Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1438490

TÔI VÀ CHÚA CHA LÀ MỘT

TÔI VÀ CHÚA CHA LÀ MỘT (*)  Chú giải của Noel Quession

Tôi là…

Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 4,26; 7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu viết “bốn chữ cái không phát âm được là “Tên mầu nhiệm” mà chính Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa mạc Sinai.

YHVH được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là “Adonai”, “Đức Chúa”.

Hơn nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng theo thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ trên “Tôi là…”, kèm theo một phẩm tính:

– “Tôi là Bánh hằng sống” (Ga 6,35-42,48-51).

– “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8.12-9,5).

– “Tôi là Sự sống lại và là sự Sống” (Ga 11,25).

-“Tôi là Cây nho thật” (Ga 15,l-5).

-“Tôi là Cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7-9).

-“Tôi là Mục tử nhân lành” (Ga 10,11-14).

Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói trên muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga l,14).

Tôi là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).

Ở đây, Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân gian và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu nói Kinh Thánh vô cùng phong phú. Trong khắp vùng Đông Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai Cập: “Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78,52). Đavit, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng được loan báo như một “Mục tử”: “Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavit, tôi tớ của Ta” (Ed 34,23).

Mọi thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều hiểu rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ Êdêkien, diễn tả khá dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan tâm chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế này: Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi chúng nơi bãi cỏ tốt. Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm” (Ed 34,1-31).

Như thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về địa vị đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: “Nhiều người trong nhóm họ nói: ông ấy điên khùng rồi? ‘Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự cho mình, là Thiên Chúa” (Ga 10,20-33). Chính vì thế, họ lấy đá để ném Đức Giêsu.

Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh “Mục tử” biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22: “Chúa là Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ sức cho tôi”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu nguyện như thế, không phải là một kiểu cầu nguyện chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội dung cầu nguyện phong phú hơn.

Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi.

Ngày nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh của Kinh Thánh mang ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết, theo.

“Nghe”: đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong tương quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của tình yêu đích thực. Biết bao lần, ngay trong một nhóm người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn tròn, ngay trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế mà thực sự ta, chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel biết lắng nghe. “Hỡi Israel, hãy nghe đây?” (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv 29,3-9). Lắng nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa Cha muốn ngỏ cùng thế gian. “Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5).

“Theo”: đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với… Đức Giêsu mời gọi: “Hãy theo tôi” (Ga l,42).

“Biết”: trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,l).

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Đây đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và đoàn chiên, giữa Đức Giêsu và “những kẻ nghe tiếng Người và theo Người”. Đúng là một sự liên kết vĩnh viễn.

Lạy Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự con đang ở trong “bàn tay Chúa”. Bàn tay mà Chúa đã giơ ra cho người bệnh để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển. Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang rộng trên thập giá tại đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó, Chúa đã nắm chặt lấy con và không ai có thể cướp được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.

Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

Như thế, chúng ta được cả “hai bàn tay” giữ gìn.

Như một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh đó đẹp biết bao!

Lạy Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng Chúa. ‘Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những người con thương mến trong bàn tay của Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là cảnh sắc màu mè diễn tả những “mục tử hiền lành” và các chú cừu con lông xoăn”. Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).

Đức Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu trong cuộc Thụ khổ để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).

Cùng với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến đấu để cứu sống anh em tôi không?

Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

Thế nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện tượng bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh chúng con, hay ngay trong đời sống chúng con?

Đó là mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần biết, đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” (Lc 15,4-7). Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên Chúa, để nghĩ rằng Người có thể kết án những tội nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối với Thiên Chúa yêu thương!

Tôi và Chúa Cha là một.

Các chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa Cha, Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở trong bàn tay của Thiên Chúa.

Những kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực thẳm choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu Nadarét: trong con người thực sự đã được sinh ra từ một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị giết đi, lại chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa tự mạc khải trong tình thân hữu với con người. “Tôi và Chúa Cha là một”. Các Công đồng sẽ phải nỗ lực xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng sẽ không khi nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu nhiệm của con người Giêsu. Tất cả những gì đã nói, trong công thức trên, chỉ có thể phải “lắng nghe” trong đức tin: “Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một… Thiên Chúa và tôi, Giêsu, chúng tôi là một”

Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người “ban sự sống đời đời”.

Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể tuyên bố: “Tôi là…”.

Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa “minh chính hóa”, bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – NĂM C

TA LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

*1. Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành.

Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một người mù bẩm sinh và anh ta bị trục xuất khỏi hội đường, Đức Giêsu tỏ ra là một “Đấng chăn chiên, hiến tặng đời mình cho đàn chiên” (Ga 10,11)

Giờ đây, chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng năm ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại nơi hành lang Salômôn (nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ họp, Cv 5, 12). Những người Do Thái – từ ngữ chỉ chung các thù địch của Đức Giêsu, trong Tin Mừng Gioan – tụ tập quanh Đức Giêsu (đúng ra là “quanh Người”: 10,22). Tin Mừng ghi: “Lúc đó là mùa đông” (Ga 10,22); nói thế, để từ thời tiết, chúng ta dễ nghĩ tới “sự băng giá” của lòng người theo thánh Augustinô sẽ viết sau này. “Nếu ông là Đấng cứu thế, hãy nói huỵch toẹt cho chúng tôi biết đi”.

Những người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người kêu gọi thính giả suy nghĩ về những công việc của một vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù bấm sinh mới đậy. A. Marchadour giải thích: “Các phép lạ được coi như nhũng dấu chỉ, nhờ đó mà nhận ra Đấng Cứu thế. Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên, hình ảnh truyền thống của Đấng cứu thế dòng dõi Đavít; ở đây, Người nhấn mạnh đến những con chiên mà Chúa Cha trao phó cho Người.

*2. Làm một với Chúa Cha.

Và bây giờ, một đề tài mới, cho tới lúc này, chưa đề cập tới lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: “Cha tôi và tôi, chúng tôi là một”. Một khẳng định xác lập cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến nỗi không ai có thể cướp được một con nào. “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”

Đối với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm thượng? Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ lượm đá để ném Người. Họ nói: “Ông chỉ là phàm nhân mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”. Tác giả Tin Mừng kết thúc: “Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”. Tác giả như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng của cuộc tử nạn trên thập giá và sự Phục sinh từ cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng ta sẽ khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh của mình bởi tình yêu đối với các con chiên thế nào; trên con đường sự sống nào, Người muốn dẫn đưa những ai nghe tiếng Người và đi theo người; Mối tình hiệp thông yêu thương nào với Chúa Cha mà Người muốn dẫn đưa chúng ta tham dự vào?

BÀI ĐỌC THÊM

*1. Theo Đức Giêsu (G. Boucher, trong “Thiên đường tại thế”).

Lạy Chúa, chúng con không muốn mình bị đồng hóa với đàn súc vật. Con không thích là một chú chiên chỉ biết đi theo người chăn chiên..Con cũng không muốn kêu be be như con chiên. Con nói điều con nghĩ, đi nơi con thích. Con không muốn bị dắt đi.

Ngày nay, chúng con nhấn mạnh đến sự thức tỉnh của lương tâm: mỗi người sẽ chọn lấy hướng đì mà mình muốn. Mong sao có trong tay phương tiện thực hiện sự lựa chọn của mình. Ngày nay, chúng con thích chịu trách nhiệm về số phận mình. Chúng con không muốn trao tấm bảng trắng đời mình cho các nhà lãnh đạo hoặc những người chúng con bầu ra để họ muốn làm gì thì làm. Ngược lại, họ phải trả lời cho chúng con về những việc họ đã làm.

Nhưng, Chúa lại nói với con rằng: giữa con và Chúa là sự hiệp thông. Mong sao Chúa nói lời soi sáng và hướng dẫn đời con. Chúa thuộc một bình diện hoàn toàn khác.

Nghe Chúa và đi theo con đường Chúa đã vạch ra, con sẽ sống cuộc sống tốt đẹp và trọn vẹn, cho tới nỗi cuộc sống ấy sẽ không ngừng lại khi sự hiện hữu trần thế chấm dứt. Cuộc mạo hiểm mà Chúa dắt con đi sẽ dìm con vào sự sống vĩnh hằng.

Với Chúa, mọi sự sẽ đổi khác. Chúng con không còn nguy cơ sẽ bị huỷ diệt nữa. Không ai tiêu diệt được chúng con. Không gì có thể xâm phạm đến chúng con.

Nghe lời Chúa và đi theo con đường Chúa thiết lập là chúng con lên đường với Chúa. Con muốn nói: với Thiên Chúa. Với Thiên Chúa của sự sống và của sự vĩnh cửu. Với Thiên Chúa mà Chúa đã gọi là Cha.

*2. Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi (Sứ điệp của Đức Gioan-Phaolô II).

Ngày nay, vẫn còn nhiều nguyên do cản ngăn thanh thiếu niên và các bạn trẻ sống sự thực của tuổi đời mình trong sự gắn bó quảng đại với Đức Kitô. Biết bao bạn trẻ đang đánh mất năng lực phát triển đích thực.

Vậy nên mong đợi gì? Trong thâm tâm mỗi thế hệ luôn ẩn tàng một ước muốn tạo lập một ý nghĩa cho đời mình. Trên hành trình cuộc sống, các bạn trẻ luôn tìm một người biết thảo luận với họ, những vấn đề làm họ bức xúc và đồng thời đề ra được những giải pháp, những giá trị, những viễn cảnh đầu tư được sự dũng cảm đương đầu với tương lai.

Điều người ta đòi hỏi hôm nay là: một Giáo Hội biết trả lời cho sự kỳ vọng của tuổi trẻ. Đức Giêsu mong muốn thảo luận với họ qua thân thể người là Giáo Hội. Người muốn đề nghị với họ viễn cảnh của một chọn lựa có tính quyết định cuộc đời Như Người đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, Giáo Hội ngày nay cũng phải lên đường đồng hành với các bạn trẻ đầy ưu tư, bất mãn và mâu thuẫn, để loan báo cho họ Tin Mừng kỳ diệu của Đức Kitô phục sinh.

Điều người ta đang cần là một Giáo Hội cho các bạn trẻ, một Giáo Hội nói chuyện được với lâm hồn họ, hâm nóng con tim họ bằng niềm vui của Tin Mừng, bằng sức mạnh của

Thánh Thể, một Giáo Hội biết đón tiếp và mời gọi những ai đang đi tìm mục đích cuốn hút toàn bộ cuộc sống của họ; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nhiều sau khi đã cho đi không ít; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nơi bạn trẻ sự nhọc mệt của một cuộc mạo hiểm cao thượng và chân chính, cuộc mạo hiểm bước “theo” Tin Mừng.

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH – NĂM C

ĐẤNG CHĂN CHIÊN ĐÍCH THỰC (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”.

Cv 13: 14, 43-52

Khi thi hành công việc truyền giáo ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba, như những mục tử nhân lành, công bố ơn cứu độ phổ quát cho muôn người.

Kh 7: 9, 14-17

Thị kiến mà sách Khải Huyền mô tả chính xác là thị kiến về đoàn người được tuyển chọn đông đảo khôn kể xiết đứng chầu quanh ngai Thiên Chúa. Con Chiên đang ngự ở giữa họ “sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”.

Ga 10: 27-30

Đức Giê-su khẳng định Ngài là vị Mục Tử Thiên Chúa, liên đới với đoàn chiên của Ngài. Chính Ngài cho họ được sống và sống dồi dào trong sự hiệp nhất mật thiết với Chúa Cha. 

BÀI ĐỌC I (Cv 13: 14, 43-52)

Phần thứ nhất sách Công Vụ Tông đồ (ch. 1-12), mà chúng ta đã đọc nhiều đoạn trích dẫn trong nhiều Chúa Nhật trước, nêu bật dung mạo Tông Đồ Phê-rô. Trong phần này, thánh Phê-rô loan báo Tin Mừng chủ yếu cho dân Ít-ra-en, ngoại trừ viên đại đội trưởng Rô-ma, ông Co-nê-li-ô và gia quyến của ông, những người Ki-tô hữu đầu tiên được chấp nhận vào Giáo Hội qua phép Rửa chứ không qua phép cắt bì.

Phần thứ hai sách Công Vụ Tông Đồ (ch. 13-28) nêu bật dung mạo thánh Phao-lô, thánh nhân thực hiện sự đột phá lớn lao trong công việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới lương dân. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích dẫn từ bài trình thuật về cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô. Bản văn này chứa đựng lời tuyên ngôn nổi tiếng của thánh Phao-lô: trước việc dân Ít-ra-en từ khước, thánh nhân quyết định quay về lương dân (13: 46-47).

*1.Thánh Ba-na-ba:

Trong những năm tháng khó khăn sau cuộc hoán cải của mình, thánh Phao-lô may mắn gặp được thánh Ba-na-ba. Thánh Ba-na-ba xuất thân từ đảo Síp, nhưng đã đến định cư lập nghiệp ở Giê-ru-sa-lem. Khi trở thành Ki-tô hữu, thánh nhân đã bán hết sản nghiệp của mình và đặt dưới chân các Tông Đồ. Tên thật của thánh nhân là Giô-xếp, nhưng người ta đặt cho thánh nhân biệt danh Ba-na-ba, nghĩa là “con của sự an ủi”. Quả thật, thánh nhân xứng đáng với biệt danh này trong cách hành xử của thánh nhân đối với thánh Phao-lô. Khi thánh Phao-lô lần đầu tiên đến Giê-ru-sa-lem sau biến cố trên đường Đa-mát, kẻ bách hại đạo trước đây được tiếp đón với thái độ dè dặt. Thánh Ba-na-ba biết nhận ra cuộc hoán cải chân thành của thánh Phao-lô và đứng ra bảo lãnh cho thánh nhân trước các Tông Đồ.

Nhiều năm sau đó, thánh Ba-na-ba được cử đến An-ti-ô-khi-a, thành phố lớn chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, ở đó nhiều người Do thái cũng như lương dân theo đạo càng lúc càng đông (An-ti-ô-khi-a là thành phố đầu tiên có cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân). Trước công việc lớn lao, thánh Ba-na-ba nảy sinh sáng kiến đi tìm thánh Phao-lô lúc này ở Tác-xô. Cả hai cùng làm việc ở An-ti-ô-khi-a trong vòng một năm, chắc chắn vào năm 43-44. Đoạn, được Thánh Thần đề xuất, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a cử thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô đi truyền giáo (Cv 13: 1-3).

Thánh Ba-na-ba dẫn thánh Phao-lô đến đảo Síp, quê quán của mình. Nhưng chẳng bao lâu sau vai trò của hai người đảo ngược. Thật là có ý nghĩa biết bao, sau cuộc truyền giáo ở đảo Síp, thánh Lu-ca không còn viết Sao-lô nhưng Phao-lô, và không còn đặt ngài ở hàng thứ hai; từ đây thánh Lu-ca viết “ông Phao-lô và ông Ba-na-ba”.

*2.Thành An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a:

Từ đảo Síp, hai ông đáp tàu đến miền duyên hải phía nam thuộc miền Tiểu Á. Đoạn hai ông vượt đèo leo núi đến thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a ở độ cao 1200 mét. Để đến đó, hai ông phải băng qua đoạn đường 160 cây số, bằng cách vượt qua dảy núi Taurus, do bởi những con đường quanh co hiểm trở có nhiều khe suối, trong một miền đầy sào huyệt của quân trộm cướp. Chắc chắn thánh Phao-lô ám chỉ đến cuộc hành trình gian khổ này trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh nhân gợi lên mọi nỗi gian truân mà ngài đã kinh qua (2Cr 11: 26).

*3.Cộng đồng Do thái:

Thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a là một trong những thủ phủ Rô-ma thuộc Á Châu và được hưởng quy chế thành phố tự do với những kiến trúc đô thị theo kiểu Rô-ma. Nằm trên trục giao thông, thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a đã có một nền thương mại phát triển thịnh vượng. Ở đây có một cộng đồng Do thái định cư lập nghiệp và có ảnh hưởng tôn giáo trên cư dân ở đây: có nhiều lương dân nhận ra Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, tôn kính Ngài, cầu nguyện với Ngài và tham dự vào những công việc từ thiện của cộng đồng; những người này được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Những lương dân này sẽ là đám thính giả đông đảo của thánh Phao-lô ở hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a này.

*4.Sứ điệp mang tính lịch sử:

Vào một ngày sa-bát, trong hội đường, lời rao giảng đầu tiên của thánh Phao-lô gây nên lòng mộ mến của nhiều người Do thái cũng như nhiều lương dân kính sợ Thiên Chúa. Vào ngày sa-bát sau đó, những lương dân kính sợ Thiên Chúa này kéo theo một phần lớn dân thành vào trong hội đường để nghe thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuyết giáo. Thấy thế, những người Do thái “sinh lòng ghen tức, họ nhục mạ và phản đối những lời của thánh Phao-lô”. Đây là lần đầu tiên người Do thái chống đối thánh Phao-lô. Sẽ có những chống đối khác nữa. Từ lúc này, thánh Phao-lô nhận ra dấu hiệu nghiêm trọng này. Đây là lần đầu tiên thánh nhân nói đến sự từ khước của dân Do thái, mà hệ luận tất yếu là lương dân gia nhập Ki-tô giáo.

Thánh Phao-lô công bố chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng khi nhắc nhớ giáo huấn của các ngôn sứ và áp dụng cho chính mình ơn gọi của Người Tôi Trung: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Khi nghe sứ điệp của thánh Phao-lô, “lương dân vui mừng suy tôn Lời Thiên Chúa và tất cả những ai đã được Thiên Chúa tiền định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo”. Thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ xuất xứ từ văn chương kinh sư, theo đó người ta thường hay nói “được tiền định cho hưởng cuộc sống mai sau”. Diễn ngữ này không muốn nói đến số phận được tiền định, nhưng nhấn mạnh cuộc sống mai hậu này là ân ban của Thiên Chúa dành cho những ai tin vào Chúa Giê-su.

*5.Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba bị trục xuất:

Chắc chắn, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba lưu lại ở An-ti-ô-khi-a nhiều tháng. Trong thuộc địa Rô-ma này, những người Do thái không có quyền điều hành; họ phải vận động những nhân vật trung gian: sách động những phụ nữ thượng lưu đã theo Do thái giáo, và những người có quyền thế trong thành, xúi dục họ trục xuất hai vị truyền giáo ra khỏi lãnh thổ của họ. Sau khi bị trục xuất, hai ông “liền giũ bụi chân”, cử chỉ nói lên đoạn tuyệt và quy trách nhiệm cho các đối thủ này. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa mối phúc của những người bị bách hại: “Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và ơn Thánh Thần”.

BÀI ĐỌC II (Kh 7: 9, 14-17)

Chúng ta tiếp tục đọc sách Khải Huyền của thánh Gioan. Đoạn trích dẫn hôm nay rất phù hợp với Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su công bố Ngài là Mục Tử đích thật. Thị kiến mô tả Con Chiên là Đức Ki-tô ở giữa những người được tuyển chọn như Người Mục Tử ân cần trao ban sự sống đời đời cho đoàn chiên của mình.

Chương 7 sách Khải Huyền chứa đựng hai thị kiến liên tiếp nhau: thị kiến thứ nhất về Giáo Hội chiến đấu, trong đó các Ki-tô hữu được đóng ấn ơn cứu độ trước khi đương đầu với những nỗi gian truân; thị kiến thứ hai là đối tượng của bản văn chúng ta.

*1.Một đoàn người thật đông không tài nào đếm được:

Trong khi xuất thần, thánh Gioan được đưa lên trời ở đó diễn ra một phụng vụ vĩ đại tôn vinh Thiên Chúa và Con Chiên. Đoàn người được tuyển chọn thật đông không tài nào đếm được như dòng dõi mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham. Ơn cứu độ phổ quát được các ngôn sứ loan báo, được Con Chiên đạt được nhờ hiến dâng mạng sống mình “cho muôn người”, được đám đông “thuộc mọi nước, mọi dân, mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ” chứng thực. “Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”: “Họ đứng”: dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, “mình mặc áo trắng”: dấu chỉ của sự vô tội, và “tay cầm nhành lá thiên tuế”: dấu chỉ của sự khải hoàn.

*2.Cơn thử thách lớn lao:

Một trong các Kỳ Mục giải thích: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”. Theo từ ngữ của các sách khải huyền, “cuộc thử thách lớn lao” chỉ những nỗi gian truân của thời cánh chung. Trước đây, Đức Giê-su đã gợi lên điều này khi Ngài nói với các môn đệ: “khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa” (Mt 24: 21).

Viễn cảnh của các sách khải huyền chủ yếu là cánh chung, nhưng được “lồng vào nhau” giữa hiện tại và tương lai. Các ngôn sứ nói về kỷ nguyên thiên sai theo cùng những từ ngữ như thế nào thì họ mô tả kỷ nguyên cánh chung theo cùng một cách thức như vậy. Sách Khải Huyền của thánh Gioan ngỏ lời với những người Ki-tô hữu bị bách hại đang đối mặt với cái chết vì đạo. Như chúng ta đã nói, sách này là một tác phẩm “được mã hóa”, theo đó ngôn từ hàm chứa hai cách đọc. Cuộc thử thách lớn lao ám chỉ đến cái chết khủng khiếp đang chờ đợi họ và những nhành lá thiên tuế mà họ đang cầm trong tay muốn nói cuộc khải hoàn của họ sắp đến gần: họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên vì họ đã dự phần vào cuộc Tử Nạn của Ngài bằng cách chấp nhận đổ máu mình để làm chứng cho Ngài.

*3.Thờ phượng muôn đời:

“Họ đứng chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. Chương 7 sách Khải Huyền tham dự trước các chương 20-22, các chương này mô tả thành đô Giê-ru-sa-lem trên trời. Thế nên, trong thành đô Giê-ru-sa-lem mới, không còn có Đền Thờ “vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21: 22). Đây là một trong những phương thức của tác giả là dùng những biểu tượng Cựu Ước để diễn tả những thực tại mới: Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, dấu chỉ bất toàn này rồi sẽ biến mất. Từ đó, Thiên Chúa đích thân vĩnh viễn hiện diện giữa dân Ngài và họ chúc tụng Ngài luôn mãi.

*4.Thiên Chúa ở cùng chúng ta:

Kinh Thánh được ứng nghiệm theo từng lời: con người được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa, Người chấm dứt mọi nỗi truân chuyên của họ: “Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”. Câu này rõ ràng trích dẫn gần như nguyên văn của Is 49: 10, nhưng thật đáng cho chúng ta lưu ý, tác giả sách Khải Huyền đã thay thế “Đấng” quy chiếu đến Đức Chúa trong bản văn Is 49: 10 bằng “Con Chiên” chỉ Đức Ki-tô. Con Chiên là nguồn gốc niềm hoan lạc của họ và Con Chiên này “sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”.

Bản văn Khải Huyền này cũng được đọc lại vào ngày lễ Chư Thánh để nhắc nhớ niềm hy vọng lớn lao của người Ki-tô hữu.

TIN MỪNG (Ga 10: 27-30)

Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc phần thứ ba và phần sau cùng của dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành” theo Tin Mừng Gioan.

*1.Bối cảnh:

Phần sau cùng này rõ ràng được tách riêng ra khỏi những khai triển trước đó: hoàn cảnh, thời gian, nơi chốn không như trước nữa. Quả thật, những câu 22-24 định vị dụ ngôn này vào trong bối cảnh của cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu: “Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-mon. Người Do thái vây quanh Đức Giê-su và nói: ‘Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết’”.

Ấy vậy, vào lúc cử hành lễ Cung Hiến Đền Thờ, trong phụng vụ người ta đọc chương 34 của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong chương 34 này, Thiên Chúa truyền lệnh cho vị ngôn sứ tuyên sấm hạch tội những mục tử chăn dắt Ít-ra-en, vì họ chỉ biết lo cho lợi ích của mình mà không quan tâm gì đến cảnh sống cùng khổ của đoàn chiên Người: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đoàn chiên còn lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên bị lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (Ed 34: 1-6). Vì thế, vị ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân chăm sóc đoàn chiên của Người: “Đức Chúa phán thế này: ‘Đây chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta…Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi…Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó…” (Ed 34: 11-16).

Những người đối thoại với Đức Giê-su đã nghe nhắc lại sứ điệp của vị ngôn sứ. Để trả lời câu hỏi của họ: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”, Đức Giê-su tự đồng hóa mình với vị Mục Tử Thiên Chúa này mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã hứa. Lời công bố này khiến họ phẩn uất đến mức muốn ném đá Ngài như đoạn tiếp theo cho thấy.

*2. “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”:

“Chiên Tôi thì nghe tiếng tôi”: Đây là thái độ của các môn đệ Ngài. Đức Giê-su đối lập thái độ này với thái độ của những đối thủ Ngài. Trước đây, Ngài đã nói cho họ: “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa” (8: 47). Qua lời này, Đức Giê-su công bố một cách rõ ràng rằng Ngài chính là Lời Thiên Chúa hiện thân.

*3. “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”:

Trước đây, Đức Giê-su đã khai triển sâu xa về sự hiểu biết hổ tương giữa người chăn chiên và đoàn chiên; động từ “biết” theo Kinh Thánh hàm chứa chuyển động của cả trí tuệ lẫn con tim; sự hiểu biết này dẫn đến niềm tin tưởng phó thác: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Xuyên suốt Tin Mừng, động từ “theo” định nghĩa thái độ căn bản của người môn đệ, gắn bó với con người Đức Ki-tô.

*4. “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”:

Ở đây chúng ta chạm đến cao điểm của dụ ngôn, vang dội biến cố Phục Sinh. Đức Giê-su có thể thông truyền cho con người sự sống thần linh của Ngài vì Ngài sắp hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên của Ngài: “Không bao giờ chúng phải diệt vong”. Không quyền lực nào có thể phân ly mối quan hệ hiệp nhất giữa người chăn chiên và đoàn chiên, vì mối giây liên kết này được thiết lập trên sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Cha Ngài: “Tôi và Chúa Cha là một”. Trong Tin Mừng Gioan, nhiều lần Đức Giê-su khẳng định một lòng một dạ giữa Ngài và Cha Ngài. Đây là mặc khải quan trọng và rõ ràng nhất về Thần Tính của Chúa Giê-su và mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa. Đây cũng là câu trả lời cho bè A-ri-ô về việc chối bỏ Thần Tính của Đức Giê-su. Cũng dựa trên lời này, Công Đồng Ni-xê-a năm 325 tuyên tín: Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính.

Chiều kích Giáo Hội của dụ ngôn thì rõ ràng. Những người Ki-tô hữu là đoàn chiên, họ gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô ơn cứu độ của mình và sự sống thần linh phong phú. Qua Ngài, họ hiệp nhất dứt khoát vĩnh viễn với Chúa Cha. Phải đọc lại chầm chậm dụ ngôn và để cho lòng mình thấm đẩm tâm tình trìu mến yêu thương của Thiên Chúa mà dụ ngôn này làm chứng. 

home Mục lục Lưu trữ