Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 63
Tổng truy cập: 1434500
TUYỂN CHỌN YÊU THƯƠNG
TUYỂN CHỌN YÊU THƯƠNG
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ - Suy Niệm và Giảng Lễ Chúa Nhật Năm A của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu, Radio Veritas Asia)
Những tin tức về cuộc chiến tại Yugoslavia cho biết, Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương đã ngưng ném bom xuống Yugoslavia, quân đội cảnh sát và các lực lượng bán quân sự của Secbia đã bắt đầu rút lui ra khỏi Kosovo, chấm dứt cuộc thanh lọc chủng tộc đánh vào những người thuộc địa sắc tộc Albani. Các lực lượng dàn giải hòa bình có mặt tại Kosovo để bảo đảm cho người tỵ nạn Albani được trở về quê hương bình an. Cuộc chiến tại Yugoslavia xem như đã kết thúc.
Mỗi một cuộc chiến tranh đều là một bài học cho nhân loại. Đây có lẽ là lúc thế giới nên nhìn lại những gì đã diễn ra trong những năm qua. Khi Đệ Nhị Thế Chiến vừa kết thúc, thủ tướng Anh Quốc, ông Winton Churchill đã thốt lên như sau: "Chiến thắng nào cũng buồn thảm cả, không ai thắng mà cũng chẳng có ai bại, chỉ có chết chóc, đổ vỡ hoang tàn mà thôi".
Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương đã tỏ rõ được sức mạnh của khí giới, của quân sự, liên minh này đã đạt được mục tiêu mong muốn, và dường như muốn đưa ra một tiên liệu rằng, bạo động là phương thế hữu hiệu nhất để giải quyết những cuộc tranh chấp của con người. Thế nhưng, phải chăng sử dụng bạo động để giải quyết các cuộc tranh chấp giữa con người không là một thất bại của nhân loại? Những gì đã diễn ra tại Yugoslavia, rồi ra có lẽ sẽ được lặp lại một nơi nào đó trên trái đất của chúng ta.
Vào giữa lúc tiến bộ khoa học ngày càng là những bước tiến khiến cho chúng ta phải choáng váng, thì tại nhiều nơi trên thế giới, chiến tranh, chết chóc vẫn cứ tiếp diễn, đói khổ vẫn còn đó, và nhất là những quyền tự do cơ bản nhất của con người vẫn còn bị chối bỏ và chà đạp. Chúa Giêsu mời gọi Giáo Hội và các tín hữu Kitô chúng ta nhìn vào thế giới ấy bằng chính ánh mắt của Ngài. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng, cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu đã nhìn vào thế giới mà đám đông đi theo Ngài là đại biểu, Ngài đã nhìn vào thế giới ấy và chạnh lòng thương vì họ vất vưởng bơ vơ như chiên không có người chăn dắt. Đám đông ấy, Chúa Giêsu đã hai lần thực hiện phép lạ làm cho bánh và cá biến ra nhiều để cho hằng ngàn người được ăn uống no nê. Ngài cũng đã chữa lành bệnh tật cho nhiều người, Ngài cho người què được đi, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, Ngài còn làm cho kẻ chết sống lại nữa.
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu và có lẽ nhiều người ngày nay nghĩ rằng, thế giới của chúng ta sẽ là thiên đàng nếu Chúa Giêsu chỉ cần vung cây đũa thần của Ngài ra làm đủ các phép lạ để cho loài người không phải đổ mồ hôi sôi con mắt mới có của mà ăn, mà nhất là không còn bệnh tật ốm đau và chết chóc nữa. Họ mong đợi một thứ thiên đàng ấy, cho nên không những khước từ Chúa Giêsu mà còn treo Ngài trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không đến như một kinh tế gia hay một vị lương y, một vị thủ lãnh thế gian, Ngài đến làm cho con người được sống một cuộc sống dồi dào, Ngài đã loan báo sự sống sung mãn ấy và đã thể hiện sự sống sung mãn ấy bằng cả một cuộc đời hiến thân hy sinh mà cái chết trên thập giá là biểu hiện tột đỉnh.
Quả thật, con người chỉ thực sự sống sung mãn nếu cùng đi theo con đường của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng tiếc thay từ hơn 2,000 năm qua nhân loại vẫn như một đám đông thời Chúa Giêsu, họ vất vưởng bơ vơ như chiên không có người chăn, họ đi tìm kiếm những của cải khác với những giá trị mà Chúa Giêsu đã mang đến. Chiến tranh, đói khổ, chết chóc vẫn còn đó. Kỳ thực, trái đất của chúng ta không bao giờ thiếu lương thực cho cả nhân loại, thế giới cũng không bao giờ thiếu tiền, thiếu của, người ta đã chẳng thừa tiền, thừa bạc để sản xuất những loại khí giới đó sao? Thế giới của chúng ta rất túng đói là túng đói sự công bình, túng đói tình người, túng đói tình liên đới.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự khác sẽ được ban dư đầy cho các con". Chúa Giêsu đã sai các môn đệ ra đi để loan báo về Nước ấy. Ngày nay Ngài cũng uỷ thác sứ mệnh ấy cho mỗi một người tín hữu Kitô chúng ta. Truyền giáo nghĩa là được sai đi để loan báo Nước Trời, không phải chỉ một số người nào đó, hay chỉ là thành phần ưu tuyển nào đó trong Giáo Hội, mà là nghĩa vụ của tất cả những ai đã lãnh nhận một cách nhưng không ơn Đức Tin. Thực thế, sứ mệnh truyền giáo ấy trong môi trường của chúng ta đang sống hiện nay, cụ thể là tại Việt Nam của chúng ta, không gì khác hơn là sống cho đến cùng và triệt để những giá trị của Tin Mừng.
Chúng ta phải làm chứng cho niềm tin nào? Chúng ta sẽ loan báo nước nào nếu chúng ta cũng sống như mọi người nghĩ là chúng ta cũng gian lận trong mánh mung, cũng đút lót, cũng tham lam và ích kỷ, cũng như thỏa hiệp với các sinh mệnh của sự dữ, để mặc ai nấy sống và tìm lợi lộc cho cá nhân. Giáo Hội của chúng ta không có lấy một sư đoàn nào trong tay, Giáo Hội của chúng ta cũng chẳng có khả năng chuyên môn, phương tiện để làm kinh tế, nhưng nếu tất cả mọi người tín hữu Kitô chúng ta triệt để tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời, thì chắc chắn chúng ta sẽ góp phần rất lớn vào việc thay đổi bộ mặt của xã hội.
43.Cuộc sai đi hoàn vũ
“Chúng con hãy đi khắp thế gian”
Bài Phúc Âm hôm nay mô tả sứ mạng Chúa trao cho các Tông đồ, sứ mạng sai đi rao giảng Tin Mừng.
Sứ điệp sai đi trước tiên phát xuất từ tâm hồn của Chúa, từ cái nhìn bao la của Ngài trước cảnh “đàn chiên không có kẻ chăn”, cảnh “đuầng lúa chín vàng” mà thiếu thợ gặt. Sứ điệp ấy cũng là sứ điệp của Đức Chúa Cha, là chủ cả đoàn chiên, chủ cả mùa gặt. Vì thế cần phải cầu xin Ngài gửi thợ gặt đến.
Sứ điệp sai đi cũng phát xuất từ con tim của Chúa Giêsu, “cảm xúc vì từng đoàn người yếu sức và mệt nhọc”. Đây là điểm khác biệt với các thầy thông thái trong dân Israel. Họ chỉ đến với hạng người học thức quyền thế. Chúa Giêsu, Ngài đến với đoàn chiên thất lạc và bị bỏ quên. Ngài tuển chọn các Tông đồ, không phải để học đối thoại trong các cuộc tranh luận vòng vo, mà để cho các ông đồng lao cộng tác, chia sẻ công việc Tông đồ của Ngài.
Vì thế, Chúa chọn 12 Tông đồ. Trong khi hai vị Thánh sử khác lập danh sách các Tông đồ khi Chúa kêu gọi họ (x Marcô 3,16-19; Lc 6,14-16), thì Matthêô đặt vào lúc Chúa sai họ đi truyền giáo, chú trọng cách riêng đến công vụ được trao phó.
Họ là ai? Họ là những người bình dân, được chọn không phải vì có chút học thức, có ít địa vị, mà do một ơn đặc biệt của Chúa. Matthêô nêu danh từng hai người một, gọi Phêrô là “người đầu tiên”, Giuđa Iscariô là người cuối cùng, “kẻ sẽ nộop Chúa”, và không dự vào cuộc sai đi hoàn vũ (Cv 28,16). Đây là một cộng đoàn bé nhỏ đầy khuyết điểm của con người, nhưng được trao cho quyền năng của Con Thiên Chúa và là hình ảnh Nước Trời mà Chúa Giêsu sẽ kiện toàn, trong cảnh thăng trầm của lịch sử.
Sau khi đã tuyển chọn, Chúa sai họ đi truyền giáo. Họ đi từng nhóm, hỗ trợ nhau, dùng lời nói, dùng phép lạ để thuyết phục. Ở đây, Chúa dạy các ông đi với dân Israel trước đã, đợi một ngày kia sẽ tung cánh bay đến tận cùng thế giới: “Chúng con hãy đi giảng dạy muôn dân”. Theo vết chân các Tông đồ, các vị thừa sai của Chúa sẽ đi tới chân trời góc bể.
Thánh Phanxicô Xaviê đến Ấn Độ. Miệng giảng Lời Chúa, nhưng tay cầm hai ảnh tượng, một tay cầm cây Thánh giá Chúa cứu chuộc, một tay kia cầm mẫu ảnh Đức Mẹ nhân lành, để nhờ Mẹ xoa dịu hình ảnh người con đau khổ mà người dân chưa hiểu. Ngày Rửa tội hơn một triệu người. Và sau khi đã lập nên Giáo Hội Nhật Bản, Ngài muốn đem Tin Mừng cho nước Tàu vĩ đại. Nhưng vừa đến hòn đảo Thánh Gioan, ngoài khơi Hồng Kông, thì lâm bệnh và qua đời, mình dựa vào một gốc cây và mắt nhìn vào nước Tàu vĩ đại. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”; “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân… Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 16,19-20).
Lạy Chúa, này con đây, hãy sai con đi vào cánh đồng lúa của Chúa.
44.Tình yêu
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn, nhưng lại có tính nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia, chàng nảy ra một ý kiến.
Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin Công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành ra một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddell để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta có thể cầm lên đọc để giết thời giờ. Chẳng hạn như ở những phòng đợi khám bệnh và phòng tiếp khách.
Ngày kia, có một phụ nữ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết vợ chồng cô ấy đã theo đạo Công giáo như thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một cuốn sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng đợi ở bệnh viện”.
Có nhiều linh mục, tu sĩ và ngay cả giáo dân, thay vì tặng quà hay phát thưởng bằng những món quà vật chất, họ lại trao gởi những cuốn sách thiêng liêng, sách đạo đức, sách giáo dục như những món quà đầy ý nghĩa và hữu ích cho đời sống tâm linh của con người. Đó là một trong những cách hữu hiệu để thi hành sứ mệnh truyền giáo mà hôm nay Đức Giêsu kêu gọi: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Qua lời Đức Giêsu dạy, thì cầu nguyện chính là nguồn mạch, là nền tảng, và là công việc truyền giáo đầu tiên. Nếu chúng ta cầu nguyện cho việc truyền giáo, thì những thợ gặt đầu tiên mà Thiên Chúa có trong tay, chính là chúng ta. Như ngôn sứ Isaia, chúng ta cũng thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa hãy sai con”.
Không chỉ xin Chúa sai chúng ta đi truyền giáo mà thường xuyên chúng ta phải cầu xin Chúa thôi thúc các bạn trẻ quảng đại dấn thân trong ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Không chỉ xin Chúa ban thêm nhiều người tận hiến mà thường xuyên chúng ta cầu xin Chúa thôi thúc các gia đình rộng tay giúp đỡ tài chánh cho các công cuộc truyền giáo.
Không chỉ xin Chúa mở rộng đôi tay mà còn tha thiết xin Người mở rộng trái tim mọi thành phần dân Chúa, để có nhiều nhà truyền giáo tình nguyện dấn thân mở mang nước Chúa.
Nếu cầu nguyện là nguồn mạch của công việc truyền giáo, có nghĩa là nó phải được ưu tiên trên bất cứ chương trình, kế hoạch hay phương pháp truyền giáo nào.
Nếu cầu nguyện là nền tảng của hoạt động truyền giáo, thì chúng ta phải xem sự khủng hoảng ơn gọi chính là vì thiếu sự chuyên tâm cầu nguyện.
Nếu cầu nguyện là việc đầu tiên của công cuộc truyền giáo, thì chúng ta phải hiểu là sứ vụ tông đồ chỉ có hiệu quả khi chúng ta biết không ngừng cầu nguyện cho những người mà chúng ta muốn lôi cuốn. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” Sứ mạng truyền giáo ấy, hôm nay đã được Đức Giêsu trao cho 12 tông đồ, cột trụ của Giáo Hội, để tiếp tục sứ mạng cứu rỗi của Người. Chính vì thế mà thánh Phaolô Tông đồ luôn tự nhắc nhở mình rằng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Nhưng phải rao giảng những gì? Cho ai? Và bằng cách nào? Đức Giêsu dạy: “Hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh và khử trừ ma quỉ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Như thế, nội dung của sứ điệp là Nước trời, hành trang là Lời Chúa, đối tượng là người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội, phương pháp là yêu thương và cho đi. Thật vậy, chính sự cho đi vô vụ lợi, yêu thương mà không mong đền đáp là bí quyết thành công trong việc truyền giáo. P. Babin đã nói: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Giêsu Kitô khi người ta tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Ý thức được sứ mạng truyền giáo ấy, trong sứ điệp kết thúc hội nghị Hồng Y đoàn lần thứ sáu, ngày 24 tháng 05 năm 2001, đã nhấn mạnh: “Cần xây dựng một Giáo Hội cầu nguyện nhiều hơn, truyền giáo nhiều hơn, nghèo khó hơn, liên đới với nhân loại hơn, cách riêng với những người đau khổ, túng cực, bị loại ra ngoài lề xã hội”.
45.Bình an
Chỉ cần một buổi tối theo dõi chương trình thời sự quốc tế, thời sự trong nước và thời sự các địa phương trên đài truyền hình, chúng ta sẽ thấy được rất nhiều vấn đề lớn nhỏ đang xảy ra trên toàn thế giới. Nào là chiến tranh, nào là kỳ thị chủng tộc, kỳ thị màu da, ngôn ngữ, kỳ thị tôn giáo. Nào là các thứ tệ đoan và tội ác. Nào là đói nghèo, bệnh tật và chết chóc... Tất cả những điều đó như là những bóng tối che phủ cuộc sống của con người. Tất cả những thảm họa đó là những chứng từ cho thấy sự hiện diện và hoạt động tích cực của ma quỉ. Không phải chỉ hôm nay, nhưng ngay từ thời Chúa Giêsu, thậm chí ngay từ thuở ban đầu của cuộc tạo dựng, ma quỉ đã có mặt và không ngừng hoạt động để phá hủy công trình tạo dựng của Thiên Chúa và lôi kéo con người chống lại Người. Con người đang trở thành những kẻ nô lệ khốn khổ cho quỉ dữ mà vẫn tưởng mình đang tự do. Con người đang là những công cụ đắc lực trong bàn tay ma quỉ mà vẫn tưởng mình là chủ nhân của thế giới này. Con người đang sống trong lầm than mà vẫn không hay biết gì.
Nhưng Chúa Giêsu thấy và biết tất cả. Người xúc động và xót xa cho số kiếp lầm than, khốn khổ của con người. Thánh Matthêu đã viết: “Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng như chiên không người chăn dắt”. Chính vì thế, dù ở đâu hay đi đến đâu, Người cũng vẫn luôn ra tay cứu gỡ con người khỏi ách thống trị của ma quỉ và của quyền năng sự dữ. Người đã chữa lành các bệnh tật đang hủy hoại con người và xoa dịu những khổ ải đang đè bẹp con người.
Tất nhiên chỉ một mình Chúa Giêsu cũng có thể làm tất cả những gì Người muốn để giải thoát con người. Nhưng Người đã không làm một mình. Người muốn con người cộng tác vào sứ mệnh giải thoát ấy. Người muốn con người bày tỏ sự tự do trong việc đón nhận ơn giải thoát cho chính mình, đồng thời ý thức trách nhiệm liên đới trong việc giải thoát anh chị em mình. Để thực hiện ý muốn này, Người đã chọn 12 tông đồ và sai các ông ra đi. Người ban cho các ông quyền năng trên ma quỉ và chữa lành các bệnh tật. Điều đó cũng có nghĩa là Người trao ban cho các ông sứ mạng đẩy lùi sự xấu và sự ác, cũng như đẩy lùi khổ đau đang hoành hành trên mặt đất này. Sứ mạng ấy, ơn gọi ấy không chỉ được trao ban cho 12 tông đồ mà còn cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về”.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã gọi đích danh chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng ban phát ơn cứu độ mà Người đã thiết lập. Ban phát ơn cứu độ cũng có nghĩa là mỗi người cần nỗ lực đẩy lùi sự dữ, sự ác trong môi trường sống của mình và ra tay giúp đỡ để anh chị em mình bớt khổ đau. Là một nông dân trên ruộng đồng hay là một công nhân bốc vác trong nhà máy, là một tài xế hay là một giáo viên trong nhà trường, là một học sinh trong lớp hay là một y tá, một bác sĩ trong bệnh viện, là một người gác cổng cơ quan hay là một thư ký trong văn phòng... tất cả đều nhận được một sứ mệnh như nhau. Sứ mệnh ấy là làm cho Tin Mừng của Chúa Kitô thấm nhập vào từng con người, vào mỗi công việc, và vào mọi nơi mọi chốn. Tin Mừng càng lan rộng bao nhiêu thì sự dữ càng bị thu hẹp lại bấy nhiêu.
Đừng ai nói mình không có trách nhiệm làm tông đồ. Đừng ai nói mình không có khả năng. Đừng ai nghĩ mình không có kiến thức. Đừng ai nói mình nghèo khổ. Đừng ai nói mình không phải là thánh nên không thể rao giảng Tin Mừng. Nói như thế, nghĩ như thế là thoái thác trách nhiệm. Các tông đồ ngày xưa cũng chỉ là những con người đơn sơ bé mọn, nghèo khó, có khi là những con người tội lỗi nữa. Nhưng trừ một mình ông Giuđa, tất cả những người còn lại đã không phụ tình Chúa yêu thương và sự tín nhiệm của Người.
Lời kết thúc thánh lễ: “Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an” không chỉ là một lời chúc nhưng còn là một lệnh truyền, một bài sai ra đi gieo rắc Tin Mừng bình an.
46.Rao giảng
Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới, có thể là đất nước Việt Nam, có thể là giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, nơi chúng ta sinh sống, làm việc... và ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy? Phải chăng đó chỉ là trách nhiệm của giám mục, linh mục, tu sĩ, các nhà truyền giáo, còn người giáo dân chỉ cần đi lễ, đọc kinh, tu thân, lo cho mình được ơn cứu rỗi? Sau đây tôi xin gợi ý chia sẻ một ít điều để chúng ta cùng suy nghĩ. Thực vậy, ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, được làm con Chúa, được gia nhập dân riêng của Chúa, người Kitô hữu được trao cho chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao một cây nến sáng được đốt từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô là ánh sáng. Ánh sáng ấy đến thế gian để chiếu soi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng. Như vậy, ngay từ lúc được Rửa tội, ngay từ lúc tiếp nhận ánh sáng, người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là đèn sáng, là người được sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt mầu da, tín ngưỡng, địa vị xã hội. Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn, nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng được sai đi, ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng khẩn thiết, bởi vì những người mạnh khỏe không cần thày thuốc, chỉ những người bệnh tật mới cần. Ta không đến gọi các người công chính, nhưng kêu mời những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại.
Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta phải từ bỏ tất cả và ra đi đây đó như những tông đồ chuyên nghiệp, nhưng chúng ta có nhiều cách và nhiều hình thức để làm tông đồ trong xã hội hôm nay: tông đồ bằng đau khổ, tông đồ bằng chứng tích, tông đồ bằng tiếp xúc, tông đồ bằng cầu nguyện, tông đồ bằng chia sẻ... Nói tóm lại, hình thức tông đồ tốt nhất, có sức thuyết phục nhất, được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành, tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta đừng nghĩ làm tông đồ bằng những việc to lớn rầm rộ mà chỉ chú ý đến những việc đơn giản: thắp một ngọn nến, thắp một tia hi vọng cho người tuyệt vọng, mang bình an cho người đang chơi vơi lo lắng, mang tình yêu thương đến cho người đang đau khổ tinh thần hay thể xác...
Trong thánh lễ hôm nay, sau khi nghe lời Chúa và rước Mình Thánh Chúa, chúng ta nhận được bình an của Chúa. Ước mong khi ra về chúng ta trở nên những người gieo rắc bình an cho những người khác.
47.Đức Kitô
Trong cuốn sách nổi tiếng, Anh em nhà Karamazov nhà văn Nga Dostoevsky cho chúng ta một bức chân dung của Đức Kitô. Bối cảnh xảy ra ở Seville thời kỳ Pháp đình tôn giáo. Đức Kitô đã đến thăm dân Người trong cảnh khổ đau. Mới ngày hôm trước, một trăm người dị giáo đã bị thiêu sống theo lệnh của Hồng Y, Đại Pháp quan.
Mặc dù Đức Giêsu đã đến không kèn không trống nhưng dân chúng lập tức nhận ra Người. Họ xúm lại xung quanh Người. Người bước đi ở giữa họ với một sự biểu lộ cao thượng trên khuôn mặt Người. Người đưa tay ra và chúc phúc cho họ. Nhiều người được lành bệnh khi sờ vào áo Người.
Người dừng lại ở tam cấp của nhà thờ lớn khi một cỗ quan tài còn mở nắp với thi thể của một cô gái nhỏ được đưa ra khỏi nhà thờ. Một sự im lặng bao trùm lên đám đông. Rồi một tiếng thì thầm nổi lên: “Người sẽ làm cô bé sống lại”. Và Người đã làm. Tuy nhiên ngay sau đó, vị Đại Pháp quan đã đến quảng trường. Khi ông thấy sự việc xảy ra như thế, ông ra lệnh bắt giữ người lạ mặt và nhốt vào nhà tù.Đêm hôm ấy, Đại Pháp quan vào xà lim thăm tù nhân của mình “Có phải ông là Chúa thật không?” ông ta hỏi Người. Người không đáp, ông ta liền nói: “Ông không cần phải nói thêm điều gì cả. Trước đây ông đã nói tất cả rồi. Tôi không biết ông có phải là Chúa thật không. Mọi điều tôi biết là ngày mai ông sẽ bị thiêu sống như một tên dị giáo tệ hại nhất, và người nào hôm nay đã hôn chân ông, ngày mai sẽ bị ném sống vào lửa. Ông có biết điều đó không?”Ông ta chờ đợi một câu trả lời nào đó, nhưng không có. Bấy giờ người lạ mặt đến gần ông và với một sự cao thượng tuyệt vời, ôm chầm lấy ông. Đó là câu trả lời của Người. Vị Đại Pháp quan già nua bối rối trong một lúc. Nhưng ông ta liền lấy lại sự bình tĩnh ông bước đến cửa xà lim, mở ra và nói cùng Người. “Ông hãy đi đi, và đừng bao giờ quay trở lại, đừng bao giờ!”. Rồi ông để cho Người đi ra và Người biến mất trong những đường phố tối tăm của thành phố ngủ yên.
Chúng ta có thể quên Đức Kitô giống gì. Giáo Hội có thể quên. Giáo Hội Có thể đặt học thuyết và tín lý luật lệ cùng qui định của Giáo Hội trước dân chúng. Cá nhân có thể đặt lòng sùng tín riêng tư của mình theo cách sống của Đức kitô. Ngày nay, có một mối quan tâm ngày càng tăng đối với những mạc khải và sự hiện ra. Dù thế nào, ngày nay cũng có một khát vọng về Đức Kitô của Tin Mừng.
Chúng ta cần nhớ lại Đức kitô như thế nào lúc chúng ta trở lại với Tin Mừng. Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta một hình ảnh đẹp về hành động thương xót của Đức Kitô.Các nhà lãnh đạo tôn giáo đã không đem lại điều gì cho dân thường trong cảnh khổ của họ – không có sự hướng dẫn, cả an ủi lẫn sức mạnh. Thật vậy, họ không quan tâm đến dân chúng. Nhưng Đức Giêsu hoàn toàn khác. Khi Người nhìn đến dân thường, Người không nhìn thấy một đám đông nhưng là một tập thể những cá nhân, mỗi người có những vấn đề và lo lắng vui mừng và sầu khổ. Và không hề khinh miệt họ. Người tỏ lòng thương xót họ, một cách chính xác hơn bởi vì họ bị tổn thương và cần được giúp đỡ.
Trước hết, Người ban chính Người cho họ. Nhưng biết rằng mùa gặt rất lớn nên Người quyết định kêu gọi các người phụ giúp. Từ những môn đệ của Người, Người chọn ra mười hai người để họ trở thành những bạn đồng hành theo những phương thế đặc biệt. Người gọi họ là những tông đồ – những người được sai đi. Họ thuộc về những tầng lớp khác nhau và không một ai đã qua đào tạo. Mỗi người có cá tính riêng, có những điểm yếu, điểm mạnh, những sự yếu đuối. Ở giữa họ, đã có những ganh tị, căng thẳng.
Đức Giêsu yêu thương họ và ngược lại họ yêu mến Người, Người huấn luyện họ tuy nhiên không phải theo hình thức mà bằng cuộc sống của Người với họ, Người đồng hành với họ và trở thành một gương mẫu cho họ. Họ học làm những việc Người làm. Rồi Người sai họ đến với những người khác. Họ biết sứ vụ của họ là gì: họ là nhân tố của lòng thương xót của Người cho những người khác, đặc biệt cho những người nghèo và những người đau khổ.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu trông mong ở chúng ta. Để trở thành một tông đồ của Chúa, chúng ta không cần phải trở thành một người đặc biệt, tức là còn thua xa một vị thánh (ít ra lúc mới đầu là thế). Tất cả điều mà con người cần có là sự tự nguyện và một tấm lòng rộng mở.
48.Được yêu
Philip là một con người rất đáng mến. Giờ đây ở tuổi sáu mươi ông tốt bụng khôi hài, nhân từ và quảng đại. Nếu bạn quan sát ông trong ngày họp mặt hàng năm của gia đình mở rộng, bạn có thể nhìn thấy điều này. Ông không kéo sự chú ý về mình. Ông chỉ có mặt một cách tuyệt diệu. Cười nói và hòa đồng, ông làm cho mọi người cảm thấy thoải mái. Ông lôi cuốn mọi người đến với ông. Mục đích duy nhất của ông dường như là giúp đỡ những người khác. Ông không có một suy nghĩ nào về mình.
Nhưng ông không như thế trước đây. Ít năm trước, ông hầu như ngược lại. Sự hiện diện của ông trong ngày họp mặt gia đình hàng năm là một điều bối rối đặc biệt cho vợ và các con ông. Tại sao? Bởi vì lúc đó ông là người nghiện rượu. Từ sáng sớm ông đã uống rượu. Dường như ông chỉ quan tâm đến một mình ông thôi. Ông không thể giúp đỡ một ai. Người ta tránh xa ông và nói chuyện với ông càng ít càng tốt. Điều làm cho vấn đề tệ hơn là, khi ông say, ông trở nên thô tục.
Bây giờ, ông dễ mến vì ông đã bỏ rượu và thay đổi cuộc đời. Thật vậy, bạn không thể không yêu mến ông, khi ông còn uống rượu. Quả thật, hầu như không thể mến yêu ông lúc đó. Dù sao qua những năm tháng tối tăm ấy khi ông còn uống rượu, vợ con ông tiếp tục yêu thương ông. Tình yêu thương và sự quan tâm của họ, làm ông có khả năng đối diện những vấn đề của ông, và đi tìm sự giúp đỡ. Chính tình yêu của họ làm cho ông trở lại.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô nói: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng”. Thánh nhân nói tiếp rằng chứng cứ thật sự Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những con người tội lỗi.
Được yêu thương vì mình công chính không có gì đáng kể. Không có gì xứng đáng hơn. Nhưng được yêu thương khi mình có tội là một kinh nghiệm tuyệt vời.
Nếu chúng ta là người tội lỗi, và ai trong chúng ta không phạm tội? – Vậy mà Đức Kitô yêu thương chúng ta nhiều hơn. Chúng ta không được yêu thương nhiều đến thế vì hoàn hảo. Chúng ta cần được chấp nhận và được yêu thương chỉ khi chúng ta có tội.
Nhiệm vụ của Kitô hữu không phải là chiếm đoạt tình yêu của Thiên Chúa nhưng đáp lại tình yêu ấy. Và cách tốt nhất để đáp trả là yêu thương người khác dù họ có lỗi hay phạm tội.
Cách tốt nhất để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa về tình yêu mà Người biểu lộ với chúng ta qua Đức Giêsu là chia sẻ tình yêu ấy với người khác. Đức Kitô đã chọn các tông đồ và gởi họ đến những người khác. Giờ đây Người muốn chúng ta đưa tay cho những người khác theo cách nào mà chúng ta có thể. Nhiệm vụ của chúng ta đơn giản: chúng ta phải là những nhân tố đem lòng thương xót của Người đến cho người khác.
49.“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”
(Suy niệm của Hiền Lâm)
Chúa Giê-su chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do-thái không giải quyết được cho họ. Họ như rắn mất đầu, thiếu vắng đời sống tâm linh. Trong bản tính nhân loại, một mình Chúa cần sự cộng tác của các môn đệ cùng làm công việc của Người như một “mục tử” và “lương y”.
Trước sự bao la của hoạt động tông đồ, điều đầu tiên mà Chúa Giê-su yêu cầu các môn đệ là cầu nguyện: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít! Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Cầu nguyện là hình thức dấn thân đầu tiên của các môn đệ cho sứ vụ. Bởi vì nếu người ta tin vào tầm quan trọng của sứ vụ mà người ấy phải thực hiện, thì mọi việc đều có thể làm được để nó sẽ không chết cùng với chúng ta, mà đúng hơn là nó vẫn tiếp tục với những người khác qua chúng ta và sau chúng ta.
Chúa Giê-su sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho. Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo hội qua các thời đại trong lịch sử đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người.
1. Chọn các Tông Đồ
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông Đồ là do được Chúa chọn. Các môn đệ lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn…
Trong Giáo hội, việc được chọn làm công việc này, chức vụ nọ, là do Chúa chọn qua sự tuyển lựa của Hội thánh, chứ không phải cha truyền con nối hay mình tự ứng cử, vì thế luôn phải đặt ý Chúa lên trên hết và dù hợp với chúng ta hay không thì cũng phải biết thuận theo ý Chúa. Riêng với những ai được chọn, dù là Giáo Hoàng hay Giáo Lý Viên thì cũng đều phải cố gắng sống tốt hơn so với mặt bằng chung, xứng với địa vị của mình.
2. Ban năng quyền rao giảng và chữa lành
“Chúa Giê-su gọi mười hai Tông Đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật”.
Có thể hiểu đến năng quyền được ban cho các mục tử qua các Bí tích để sức mạnh của ma quỷ không thể cản trở được công việc loan báo Tin Mừng. Đặc biệt, qua Bí tích Hòa giải, các mục tử chữa lành bệnh tật và thương tích tâm linh cho các tâm hồn.
Rao giảng và chữa lành là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Hay nói cách khác, Tin Mừng và cuộc sống liên kết với nhau, đời sống tôn giáo và phát triển xã hội cùng song hành.
Chức vụ đi đôi với sứ vụ, khi chúng ta lãnh nhận một chức vụ gì, không phải ngồi đó để thụ hưởng mà phải ra đi đến với những người chúng ta có trách nhiệm, để phục vụ và làm chứng về Chúa cho họ.
“Hãy nói với họ rằng Nước Trời đã gần đến”. Rao giảng Tin Mừng là làm cho muôn dân trở thành môn đệ, trở về làm con Chúa, trở thành anh em một nhà… và như vậy, vương quốc Nước Trời đã chính thức hình thành ngay trên trần gian này.
Đời sống tôn giáo và sự phát triển xã hội là nét mới được khám phá nơi chủ đề Tin Mừng hôm nay: Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta mang trên mình sứ vụ làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Đồng thời, khi rao giảng Lời Chúa thì cũng không thể lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em.
Lạy Chúa Giê-su, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng con mang trên mình sứ vụ làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Xin cho chúng con khi rao giảng Lời Chúa thì cũng không thể lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em. Amen.
50.Suy Niệm của Cao Tấn Tĩnh, BVL
“Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không”
Ý nghĩa Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay
Có thể nói nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa (cả ba bài đọc: Cựu Ước, Tân Ước và Phúc Âm) cho Chúa Nhật XI Năm A hôm nay ở ngay câu đáp ca: “Chúng ta là dân của Người, là chiên thuộc đàn của Người” (We are his people: the sheep of his flock).
Trước hết, ở bài đọc một, Sách Xuất Hành cho thấy lời Thiên Chúa nói với Moisen trên một ngọn núi trong sa mạc Sinai về việc Ngài chăn dắt dân Ngài và vì thế Ngài cũng đã kêu gọi họ hãy sống theo sự hướng dẫn của Ngài như sau: “Vậy ngươi phải nói cho nhà Giacóp; hãy bảo cho dân Do Thái biết rằng: Các người đã chính mắt thấy Ta đã đối xử với những người Ai Cập ra sao, và Ta đã mang các người trên đôi cánh đại bàng thế nào, để đích thân đưa các người đến đây. Bởi thế, nếu các người lắng nghe tiếng của Ta và giữ giao ước của Ta, các người sẽ là sở hữu đặc biệt của Ta, quí hóa hơn tất cả mọi dân tộc khác, mặc dù tất cả trái đất là của Ta”. Đáp lại, Thánh Vịnh 100 trong bài Đáp Ca, câu thứ hai, đã ý thức được việc Thiên Chúa chăn dắt như sau: “Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa; Ngài đã tạo nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài; Ngài chăn dắt dân của Ngài, chăn dắt đàn chiên của Ngài”.
Sau nữa, bài Phúc Âm cũng cho chúng ta thấy Thánh Ký Mathêu ghi nhận về thái độ của Vị Thiên Chúa Duy Nhất trong Cựu Ước này tiếp tục chăn dắt đàn chiên Do Thái qua chính Con Ngài là Chúa Giêsu như sau: “Khi thấy đám đông dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương”. Tại sao? Thánh Ký cho biết ngay sau đó: “Họ bơ vơ vất vưởng như chiên không được ai chăn dắt”. Vậy Người tỏ lòng thương ra sao? Thánh Ký Mathêu trình thuật tiếp phản ứng của Chúa Giêsu thế này: “Người đã nói với các môn đệ của mình rằng: ‘Mùa màng thì tốt tươi nhưng lại hiếm hoi thợ gặt. Hãy xin chủ mùa sai thợ đến làm mùa của Ngài’”. Chưa hết, Chúa Giêsu chẳng những thúc giục các môn đệ cầu xin chủ mùa sai thợ đến làm mùa, chính Người còn sử dụng các vị như thợ đến làm mùa nữa, một biến cố được bài Phúc Âm tiếp tục kể: “Đoạn Người triệu tập 12 môn đệ lại và ban cho các vị quyền trừ khử các thần ô uế và chữa lành đủ mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền… Chúa Giêsu đã sai những con người này đi như Nhóm 12 Người với những lời căn dặn như sau: ‘Các con đừng ghé vào lãnh thổ của thành phần dân ngoại, cũng đừng vào các thôn thị của người Samaria. Song các con hãy đến với con chiên lạc của nhà Yến Duyên’…”.
Vấn đề ở đây là tại sao đàn chiên Do Thái vốn có người chăn dắt, đó là thành phần Hội Đồng Do Thái bấy giờ, với một lực lượng hùng hậu bao gồm các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ, mà Chúa Giêsu lại thấy “Họ bơ vơ vất vưởng như chiên không được ai chăn dắt”? Phải chăng đó là lý do Người đã căn dặn Nhóm 12 rằng: “Các con đừng ghé vào lãnh thổ của thành phần dân ngoại, cũng đừng vào các thôn thị của người Samaria. Song các con hãy đến với con chiên lạc của nhà Yến Duyên…”. Xin lưu ý ở đây nữa là Chúa Giêsu không căn dặn Nhóm 12 đến với đàn chiên Do Thái “không được ai chăn dắt” mà là “đến với con chiên lạc của nhà Yến Duyên”. Có nghĩa là đàn chiên Do Thái quả thực được chăn dắt, song chăn dắt theo con đường sai lạc, và giờ đây tình trạng của họ như bị “bơ vơ vất vưởng như chiên không được ai chăn dắt” để có thể biết đường mà quay trở về đường ngay nẻo chính. Như thế, đàn chiên Do Thái “không được ai chăn dắt” ở đây nghĩa là không được ai chăn dắt như vị chủ chiên nhân lành Thiên Sai. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với dân Do Thái rằng: “Tất cả những ai đến trước Tôi đều là trộm cắp và cướp giật, thành phần không được chiên nghe theo” (Jn 10:8). Đó cũng là lý do, khi thấy Gioan Tẩy Giả, đàn chiên Do Thái đã “tuốn đến với ngài” (Mk 1:5) mà hỏi “chúng tôi phải làm gì?” (Lk 3:10), nhất là tuốn đến với Đấng tới sau Gioan Tẩy Giả (xem Jn 3:26), như hình ảnh đám đông xuất hiện trước mắt Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chính vì tình trạng đàn chiên Do Thái bơ vơ vất vưởng không người chăn như thế mà họ đã trở thành một cơ hội tốt, một vụ mùa thuận lợi cho các môn đệ Chúa Kitô đi gặt hái.
Chiều kích Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay
Đúng thế, vì Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh qua Chứng Từ Giáo Hội, mà Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cần phải hiểu theo ý nghĩa Tông Đồ truyền giáo hay Giáo Hội truyền giáo. Vẫn biết, đối tượng của cuộc Tông Đồ truyền giáo được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại hôm nay đây nhắm vào một mình đàn chiên Do Thái, và chủ đề rao giảng của cuộc Tông Đồ truyền giáo này cũng chỉ là chủ đề Gioan Tẩy Giả (xem Mt 3:2) và Chúa Giêsu (xem Mt 4:17) rao giảng ở Đất Do Thái và cho Dân Do Thái, đó là “Triều đại Thiên Chúa đã đến!”, như thành phần thừa sai trong bài Phúc Âm hôm nay được căn dặn. Tuy nhiên, cuộc Tông Đồ truyền giáo lần này đã có một hình thức và tính cách Tân Ước, tính cách Giáo Hội, tính cách Phục Sinh, tính cách Hiện Xuống, ở chỗ, như Thánh Ký Mathêu ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm nay: “Chúa Giêsu đã sai những con người này đi như Nhóm 12 Người”. Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Tân Ước, vì được Con Thiên Chúa “triệu tập” và “sai đi”. Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Giáo Hội, vì Giáo Hội Chúa Kitô được xây trên nền tảng tông đồ này (xem Eph 2:20), nhất là trên tảng đá Phêrô (xem Mt 16:18). Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Phục Sinh, vì vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần, (cho dù chỉ còn 11 vị), các vị đã nhận được Thánh Linh từ thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem Jn 20:22), để nhờ đó có thể làm chứng cho Người (xem Lk 24:48). Nhóm 12 Người này có hình thức và tính cách Hiện Xuống, vì chung các vị và riêng từng vị đã được tràn đầy Thánh Linh trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Acts 2:4), và đã cùng nhau (xem Acts 2:14) hiên ngang đứng lên bắt đầu loan báo Tin Mừng Phục Sinh bằng Bài Giảng Tiên Khởi.
Tuy nhiên, xét cho cùng, thì chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” trong cuộc Tông Đồ truyền giáo cho “thành phần chiên lạc nhà Yến Duyên”, và chủ đề của Bài Giảng Tiên Khởi cũng chỉ là một chủ đề duy nhất. Bởi vì, Bài Giảng Tiên Khởi này được thực hiện tại Giêrusalem, giáo đô của dân Do Thái, và được ngỏ với đủ mọi thành phần Do Thái, kể cả những người còn ở quốc nội cũng như từ quốc ngoại về, thành phần bấy giờ đang cùng nhau tụ họp tại Giêsurusalem để Mừng Lễ Ngũ Tuần (xem Acts 2:9-11). Có thể nói, chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” là phần mở, còn chủ đề của Bài Giảng Tiên Khởi là phần kết, hay chủ đề “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” là vòng ngoài, còn chủ đề của Bài Giảng Tiên Khởi là trọng tâm. Bởi vì, “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” đây là gì, nếu không phải là Đấng Thiên Sai đã đến: “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), và Đấng Thiên Sai này, như cốt lõi của Bài Giảng Tiên Khởi chứng thực cho thấy, thực sự từ Thiên Chúa mà đến, vì Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại sau khi bị họ dùng tay dân ngoại đóng đanh vào thập giá (xem Acts 2:22-24), và Người là “Đấng đã sống lại vì sự công chính của chúng ta”, như Thánh Phaolô, cũng qua thư Vị Tông Đồ Dân Ngoại gửi cho Giáo Đoàn Rôma trong bài đọc thứ hai tuần trước đã kết thúc với niềm xác tín như thế.
Vấn đề sống đạo ở đây theo chiều kích của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là Kitô hữu chúng ta phải làm sao ý thức được những gì Thánh Phaolô đã nhắc nhủ Kitô hữu Giáo Đoàn Rôma trong bài đọc thứ hai: “Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta ở chỗ, đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta”. Phải, chỉ khi nào Kitô hữu chúng ta thực sự cảm nghiệm được sự thật này, sự thật là một tạo vật chẳng những vô cùng bất xứng mà còn đáng đời đời trầm luân như chúng ta đây lại được Đấng vô cùng toàn mãn và toàn thiện để ý tới, được Ngài hết lòng yêu thương đến ban chính bản thân của Ngài là Chúa Giêsu Kitô Con Ngài (x Jn 3:16), Kitô hữu chúng ta mới có thể trở thành Tông Đồ truyền giáo, hay trở thành Chứng Nhân Tông Đồ của Ngài, ở chỗ, chúng ta đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ (xem Mt 20:28), tức là, chúng ta thực hiện đúng như lời Chúa Giêsu kết thúc những gì căn dặn Nhóm 12 trong bài Phúc Âm hôm nay: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không”.
51.Rao giảng và chữa lành
(Suy niệm của M. Nhật Nguyệt)
Ở thời đại nào Giáo hội cũng luôn thao thức ‘Làm cách nào để con người có thể đón nhận và tin vào Tin Mừng’. Trở về với cội nguồn là Đức Giê-su để chúng ta học lấy cách thức truyền giáo của Ngài. Thật vậy “Nói đi đôi với làm”, nghĩa là lời nói và việc làm phải song hành và nhất quán với nhau. Đây là cách thức hữu hiệu mà Đức Giê-su thi hành trong sứ mạng của mình. Vì thế, cặp từ “rao giảng và chữa lành” Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh là hai việc mà Đức Giê-su đã thực hiện trong hành trình đem Tin Mừng đến với con người. Các môn đệ tiếp tục thực hiện việc rao giảng và chữa lành đó của Thầy mình.
Chúa Giê-su đến rao giảng điều gì? Tin Mừng ghi lại rất vắn gọn lời rao giảng của Chúa Giê-su “rao giảng Tin Mừng Nước Trời” (Mt 9,35). Đây cũng là lệnh truyền lúc Chúa sai các môn đệ ra đi “Dọc đường anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần” (Mt 9,7). Tin Mừng về Nước Trời là nội dung cốt yếu trong lời rao giảng của Người từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc sứ mạng trên trần gian. Người dùng chính ngôn ngữ của con người, dùng dụ ngôn, hình ảnh quen thuộc của cuộc sống để giảng dạy, giải thích, diễn tả cho họ hiểu về Nước Chúa. Hình ảnh về Nước Trời được Chúa Giê-su công bố là một thời đại công lý và hòa bình ngự trị mà chính ngôn sứ I-sai-a đã loan báo thuở xưa. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng Đấng Mêsia sẽ đến trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để đem tự do và sự sống mới cho tất cả những ai bị giam cầm bởi đau khổ, bệnh tật, tội lỗi và ma quỷ (Is 61,1-2). Nơi đó, người nghèo được nghe Tin Mừng, kẻ giam cầm được tha, kẻ câm nói được, người mù được sáng mắt, kẻ bị áp bức được tự do…(x.Lc 4, 17-19). Lời loan báo về Nước Trời khi Người đến sẽ được khai mở không phải để mị dân hay ảo tưởng về một cuộc sống tươi đẹp xa vời nào đó, mà về một cuộc sống viên mãn đích thực trong Người và nơi Người.
Thực tại về Nước Trời không phải chỉ được rao giảng trên môi miệng nhưng được Chúa Giê-su hiện tại hóa qua việc chữa lành “Người chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 9,35). Chúng ta dễ dàng thấy các việc làm của Chúa qua các trang Tin Mừng: chữa nhiều kẻ ốm đau (Mt 8,16; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41), cho bà mẹ vợ ông Phê-rô khỏi sốt (Mt 8,14-15; Mc 1,29-31; Lc 4,38-39); cho người đàn bà khỏi bệnh băng huyết (Mt 9,20-21; Mc 5,25-34; Lc 8,43-48); cho người mù sáng mắt (Mt 9,27-30; 20,29-34; Mc 8,22-26; Ga 9,1-41); chữa bệnh phong (Mt 8,1-4; Mc 1, 40-45; Lc 5,12-14); người bại liệt (Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); cho người câm nói được (Mt 9,32-34), diệt trừ ma quỷ (Mt 8,28-34; Mc 5,1-20; Lc 8,26-39), cho con trai bà góa thành Na-in (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Mt 9,18-26; Mc 5,21-24.35-42; Lc 8,40-56) và La-za-rô (Ga 11,1-44) chết sống lại…Như vậy, những gì người rao giảng về Triều đại của Người thì chính Người thực hiện một cách cụ thể, rõ ràng trước mặt toàn dân. Chúa Giê-su đã khai mào Nước Thiên Chúa ngay giữa trần gian. Chính Chúa Giê-su cũng muốn các môn đệ của mình tiếp nối những công việc đó “Anh em hãy chữa lành kẻ đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ” (Mt 10,8). Chúng ta còn nhớ sách Công vụ Tông đồ ghi lại việc Phê-rô chữa cho một người què đi được tại Cửa Đẹp Đền thờ (Cv 3,1-10), tại Lốt ông chữa cho một người tê bại (Cv 9,32-35) ở Gia-phô cho bà Ta-bi-tha chết sống lại (Cv 9,35-42); tại Sa-ma-ri,Phi-líp-phê chữa cho nhiều người bị thần ô uế ám, nhiều người tê bại và tàn tật được ông chữa lành (Cv 8,7); sau này tại Trô-a, Phao-lô vị Tông Đồ dân ngoại cũng cho một thiếu niên chết sống lại (Cv 20,7-12).
Thật vậy, sứ điệp mà Đức Giê-su rao giảng và các phép lạ chữa lành mà Người thực hiện đều nhằm mục đích đem Tin Mừng Nước Chúa đến gần với con người, tuyên bố về vương quốc sắp đến của Thiên Chúa nơi bản thân Người là sự hoàn thành trực tiếp những điều các ngôn sứ đã tiên báo nhiều thế kỷ trước (Is 29,18-19; 35,5-6; 61,1). Người đã rao giảng về Nước Chúa thế nào thì việc chữa lành củng cố và hiện thực hóa như vậy. Nhờ đó họ tin tưởng vào một Đấng không chỉ là Thầy dạy mà còn mang trong mình Uy quyền của Thiên Chúa. “Thiên hạ sửng sốt về lời dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng coa thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22).
Nhìn vào đời sống hôm nay, mỗi người chúng ta thử xem chúng ta sống đạo thế nào để đem Tin Mừng Chúa đến cho những người xung quanh? Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin nhưng lại không thực hành đức tin. Thánh Gia-cô-bê Tông đồ nói rằng “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Đức tin của mỗi người và sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội có sống được và trổ sinh hoa trái là nhờ công việc rao giảng và chữa lành. Chúng ta không ra đi bằng không gian địa lý nhưng trong hoàn cảnh và bậc sống của mình chúng ta cũng có thể đem Tin Mừng đến cho người khác. Rao giảng bằng lời nói và gương sống “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Chữa lành không chỉ là cho đi của cải, vật chất nhưng còn cho đi thời gian, công sức và cả chính mình nữa.
Lạy Chúa, sống tâm tình chờ đợi của Mùa Vọng chúng con lại càng được thôi thúc để sống cho sứ điệp của Chúa là mong cho muôn dân nhận biết Ngài. Chúng con chờ đợi Ngài trong hạnh phúc vì một niềm hy vọng chắc chắn thì xin cho chúng con cũng biết sống cho niềm hy vọng ấy cách sinh động, vui tươi. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam