chúa mà còn sống được” (Xh 33,20).

8. Trong tuần 1 Mùa Chay, Giáo Hội luôn cho chúng ta đọc bài Tin Mừng về Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng. Tuần 2 Mùa Chay luôn là bài về Chúa Hiển dung. Mầu nhiệm Chúa Hiển Dung nâng đỡ đức tin chúng ta, để khi chúng ta nhìn thấy khuôn mặt dị dạng của Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta vẫn tin Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa.

9. Cả hai câu cho thấy Chúa Cha và Mẹ Maria đều mời gọi chúng ta vâng phục Đức Giêsu.

 

4.“Đấng tín trung”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Một trong những phẩm tính của Thiên Chúa được Kinh Thánh nhấn mạnh, đó là sự trung thành của Ngài. Thiên Chúa là Đấng tín trung. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Kinh Thánh chính là cuốn sách về lòng tín trung của Thiên Chúa.

Tín trung, hay trung thành, là luôn giữ những gì mình đã hứa, trước sau như một, dù có phải thiệt thòi hệ luỵ. Trong lịch sử, khi thiết lập mối tương quan với con người, Chúa đã khởi đầu bằng giao ước với ông Abraham. Đây là giao ước đầu tiên Thiên Chúa ký kết với con người. Một vị Thần linh cao cả mà lại đi ký giao ước với con người! Đó là điều không tưởng theo suy luận trần thế, nhưng là một điều kỳ diệu của tình thương. Bởi lẽ ở đời, người ta chỉ ký kết hợp đồng giữa các đối tác tương đương về khả năng tài chính hoặc ảnh hưởng quyền lực. Một người có số vốn một ngàn tỷ đồng chẳng bao giờ ký hợp đồng làm ăn với người chỉ có vốn vài trăm triệu đồng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng ngôn ngữ của giới kinh doanh để nói rằng, Thiên Chúa đầu tư luôn luôn chấp nhận lỗ và thua thiệt. Thiên Chúa là Đấng cao cả. Abraham chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, đến người nối dòng còn chẳng có vào lúc gần đất xa trời. Ấy vậy mà Chúa lại ký kết giao ước với ông, đồng thời hứa hẹn với ông những điều ông không dám mơ ước: đó là một dòng dõi (Dân tộc) và một quê hương (Đất hứa).

Và thế là, từ đời nọ đến đời kia, Chúa luôn trung thành giữ giao ước của Ngài.

Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đến trần gian để thiết lập giao ước mới. Nói cách khác, Người đến trần gian để đưa giao ước này lên một tầm cao mới. Qua Đức Giêsu, mối tương quan Thiên Chúa – Nhân Loại không còn phải qua trung gian như thời xưa nữa, tức là thời của ông Môisen và ông Êlia. Con người có thể được gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa, “ai thấy Thày là thấy Cha” (x. Ga 14,9).  Cuộc biến hình trên núi mà cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại, chính là một bằng chứng về lòng trung thành của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa trong Cựu ước đã ngỏ lời qua truyền thống Lề luật (ông Môisen) và truyền thống Ngôn sứ (ông Êlia) nay đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu nhân độ thế. Đức Kitô vừa là Ngôn sứ vừa là Lề Luật. Kitô giáo tách ra khỏi truyền thống Do Thái, nhưng không đi ngược lại với truyền thống đó. Do Thái giáo, hay truyền thống Ngôn sứ và Lề luật nay đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Hình ảnh ông Môisen và ông Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu, như một gạch nối và chuyển giao giữa Cựu ước và Tân ước.

Nếu như Thiên Chúa là Đấng trung tín, thì con người lại dễ dàng phản bội. Lịch sử Cứu độ ghi lại những bất trung của dân riêng. Đã bao lần Thiên Chúa yêu thương bao bọc và chở che tha thứ, nhưng con người vẫn chống lại Ngài. Không chỉ lịch sử Do Thái, mà là lịch sử nhân loại, là chính chúng ta, những con người sống ở mọi nơi mọi thời cũng đang có khuynh hướng chống lại Thiên Chúa, khi vô tình hay hữu ý phá vỡ chương trình của Ngài. Con người từ khởi đầu luôn có khuynh hướng kiêu ngạo chống lại Thiên Chúa và có ý định phản loạn. Tội lỗi chính là sự phản loạn ấy. Tội lỗi cũng là sự bất trung. Tội lỗi gây hậu quả huỷ diệt chính bản thân mình.

Ba môn đệ gần gũi với Thày Giêsu, là ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, đã trải qua kinh nghiệm biến hình. Các ông được chiêm ngưỡng Chúa như Người là, tức là được chiêm ngưỡng Người trong chính vinh quang do bản tính Thiên Chúa của Người. Những lúc thông thường khác trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã ẩn vinh quang của Người. Trên núi cao, Người đã tỏ bày vinh quang cho các ông thấy, như một lời hứa hẹn và khích lệ để khẳng định với các ông: nếu các ông trung tín với Thày, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang với Thày.  Trên núi cao, một cuộc thần hiện (Epiphany) kỳ diệu đã diễn ra: lời Chúa Cha khẳng định: Đây là Con Ta yêu dấu, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Lời này đã vang lên lúc Đức Giêsu chịu phép Rửa ở sông Giordan, để dân chúng nghe thấy và nhận biết Đấng Messia (x. Mt 3,17). Lời này hôm nay lại vang lên trên đỉnh núi, trong giờ phút Chúa Giêsu biến hình, như một nhắc nhở: hãy trung tín với Người.

Mùa Chay là thời điểm lắng đọng tâm hồn, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng tín trung trong lịch sử nhân loại và lịch sử cá nhân mỗi người. Mùa Chay cũng là thời điểm tự vấn lương tâm, để soi xét về lòng trung thành của người tín hữu đối với Chúa và đối với tha nhân. Thánh Phaolô đau lòng ứa lệ khi thấy có những tín hữu bất trung. Họ không tìm Thiên Chúa, mà chỉ tìm những gì dễ dãi cho đời mình. Vinh quang và lý tưởng của họ là những thứ chóng qua. Người yêu mến Chúa sẽ tìm vinh quang thượng giới, là hạnh phúc vững bền. Chính lòng yêu mến và trung thành sẽ giúp chúng ta biến đổi cuộc đời, trở nên con người mới, mặc lấy Đấng Phục sinh, sáng láng tinh tuyền và vinh quang thánh thiện, như Đấng đã biến hình trên núi năm xưa.

 

5.Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Chúng ta bước vào tuần thứ hai Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng dung mạo Chúa Giêsu khi Ngài cầu nguyện trên đỉnh núi.

Thánh Luca hơn các thánh sử khác, luôn chú tâm đến một đặc điểm của Chúa Giêsu là cầu nguyện. Ngài cầu nguyện khi chịu phép rửa của Gioan tại sông Giođan, trước khi chọn các tông đồ, và hôm nay, chúng ta thấy Ngài cầu nguyện trên núi. Đây là lúc khởi đầu của giai đoạn quan trọng nhất của đời Ngài là cuộc tử nạn sắp tới. Ngài biết những gì Ngài phải làm và những gì đang chờ đợi Ngài, và Ngài sẵn sàng dấn thân vào con đường đau khổ mà Cha trên trời đã định cho Ngài.

Ngài cầu nguyện vì Ngài không làm việc một mình, Ngài luôn kết hiệp với Cha Ngài. Đây chính là một bài học quí báu đối với chúng ta. Chúng ta thường làm việc một mình, không cần đến Chúa. Khi gặp gian nan thử thách, lúc ấy chúng ta mới nhìn về Chúa, mới cảm thấy cần Chúa.

Ngài đang cầu nguyện, “dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa”. Không phải vô tình mà thánh Luca chú ý đến chi tiết này. Vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện khi Ngài hoàn toàn chìm sâu trong Chúa Cha, lúc ấy Ngài thực sự là Con của Chúa Cha, là “Người Con Một đầy ân sủng và chân lý”, và chính lúc ấy Ngài được Chúa Cha công nhận là “người Ta tuyển chọn”.

“Y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa” Không những dung mạo Ngài biến đổi mà cả y phục của Ngài cũng chói ngời rực rỡ.

Điều này chứng tỏ Ngài không thuộc về thế gian nữa. Ngài mang lấy xác phàm, nhưng Ngài là Thiên Chúa. Vì thế, dù Ngài có bước vào cuộc Xuất Hành của Ngài, nghĩa là bước vào đau khổ và tử nạn, Ngài vẫn là Thiên Chúa.

Vinh quang phục sinh đã tỏ hiện nơi thân xác của Ngài.

Hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước xuất hiện, “rạng ngời vinh hiển”, và đàm đạo với Ngài về cuộc Xuất Hành Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Chỉ có Luca mới nói đến nội dung của cuộc đàm đạo này. Môsê, đại diện cho Lề Luật, Êlia đại diện cho các tiên tri. Sự xuất hiện của hai vị này minh chứng rằng sứ mệnh của Ngài là kiện toàn Giao Ước và những lời tiên tri. Chúa Giêsu sẽ thiết lập Giao Ước mới và vĩnh cửu mà Giao Ước thời Môsê chỉ là hình bóng. Ngài đến “không phải để hủy bỏ mà kiện toàn”. Ngài kiện toàn Luật cũ nơi thân xác của Ngài bằng sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha. Ngài thay thế những cách thờ phượng của Giao Ước cũ bằng cách hiến dâng chính bản thân Ngài. Ngài là của lễ thay thế cho của lễ chiên bò. Ngài dạy chúng ta phải thờ phượng Chúa Cha thế nào, là thờ phượng “trong tinh thần và sự thật”: “Hãy hiến dâng thân mình anh em làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài lập Giáo Ước mới trong máu Ngài. Dòng máu thần linh này sẽ tẩy xóa tội lỗi nhân loại và biến chúng ta thành con cái của Chúa Cha. Ngài trở thành vị tư tế duy nhất và hiến lễ của Ngài cũng là hiến lễ duy nhất. Hãy biến đổi mọi lao nhọc cực khổ của chúng ta thành của lễ, cùng với Ngài.

Vì thế, chúng ta hãy làm như thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ là con người hư nát… Anh em hãy để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa…”

Nhờ đó, thân xác hay chết của chúng ta sẽ mặc lấy vinh quang của Người Con Một…

Phêrô và các bạn ngủ mê mệt. Tại sao lại ngủ đang lúc ở với Thầy? Rồi đây các ông sẽ ngủ nữa trong vườn cây dầu khi Thầy của các ông “buồn có thể chết được” và mướt mồ hôi máu.

Chúng ta cũng như các ông, cứ ngủ vùi trong sự hờ hững của chúng ta. Chúng ta không cảm thấy cần phải cố gắng. Chúng ta ngại khó, ngại những gì đòi hỏi chúng ta cố gắng. Chúng ta chọn sự dễ dàng, nhàn hạ, mặc cho ai chết sống…

Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Phêrô xin dựng ba lều. Để làm gì? Để sống với Thầy trên đỉnh núi, vì “chúng con ở đây thật là hay!” Chúng ta cũng thế thôi. Khi gặp gian khó, chúng ta chạy trốn hay ngủ vùi; khi gặp điều vừa ý, chúng ta hăng hái ủng hộ.

Chúa Giêsu không như thế. Cuộc sống trần gian của Ngài mãi mãi là một hiến dâng. Ngài chấp nhận một cách bình thản những gì là lao khổ, cực nhọc và cả cái chết thê thảm trên thập giá, miễn là đẹp lòng Chúa Cha.

Mặc dù chúng ta ham vui… nhưng không phải lúc nào cũng chỉ tìm thỏa mãn những đòi hỏi của bản thân mà quên đi những gì cao đẹp. Nhiều người đã sống như thế và cuộc đời của họ trở thành một cực hình cho những người chung quanh. Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Đừng theo thói thế gian… Đừng sống đối nghịch với thập giá Chúa Kitô… Đừng thờ cái bụng… Quê hương chúng ta ở trên trời… Bộ mặt thế gian này qua đi…” “Chúng ta đang chờ đợi trời mới đất mới” (Thánh Phêrô).

Nơi Chúa Giêsu hiển dung, chúng ta nhìn thấy vinh quang của chính chúng ta. Chúng ta sẽ được vinh quang như Ngài vì chúng ta đã được dìm mình với Ngài trong phép rửa tội để được sống lại vinh quang với Ngài. Vì “Ngài có quyền năng biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”.

Trên đỉnh núi, chính Chúa Cha, một lần nữa đã xác nhận: “Này là người Ta tuyển chọn, Hãy nghe lời Người”.

Chính Chúa Cha đã cho chúng ta biết, Người đã sai Con Một của Người đến cứu chúng ta, đưa chúng ta vào sự sống thần linh của Người. Chúng ta không thể nào trở lại với cuộc sống tội lỗi, với ách nô lệ gian ác. Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn vì tình thương của Người đã thể hiện qua Chúa Giêsu. Bình minh của sự sống lại đã rạng ngời, chúng ta không thể nghi ngờ về hạnh phúc tương lai của chúng ta, khi “thân xác hư hèn của chúng ta mặc lấy sự bất tử”.

Vì thế, chúng ta hãy vui mừng luôn mãi… và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.

Sống hôm nay của chúng ta là nghe lời Đấng mà Chúa Cha đã sai đến cho chúng ta. Ngài là Lời ban sự sống, là Đấng dẫn đưa chúng ta đến sự sống…

Chúa Giêsu hiển dung hôm qua cũng là Chúa Giêsu hôm nay. Ngài hiện diện với chúng ta và cho chúng ta nơi bàn tiệc yêu thương này. Hãy ăn lấy Ngài hôm nay để được hiển dung với Ngài trong Nước Tình Yêu của Ngài, dù phải Xuất hành qua nhiều gian khổ.

 

6.Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 2 Mùa Chay

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.

St 15: 5-12, 17-18

Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.

Pl 3: 17-4: 1

Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.

Lc 9: 28-36

Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.

BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)

Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.

Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.

1. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin

Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.

Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.

2. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:

Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).

3. Hy tế Giao Ước:

Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).

4. Giấc ngủ mê:

“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngũ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.

Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.

BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)

Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.

Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.

1. Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:

Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).

2. Hai con đường:

Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.

Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).

3. Trời và Đất:

Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.

Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.

TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)

Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.

Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.

Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.

Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.

Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.

Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.

1. Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su:

A- Chúa Giê-su cầu nguyện:

“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.

B- Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:

“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.

“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.

Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.

2. Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:

A- Họ sẽ là những nhân chứng:

Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.

B- Giấc ngủ của ba môn đệ:

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.

“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.

C- Cuộc Thần Hiển:

Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.

“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…

“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.

Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.

“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).

3. Bài học của biến cố Biến Hình:

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.

 

home Mục lục Lưu trữ