Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1437789

TIẾP NHẬN NGÀI

Suy niệm của R. Gutzwiller

TIẾP NHẬN NGÀI (10, 1-12)

Nhiều người muốn theo Chúa, song thái độ của họ chưa thực tình dứt khoát hoặc còn giả tạo nữa. Ngài muốn họ lưu tâm đến cái quyết định quan hệ của họ và những điều kiện theo sau quyết định ấy. Mặt khác, Ngài vẫn sai bảy mươi hai môn đệ đi trước.

  1. Sứ mệnh.

Họ phải dọn đường cho Ngài. Ngài nói rõ Ngài sẽ đến những nơi họ đến trước. Họ chỉ là sứ giả, còn Ngài mới là Vua. Họ là những người khai phá, tiên phong, mở đường, để chính Ngài sẽ đi trên con đường ấy. Họ làm đất sẵn còn Ngài gieo vãi hạt. Họ dựng khung còn Ngài xây tường. Họ mở cửa để Ngài bước qua. Trách vụ ấy là của mọi chủ chăn, mọi tông đồ giáo dân trong nước Chúa.

Con người chẳng thể ban phát của Thánh được mà chỉ được coi là người thừa hành trợ tá thôi. Nước Thiên Chúa không phải do con người lập nên và lời Chúa không thể do con người suy tưởng ra được. Dẫu vậy, Thiên Chúa lại muốn dùng những tạo vật Ngài dựng nên để thực hiện các việc ấy và Ngài còn muốn con số tạo vật ấy phải thật nhiều: ‘Mùa màng nhiều, thợ gặt ít’.

Như thế, con người cũng có một vai trò khá quan trọng trong công việc của Chúa, phải xin Chúa ban cho thật nhiều ơn gọi: ‘vậy hãy xin chủ mùa sai thợ gặt đồng lúa của Ngài’. Đã hẳn, Chúa quá rõ việc thiếu các linh mục và thật sự thiếu. Vì nhiều người được gọi mà họ từ chối. Còn nếu bình thường mà vẫn thiếu thì hẳn là do giới trẻ không sống xứng đáng. Vì thế cần phải cầu nguyện cho ơn thiên triệu và như thế là đáp ứng đúng đòi hỏi của Chúa Giêsu.

Hai mặt của sứ điệp ban cho các môn đệ là: loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành tật bệnh. Vì thế mới có vấn đề lo cho phần hồn và săn sóc phần xác, đi đến với người mạnh và kẻ yếu, quan tâm đến phần tinh thần và cả đến những phần thuộc trần thế nữa. Và như thế, tức là để ý đến con người toàn diện và toàn thể nhân loại.

  1. Mệnh lệnh.

‘Này Ta sai các anh như chiên vào giữa sói’. Như vậy không phải là chuyện những con sói này đối địch với những con sói kia, hay một con sói phải đương đầu với bầy sói. Nhưng chính là con chiên vào giữa đàn sói. Chúng ta chẳng thể lấy sức đọ sức, dùng mưu đối mưu, bằng cách lấy sức mạnh của tiền tài và thế lực của các tổ chức, nhưng khí giới của ta là khí cụ bình an, khí cụ kiên tâm chịu đựng đau khổ và hy sinh.

Như thế, tỏ rõ cho ta thấy rằng linh mục ở trong thế gian như ‘chi thể xa lạ’, ‘một chiên giữa bày sói’ vừa xa lạ với những người khác, vì thế không thể gây chú ý. Giáo Hội luôn tỏ rõ là không quyền lực đối với các quốc gia, Giáo Hội sẽ được giải thoát, thật tuyệt vọng xét phía nhân loại, thật có cơ biến dạng, duy chỉ có uy lực và quyền thế của Chúa đỡ nâng.

‘Đừng mang ví tiền, bao bị, giày, dép’. Như thế là không có vấn đề bảo đảm, an toàn theo kiểu thế tục, cũng không có chuyện đề phòng dự liệu, trang bị cần thiết, tiên liệu những gì có thể xảy ra, võ trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huống trắc trở. Kết quả tinh thần không lệ thuộc vào những thành tố ấy cũng như những trở lực ngoại tại.

Con người phải đến với người anh em mình với thực chất của mình, thật đơn giản và chân thành, không băn khoăn bối rối, không rào trước đón sau. Tức là, con người sẽ chẳng là chi khác hơn dụng cụ của Thiên Chúa và được sử dụng như tính cách dụng cụ.

  1. Định mệnh.

Đức Giêsu nói đến sự được đón tiếp và bạc đãi. Tức là, sẽ có những người vì Nước Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận đức tin, và cũng có những người khác cố chấp và dễ dàng từ chối bằng tiếng ‘không’ khô cằn. Sự kiện từ chối ấy quả quá nặng đến nỗi Chúa phải quan tâm đặc biệt. Khi bị từ chối, môn đệ phải rút đi, và phủi chân khỏi bụi của nhà hay làng ấy. Tức là dứt khoát tuyệt giao với họ và tiếp tục lên đường. Họ sẽ tránh khỏi hình phạt và án xử hòng đến.

‘Ngày ấy, Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành ấy’, khi vinh quang Nước Thiên Chúa tỏ hiện trọn vẹn. Vì trách vụ của mình, môn đệ đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì những ai môn đệ đến gặp cũng được ở trong tay Chúa như thế, hoặc bị Ngài phạt hoặc được Ngài thưởng.

Các chủ chăn cũng như những giáo dân trợ tá, tất cả những ai đã cam kết phục vụ nước Thiên Chúa, thì đều phải dự đoán được những thành công và thất bại để luôn sẵn sàng với ‘ưng thuận đón tiếp’ cũng như ‘chối từ không nhận’. Thất bại không làm lung lay nao núng, khiếp sợ….

Vì thế, Đức Kitô đã cẩn thận tiên báo hết sức rõ ràng, với giọng điệu thật nghiêm nghị. Khi thi hành phận sự nước Chúa. Ai để mình thất vọng tức là đã không am hiểu Tin mừng.

Chúng ta không thể lấy mất sự lựa chọn khỏi các cá nhân; chúng ta phải đặt các cá nhân đó đối mặt với sự lựa chọn ấy, là chính sự lựa chọn có giá trị ngàn đời.

MÔN ĐỆ (10, 17-20)

Sự cao cả của các môn đệ được thể hiện dưới hai phương diện. Trước hết, đó là uy quyền họ được uỷ thác để thi hành nhiệm vụ mình: ‘Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỉ cũng phải luỵ phục chúng tôi’. Đức Kitô liền khẳng định: ‘Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng từ trời sa xuống. Nầy Ta ban cho các anh quyền dẫm lên rắn rít, bò cạp và trên mọi quyền năng kẻ thù và tuyệt nhiên không có gì làm hại các anh được’.

Môn đệ Chúa được chính Chúa nâng đỡ để phục vụ Ngài. Nếu Ngài chẳng tha phép, thì không một tai hoạ nào có thể phạm đến họ được. Vì thế Ngài có trách nhiệm và bổn phận phải lưu tâm đến đó. Tuy nhiên, không phải chỉ mình Chúa mà thôi, những cả những ai được Ngài dùng nhân danh Đức Kitô. Ngài có thể tránh cho họ khỏi ách thống trị của các hung thần, vì Ngài có quyền trên quỉ ma.

Thế giới quỉ ma là một thực tại vô hình. Satan là một uy lực thiêng liêng. Bởi thế quyền lực của các môn đệ Chúa không phải là cái từ bên ngoài đụng đến hay áp lực. Dẫu vậy, rõ ràng là những sự việc lại xẩy ra dưới hình thức hữu hình, khiến nhãn quan nhân loại có thể cảm nhận được. Ai chỉ tin vào sức mạnh của thân thể, chỉ tin vào thần tài, vào ảnh hưỡng chính trị, vào quân sư, vào hoàn cảnh xã hội, thì chẳng thể hiểu thực sự được các biến cố ấy.

Hoạt động của Giáo Hội được thực hiện theo chiều cao và sâu. Mà chỉ ở đời sau con người mới nhận ra được đặc tính đặc biệt và lạ lùng của uy quyền mà Chúa ban cho Giáo Hội. Tuy nhiên, sự việc được quyền lực ấy chỉ là cái thêm vào. Điều lớn lao hơn là: ‘Hãy vui mừng vì tên các anh đã được ghi trên trời’.

Điều làm cho các môn đệ vui mừng, có quyền tự hào và thực sự phấn khởi, không phải là sự lớn lao và sức mạnh của việc họ đã làm, nhưng là mầu nhiệm họ được lựa chọn. Nói tóm, con người chẳng thể tự mình định đoạt đời mình, mà là được chọn; được Chúa ban ơn cho cách nhưng không.

Những chọn lựa ấy ở giữa vương quốc tối tăm của Satan và vương quốc huy hoàng của Thiên Chúa. Kẻ được tuyển chọn, được làm con sự sáng. Không phải chỉ có hoạt động thôi, nhưng cả đời sống vượt khỏi những giới hạn hẹp hòi, thế trần. Danh tánh kẻ ấy ‘được ghi trên trời’. Bởi vậy, xét theo mục đích và bản chất, sự việc môn đệ được kêu gọi, quả là một sự cao cả đặc biệt.

 

32. Bình an đích thực.

Vào năm 1980, có một tuần báo nọ tại Hoa Kỳ đã đăng tải một sự cố sau đây: Một người vừa mua hàng trong siêu thị xong, trở lại xe mình thì ngạc nhiên nhìn thấy một tờ giấy để lại nằm ngay trên chỗ ngồi của người lái, trên đó có những dòng chữ viết vội như sau:

Thưa ông bà, tôi có ý định đánh cắp chiếc xe này, nhưng khi nhìn thấy lời chào chúc của ông bà gắn nơi tay lái: “Bình an của Chúa ở cùng bạn”, thì tôi bỗng dừng lại và suy nghĩ. Ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc tôi là nếu tôi đánh cắp chiếc xe này thì chắc chắn ông bà mất xe và không có sự bình an, tôi đây cũng sẽ không có sự bình an. Đây là lần đầu tiên tôi bước vào nghề ăn cắp xe.

Xin chúc ông bà và cho cả tôi nữa sự bình an của Chúa. Chúc ông bà lái xe an toàn và lần sau xin nhớ khóa cửa xe.

Ký tên: Người sắp trở thành kẻ trộm xe.

Câu chuyện nhỏ này làm chúng ta chú ý đến một trong những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi sai họ ra đi truyền giáo đến trước những nơi mà Chúa sẽ đi qua để chuẩn bị cho Chúa đến: “Vào nhà nào chúng con hãy chúc: Bình an cho tất cả mọi người trong nhà này”.

Chỉ một khẩu hiệu dán nơi tay lái chiếc xe: “Cầu chúc bình an” mà bỗng tác động biến đổi ý định xấu của một người không làm việc xấu xa nữa, thì thử hỏi nếu những đồ đệ của Chúa, chính chúng ta đây, nếu chúng ta thực sự trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an của Chúa đến cho anh chị em xung quanh mà ta thường gặp hằng ngày; nếu chúng ta thực hiện được điều này thì thử hỏi ta có thể đóng góp phần tích cực của mình cho sự bình an của anh chị em nơi môi trường chúng ta sinh sống biết là chừng nào.

Lời Chúa dạy cho các đồ đệ chúc “bình an cho nhà này” là tiếng vang trước cho lời chúc bình an của Chúa Giêsu Phục sinh trước khi sai các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa: “Bình an cho chúng con”. Chắc chắn khi nghe những lời chúc của Đấng Phục sinh: “Bình an cho chúng con”, các tông đồ nhớ lại lời dạy trước lúc Phục sinh của Chúa, khi Chúa sai các ngài đi thực tập trước công việc truyền giáo mà các ngài sẽ chu toàn sau biến cố Phục sinh: “Vào nhà nào, chúng con hãy cầu chúc: bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.

Chúa Phục sinh ban sự bình an thật cho các tông đồ, để các ông ra đi và đến phiên các ông, các ông cũng sẽ cầu chúc như Chúa đã chúc: “Bình an cho nhà này”. Các ông nói như Chúa đã nói, làm các công việc và những việc lạ như Chúa đã làm, hay đúng hơn theo như lời Chúa nói là hơn cả những gì Chúa đã làm nữa: “Bình an cho chúng con. Bình an cho nhà này”.

Ước gì mỗi người chúng ta được thật sự lãnh nhận ơn bình an của Chúa, ơn bình an mà Chúa đã phải chết trên thập giá để thực hiện cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Ước gì mỗi người chúng ta trước hết lãnh nhận ơn bình an đó của Chúa và để cho ơn bình an, ơn cứu rỗi thánh hóa, biến đổi chúng ta để rồi chúng ta có thể nói và làm như Chúa đã nói và làm “Bình an cho nhà này. Bình an cho chúng con”.

Người truyền giáo phải là kẻ nói những lời bình an, thực hiện những sự bình an, trao ban sự bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta cần kiểm điểm lại lời nói và việc làm của mình xem có phải là lời nói và việc làm như Chúa hay không? Đó là “Bình an cho anh chị em. Bình an cho nhà này”.

Chúng ta hãy đến lãnh nhận ơn bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an của Thầy”, để rồi chúng ta cũng có thể trao sự bình an đó cho anh chị em xung quanh.

Lạy Chúa, xin đừng chấp tội lỗi chúng con, nhưng xin thương ban bình an cho chúng con, cho Hội Thánh Chúa. Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân của sự bình an, trở thành khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, bình an cho anh chị em, bình an cho chúng con, bình an cho nhà này. Amen.

 

33. Người rao giảng

Chỉ có mình thánh Luca ghi lại việc sai phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho Chúa Giêsu đến. Điều này phù hợp với việc Chúa kéo dài cuộc hành trình trên đường về Giêrusalem. Công tác của họ chỉ trong một thời gian hạn định, nhưng trong lời huấn thị đưa ra cho họ, Chúa Giêsu đã đưa ra những nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thời. Trước hết Ngài tỏ cho biết lý do của sự lựa chọn họ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Trước khi thế gian nhận được sứ điệp họ mang tới, họ và những người kế vị họ phải tha thiết cầu nguyện với Chúa mùa gặt sai thợ đến. Đó là một lời cầu nguyện mà mọi kẻ phụng sự Chúa Kitô phải dâng lên tự đáy lòng mình. Lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa sẽ khiến chúng ta cố gắng hoàn thành công tác mau chóng hơn, và muốn được vậy cần phải có đông công nhân hơn.

Đối với người Do Thái, số bảy mươi hai là số biểu tượng. Đó là số các trưởng lão đã được lựa chọn để giúp đỡ lãnh tụ Môsê, với phận sự điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong sa mạc. Đó là số thành viên của Hội đồng quốc gia. Nếu số bảy mươi hai chỉ đoàn thể nào trong hai đoàn thể đó thì họ cũng là phụ tá cho Chúa Giêsu. Số đó cũng được coi như số các nước trên thế giới lúc bấy giờ. Luca là người có tầm mắt quốc tế, có lẽ ông đang nghĩ đến một ngày mà mọi nước trên thế giới sẽ nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu, như ông đang yêu mến Ngài vậy.

Đoạn Kinh Thánh cho ta biết mấy điều hết sức quan trọng về người truyền đạo cũng như thính giả.

1) Người rao giảng khi ra đi phải sẵn sàng chấp nhận sự hiểm nguy “như chiên giữa bầy muông sói”, nhưng họ cũng đừng để cho lòng bối rối vấn vương vào những sự thế tục. Sứ giả cần lên đường cách nhẹ nhàng.

2) Người rao giảng cần phải chú tâm vào bổn phận của mình, đừng phí thời giờ vào những nghi lễ lạt lẽo vô vị, nhưng phải ra đi như những con người được thúc giục bởi một động lực cao cả; “Người ấy không được chào ai dọc đường”; điều này nhắc lại lời tiên tri Êlisa bảo tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con đã chết: “Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại” (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.

3) Người rao giảng không nên làm việc để kiếm tư lợi. Người ấy nên ăn những món người ta dọn cho mình, không nên đi từ nhà này qua nhà khác cố ý tìm nơi dễ chịu hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Chẳng bao lâu sau khi Hội Thánh được thiết lập đã có những hạng người ăn bám. Cuốn “Giáo lý của mười hai tông đồ” được viết khoảng năm 100 là cuốn sách về trật tự Hội Thánh đầu tiên. Trong thời đó có những tiên tri đi lang thang từ thành này sang thành khác. Sách đã quy định rằng, nếu vị tiên tri nào muốn ở lại nơi nào lâu hơn ba ngày mà không có việc làm thì kẻ ấy là tiên tri giả, và nếu tiên tri nào xưng mình ở trong Thánh Linh mà xin tiền hay xin thức ăn thì kẻ ấy là tiên tri giả. Người thợ đáng lãnh tiền công, nhưng đầy tớ của Đấng chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê lạc thú.

Ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời thi hành sứ mệnh: “Hội Thánh nhân danh Thiên Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Đấng giờ đây đang thiết tha mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi của Người được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa Giêsu một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (Ph 2,5). Họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Ngài sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến. Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa Giêsu cộng tác vào cùng một công việc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người” (TĐ33).

Đức Kitô muốn thông ban cho các môn đệ lòng can đảm trong việc tông đồ nên khi Ngài nói “Ta sai các con” điều mà thánh Gioan Kim Khẩu chú giải: “Điều này đủ cho các ngươi được can đảm, điều này làm cho các ngươi được tin tưởng”. Các sứ giả được can đảm vì ý thức rằng mình được Thiên Chúa sai đi, như sau này Phêrô giải thích rõ ràng cho Thượng Hội Đồng ông hành động như thế nhân danh Đức Giêsu Nagiarét, “vì dưới gầm trời này không có danh nào khác khiến người ta được cứu rỗi”. Rồi thánh Grêgôriô Cả thêm vào để giải thích huấn thị của Chúa: Đừng mang bao bị giày dép, đừng chào hỏi ai dọc đường, Người rao giảng phải đặt niềm tin vào Chúa tới độ dầu không trang bị cho mình những nhu cầu để sống, vẫn xác tín rằng sẽ không thiếu. Thật thế, nếu Ngài bận tâm cho những sự thế tục, Ngài sẽ không thể ban phát chung quanh Ngài những sự trên trời. Truyền giáo đòi hỏi một sự hiến thân bao gồm sự từ bỏ, thế nên thánh Phêrô là người đầu tiên thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất ở Cửa Đẹp đền thờ: “Vàng bạc thì tôi không có”. Thánh Ambrôsiô thêm vào “không phải để phô trương sự nghèo khó, nhưng đúng hơn để vâng phục lệnh Chúa, dường như Ngài muốn bảo anh: Thấy tôi là một môn đệ của Đức Kitô mà anh lại xin tiền à? Chúng ta có thể cho anh ta cái gì còn có giá trị hơn vàng bạc nữa; quyền năng hành động nhân danh Chúa. Tôi không có cái mà Chúa Kitô không cho tôi, nhưng tôi có cái mà Ngài cho tôi: nhân danh Chúa Giêsu thành Nagiarét anh hãy dậy mà đi”. Do đó, việc truyền giáo đòi hỏi phải siêu thoát của cải vật chất, cũng như phải luôn luôn mau lẹ sẵn sàng vì công việc cấp bách.

“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Thánh Ambrôsiô tự hỏi “Sao lại thế? Chúa lại bỏ qua một việc xã giao thường tình? Nhưng phải để ý Chúa không bảo đừng chào ai nhưng bảo đừng chào ai dọc đường, không thừa đâu!

Khi tiên tri Êlia sai tên đầy tớ đi cứu giúp đứa con bà góa bằng cách để cây gậy của vị tiên tri trên đứa bé đã chết, ông cũng ra lệnh đừng chào hỏi ai dọc đường: Ông có ý bảo phải mau mau cứu bé sống lại, đừng để chậm trễ vì những người cùng đi đường với mình. Như thế không phải bỏ qua hết phép lịch sự xã giao, nhưng hạn chế những gì ngăn trở để việc phục vụ được mau lẹ. Khi Thiên Chúa đã bảo, điều gì thế tục phải tạm thời để qua một bên, chào hỏi nhau là tốt, nhưng tốt hơn là thi hành cho mau điều Chúa dạy vì chậm trễ có thể trở nên vô ích.

Về phần thính giả, lời Chúa hôm nay dạy rằng nghe lời Thiên Chúa là một trách nhiệm lớn. Người ta sẽ chịu phán xét theo những gì mình đã may mắn biết được. Chúng ta không chấp trách trẻ con điều mà chúng ta kết án người lớn, chúng ta tha thứ cho người man ri những thái độ, hành động mà nếu xảy ra nơi người văn minh thì bị trừng phạt. Trách nhiệm là mặt trái của đặc ân. Chối bỏ lời mời của Thiên Chúa là một tai họa. Ở một phương diện thì mỗi lời hứa của Chúa có thể thành lời buộc tội cho người nào nghe đến. Nếu người ấy tiếp nhận các lời hứa đó thì quả thật đó là sự vinh hiển nhất, nhưng nếu người ấy xén bỏ đi, thì một ngày kia, lời ấy sẽ là chứng cớ nghịch lại cùng người ấy vậy.

Bảy mươi hai môn đệ trở về với vẻ mặt sáng rỡ vì những chiến thắng đã dành được trong danh Chúa. Ngài nói với các ông một câu khó hiểu: “Ta thấy satan bị tấn công và nước Thiên Chúa xuất hiện”. Nó có thể có nghĩa là Chúa Giêsu biết rằng nhát đòn tử thương đã giáng xuống satan và các quyền lực của nó, tuy rằng chiến thắng cuối cùng có thể còn trì hoãn lâu.

Nhưng câu đó cũng có thể là lời cảnh báo cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị ném ra khỏi trời. Có thể Chúa Giêsu ngụ ý cùng bảy mươi hai môn đệ rằng: “Các ngươi đã thu hoạch được nhiều thắng lợi, hãy giữ mình kẻo sinh kiêu ngạo”. Chúa Giêsu luôn cảnh báo các tôi tớ Ngài về tội kiêu ngạo và quá tự tín. Quả thực họ được Chúa ban cho mọi quyền phép, nhưng vinh hiển lớn nhất của họ là được ghi tên vào sổ trên trời. Có một điều mãi mãi là sự thật, ấy là vinh hiển lớn nhất của con người không phải là những gì mình đã làm được, mà là những gì Chúa đã làm cho mình. Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào khác trong y khoa. Một hôm có người hỏi James Simpson: “Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông?” và mong đợi câu trả lời rằng: “Thuốc mê”, vì chính ông là người đã khám phá ra môn thần dược này. Nhưng Simpson đã trả lời: “Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Chuộc của tôi”. Tính kiêu ngạo đã cản đường lên thiên đàng, nhưng đức khiêm nhường là giấy thông hành để được gặp Chúa.

Chúa sửa sai thái độ của các môn đệ khi chỉ cho các ông lý do thật để vui mừng, đó là niềm hy vọng đạt nước thiên đàng chứ không phải trong quyền năng làm phép lạ, khi Người trao sứ mạng này cho các ông. Trong dịp khác, Chúa cũng cho một bài học tương tự (Mt 7,22-23). Trước mắt Chúa, thi hành ý Ngài quan trọng hơn là làm phép lạ.

 

34. Chúa Nhật 14 Thường Niên

“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Kitô giáo là ngôn ngữ của tình yêu mà Thiên Chúa đã nói qua người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa Cha, là Người Con Yêu Dấu, trong Chúa Giêsu, Đức Chúa Cha đặt trọn vẹn tất cả tình yêu thương của mình. Chúa Giêsu đến trần thế để mang tình yêu đó cho nhân loại (Ga 3, 16). Vì tình yêu luôn luôn đòi hỏi phải chia sẻ và ban phát, cũng như chính Chúa Giêsu đã tự ý hy sinh bản thân mình cho nhân loại, và mọi tạo vật đều được mời gọi tham gia chia sẻ vào sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Do đó, Chúa Giêsu không ước mốn sự gì khác ngoài việc nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa càng ngày càng lan rộng khắp mặt đất, giống như ngọn lửa cháy lan toả ra khắp nơi “Ta đến để ném lửa vào mặt đất, và ước mong lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12, 49)

Để ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng cháy lên trong tim mọi người, Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ đi vào thế giới để rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa với lời nhắc nhở: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Nầy Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10, 2-3). Các môn đệ đã được kêu gọi để chứng tỏ tình yêu trong mọi khía cạnh của đời sống chứng nhân của mình. Họ ra đi từng hai người một là dấu chỉ sự hiệp nhất của các môn đệ Chúa Kitô. Họ phải mời gọi và cầu xin Thiên Chúa ban thêm các tông đồ của tình yêu trên cánh đồng truyền giáo. Họ phải cố gắng bắt chước sự hiền hoà của con chiên để tha thứ và chấp nhận sự bạc đãi của sói rừng, ngay cả sự chết như thánh Gioan đã dạy: “Căn cứ vào điều này, đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3, 16). Giống như những môn đệ của Chúa Giêsu, sứ mệnh truyền giáo của chúng ta không phải là dùng sức mạnh của bạo lực để bẻ gẫy những con tim, nhưng chinh phục những con tim bằng cách làm chúng phải tự chảy mềm ra, mềm lại dưới ảnh hưởng của tình yêu Thiên Chúa (GLCG 2104-2109).

Khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu cũng cảnh giác họ rằng: “Ta sai các các con như con chiên ở giữa sói rừng” (Lc 10, 3). Sói rừng biểu tượng cho những quyền lực chống lại Tin mừng, những sự bắt bớ cấm cách, những thử thách, và những đối xử bất công. Thiên Chúa là Tình yêu, nhưng Ngài cũng rất công bằng chính trực. Quả vậy, Chúa Giêsu đã dặn các môn đệ: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” (Lc 10, 4). Nhiều người nghĩ rằng Ngài muốn đề cao sự nghèo khó của các nhà truyền giáo. Hiểu như thế cũng có ý nghĩa, nhưng đây không phải là ý của Ngài. Ngài dặn họ đừng mang theo vì chính những người đón tiếp các môn đệ có bổn phận phải cung cấp cho các ngài những thứ cần thiết này. Nói một cách khác, Chúa kêu gọi giáo dân phải rộng lượng và quảng đại đối với những người làm công cho Vương Quốc Thiên Chúa. Tư tưởng của Chúa Giêsu đã được giải thích rất rõ ràng trong câu 7: “Vì người thợ đáng được trả công” (Lc 10,7).

Nhân dịp suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cũng phải xét lại lương tâm của chúng ta trong việc đóng góp cho sứ mệnh truyền giáo và xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa (1 Cr 9, 16). Tư tưởng gia Jean Jacques Rousseau đã kể lại lời khuyên nhủ rất khôn ngoan cho chúng ta như sau: “Khi chết, mỗi người sẽ chỉ mang theo được trong lòng hai bàn tay nắm chặt cái mà người ấy đã cho đi” (1Tm 6, 7-9).

Trong Sứ Điệp Khánh Nhật Truyền Giáo 2003, ĐGH Gioan Phaolô II, số 4 có nói: “Qua phép Rửa Tội, tất cả các tín hữu được mời gọi nên thánh”. Trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái. Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bât khả phân ly của ơn gọi dành cho mọi người đã chịu phép rửa. Cam kết trở nên thánh thiện hơn đuợc liên kết chặt chẽ với sứ mạng truyền bá thông điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, đoạn 90, tôi đã nhắc lại rằng; “Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo”.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quảng đại đáp trả làm chứng nhân cho Chúa. Xin cho có nhiều tâm hồn quảng đại đáp lời mời gọi bước theo Chúa. Amen.

 

35. Người môn đệ

Nếu bây giờ tôi đặt câu hỏi: có khi nào chúng ta đã nghĩ tới bổn phận truyền giáo, bổn phận làm việc tông đồ hay chưa?

Chắc hẳn có người sẽ trả lời: Việc tông đồ, việc truyền giáo là bổn phận của các linh mục và tu sĩ, còn chúng tôi lăn lóc giữa đời, bận rộn với trăm công nghìn việc, còn thời giờ đâu đề nghĩ tới chuyện ấy.

Dĩ nhiên, sứ mạng chính yếu của các linh mục và tu sĩ là hoạt động tông đồ, dẫn đưa mọi người trở về cùng Chúa. Tuy nhiên, là người giáo dân, chúng ta cũng có bổn phận phải góp phần vào công cuộc trọng đại ấy.

Thực vậy, tin mừng hôm nay cho thấy ngoài mười hai tông đồ, Chúa Giêsu còn chọn thêm bảy mươi hai môn đệ và sai họ đi từng hai người một, đến những nơi chính Ngài sẽ tới. Ngài bảo các ông: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.

Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù sống bằng bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta vẫn có thể và phải góp phần vào công cuộc truyền giáo. Chúng ta có thể và phải là người tông đồ ngay chính giữa lòng cuộc đời của mình. Vậy chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào? Tôi xin thưa hãy truyền giáo bằng chính cuộc sống đạo đức và yêu thương của mình, bởi vì nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên một tin mừng sống động, một phản ảnh trung thực của Đức Kitô.

Trước hết bằng một cuộc sống đạo đức.

Tục ngữ Việt Nam đã bảo: cái nết đánh chết cái đẹp. Vẻ đoan trang thùy mị của chúng ta sẽ là một mối duyên ngầm, chinh phục được cảm tình của người khác. Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác. Đứng trước gương sáng của chúng ta, kẻ độc ác nhất cũng phải xúc động và đặt lại vấn đề. Có những người trở lại chỉ vì thấy một em nhỏ ngoan ngoãn, lễ độ và siêng năng tới nhà thờ tham dự thánh lễ. Có một thanh niên được mọi người yêu quí vì anh ta lịch sự, sẵn sàng giúp đỡ những người chung quanh bất cứ việc gì. Anh ta không phải chỉ tỏ ra mình là người công giáo, mà hơn nữa, anh ta còn sống niềm tin của mình. Nói cách khác, anh ta đã sống đạo và người ta có thể bảo: Hình ảnh Đức Kitô luôn phảng phất nơi anh ta..

Tiếp đến bẵng một cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương.

Thực vậy, bằng một đời sống đạo đức, chúng ta trở nên tông đồ của Chúa giữa lòng cuộc đời. Tuy nhiên, tinh thần đạo đức ấy phải được biểu lộ ra bên ngoài bằng những lời nói, những việc làm của chúng ta.

Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều cơ hội để dẫn đưa những kẻ lầm đừng lạc lối trở về cùng Chúa, để cứu vớt những linh hồn đang chìm sâu trong tội lỗi. Bằng lời nói chia sẻ và cảm thông, chúng ta có thể làm cho người khác khỏi cô đơn chán nản. Bằng lời nói an ủi và khích lệ, chúng ta có thể làm cho người khác khỏi bi quan tuyệt vọng. Bằng lời nói chân thành và xây dựng, chúng ta có thể làm cho người khác thoát khỏi chốn bùn nhơ tội lỗi. Bằng lời nói khuyên răn nhủ bảo, chúng ta có thể làm tông đồ cho Chúa trong gia đìnhminh cũng như trong môi trường mình đang sống. Có nghĩa là ở khắp mọi nơi.

Tinh thần đạo đức còn phải được biểu lộ qua những cử chỉ, những việc làm của chúng ta. Mấy người bạn tụ họp và trao đổi những câu chuyện thiếu đứng đắn, nếu bấy giờ có được thái độ nghiêm túc, chúng ta sẽ làm cho họ phải dừng lại. Khi người khác bài bác tôn giáo, chúng ta không được phép yên lặng, vì yên lặng khi phải nói là một tội cũng nặng như nói khi phải yên lặng. Trái lại, chúng ta hãy lên tiếng bênh vực đức tin, dù có làm mất lòng bè bạn. Trong trường hợp này, chúng ta không sợ ai cả, mà chỉ sợ một mình Thiên Chúa, như lời thánh Cyprianô: Hãy sợ Thiên Chúa và rồi chúng ta sẽ chẳng còn phải sợ một ai cả.

Một cô y tá có thể truyền giáo bằng thái độ ân cần, bàng nụ cười cảm thông, bằng ánh mắt khích lệ, bằng cử chỉ sẵn sàng giúp đỡ những người đau yếu. Và như vậy, chúng ta có thể dùng những hành động bác ái yêu thương để cảm hóa người khác, vì bác ái yêu thương là dấu chỉ chắc chắn nhất giúp người khác nhận ra khuôn mặt Đức Kitô.

Nếu không phải là một trong số mười hai tông đồ, thì ít nữa chúng ta cũng phải là một trong số bảy mươi hai môn đệ. Sứ mạng truyền giáo không phải chỉ là sứ mạng dành riêng cho linh mục và tu sĩ, nhưng còn là bổn phận chung của mỗi người chúng ta. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ địa vị nào, làm bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta cũng có thể và phải góp phần vào công cuộc truyền giáo, bằng một đời sống đạo đức và nhất là bằng những hành động bác ái yêu thương.

Ở Pêru có một loại cây rất ngộ nghĩnh, người ta bản xứ gọi nó là “cây làm mưa”. Lá nó hút hơi nước trong không khí, rồi nhỏ xuống như những giọt sương mai. Vì thế, chung quanh nó mặt đất lúc nào cũng ẩm ướt. Và trời càng nóng, thì nó càng nhỏ xuống nhiều nước.

Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên như một cây làm mưa hữu ích cho những người chung quanh đang khô khan. Bằng đời sống đạo đức, chúng ta hút lấy ơn sủng của Chúa, để rồi bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta gieo vãi ơn sủng ấy cho những người chung quanh.

Chúng ta sống đức tin, để rồi nhờ đó chúng ta làm cho đức tin sống lại trong tâm hồn người khác. Đồng thời, khi làm cho người khác sống đức tin, thì đức tin của chúng ta sẽ trờ nên mạnh mẽ hơn. Cũng vậy, muốn được hạnh phúc, thì chúng ta hãy cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc. Niềm hạnh phúc chúng ta làm cho người khác sẽ trở lại với chúng ta và làm cho chúng ta được hạnh phúc hơn.

 

36. Truyền giáo bằng đời sống

Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.

Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestine để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời, Ngài cũng đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong sứ mạng cao cả ấy.

Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như không đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:

– Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.

Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết này vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận Chúa mới chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17% dân số trên thế giới.

Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa cũng muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có nghĩa là, chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo hội được phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng Tin Mừng.

Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông đồ các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín… Thế nhưng, hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống, bằng chính gương sáng của chúng ta.

Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương pháp này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.

Mẩu chuyện thứ nhất đó là có một người Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh thiện, bèn tìm đến xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã thấy được những gì, thì ông trả lời:

– Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người.

Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo hội Công giáo.

Mẩu chuyện thứ hai đó là có một người khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy một cô bé đang dẫn mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô bé. Thấy nét mặt trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực sự xúc động, và rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.

Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy được sức cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:

– Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo.

Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:

– Gương sáng chính là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.

Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như lời Chúa đã phán:

– Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì nhờ các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để rồi cũng sẽ tin nhận Ngài.

Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa, đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì? Tôi xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.

 

37. Chọn lựa các môn đệ – Veritas.

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc đời của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít, và do đó, người đó trước sau vẫn y nguyên như vậy, không có gì thay đổi và có rất ít cả thể để tìm gặp kẻ đó đang tìm kiếm. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì. Để gặp được điều ta tìm kiếm thì điều kiện phải có là biết từ bỏ hoàn toàn, lừng chừng thỏa hiệp nửa vời sẽ mang đến tàn phá mà thôi.

Nếu những dòng diễn tả trên diễn tả đúng cho cuộc sống theo lý tưởng nào đó thì nó lại càng đúng hơn nữa cho cuộc sống của người đồ đệ của Chúa mà bài Phúc âm hôm nay muốn nhắc lại cho chúng ta một vài đặc điểm.

Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, đặc điểm nổi bật nhất dĩ nhiên phải là sự từ bỏ, để lại đàng sau nhiều điều, nếu không muốn nói là tất cả mọi điều, để chỉ có Chúa và sự công chính của Chúa trước hết. Ai muốn mang theo mọi sự với mình thì sẽ để lại rất ít. Rất ít có cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Người sống ích kỷ muốn mang theo tất cả mọi sự cho mình thì sẽ để lại rất ít, nhất là khi chết rồi thì chẳng còn gì và sẽ có rất ít cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Sẽ có rất ít cả thể để theo Chúa cho đến cùng, để sống trọn vẹn cuộc đời theo Chúa.

Chúa Giêsu ý thức rõ ràng cuộc đời của môn đệ gặp nhiều thử thách. Ngài sai các ông ra đi như chiên vào giữa sói rừng, nhưng Chúa vẫn đòi hỏi môn đệ phải có thái độ từ bỏ những an toàn của con người và do con người tạo ra, đó là tiền, bao bị, giầy dép và liên lạc xã giao thường tình. Chúa sai các ngài ra đi với lời căn dặn: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là những điểm nói lên sự an toàn của con người, do con người tạo ra và Chúa muốn cho những đồ đệ của Ngài ra đi làm những công việc của Ngài, không ỷ lại vào những sự an toàn của con người, do con người tạo ra.

Thật là những lời khuyên, những mệnh lệnh, xét theo thường tình con người thì rất là ngược đời, nếu không muốn nói là không khôn ngoan chút nào hoặc không thể thực hiện được. Nhưng Chúa Giêsu giõng dạc thay đổi nhằm đến một thái độ từ bỏ, không ỷ lại vào những sự an toàn của cuộc sống.

Một nhà truyền giáo tương lai sắp sửa lên đường viết thơ cho vị giám mục như sau để hỏi về những điều cần thiết cho cuộc sống của mình trước khi lên đường đến nhận nhiệm sở, nhà truyền giáo đó hỏi:

– Có xe để di chuyển không?

– Nhà ở có máy lạnh không?

– Có người giúp nấu cơm cho ăn hay không?

– Trong nhà có tủ lạnh hay không?

– Có tiền lương mỗi tháng bao nhiêu?

– Có được đi nghỉ hè mỗi năm không? v.v…

Dĩ nhiên nhà truyền giáo đó muốn cho mình mọi sự an toàn trước khi dấn thân. Nhà truyền giáo đó đã nhận được thơ trả lời rất nhanh của vị Giám mục yêu cầu đừng đến làm việc truyền giáo nơi giáo phận của ngài nữa.

Phải chăng, chính bản thân chúng ta cũng dễ dàng bị cám dỗ bởi những đòi hỏi tiện nghi vật chất cho cuộc đời theo Chúa của mình. Muốn có thật nhiều thì rốt cuộc chẳng có bao nhiêu. Đó là về thái độ sống của người đồ đệ của Chúa.

Về nội dung sứ điệp rao giảng thì sao? Chúa Giêsu căn dặn các đồ đệ trong bài Phúc âm hôm nay: “Vào nhà nào chúng con hãy nói bình an cho nhà này”. Lời này loan báo trước lời chúc bình an của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi Chúa Phục sinh hiện ra cho các ông và sai các ông ra đi mang bình an của Chúa đến cho mọi người. Lúc đó, Chúa hiện ra cho các môn đệ và nói: “Bình an cho các con”.

Được huấn luyện, được thực tập trước để rao giảng sự bình an cho anh chị em mình, nên chắc chắn khi ban bình an cho các môn đệ, các môn đệ sẽ hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa về hệ quả của lời chúc bình an này mà Chúa đã phải chết trên thập giá để mang đến cho các ông.

Nhận sự bình an của Chúa, các môn đệ được sai đi chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Nhưng nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình và những điều trần tục, những sự an toàn ích kỷ này thường là những điều gây chia rẽ, xung đột, bất hòa giữa cá nhân với nhau, đó là nói trên bình diện nhỏ và nếu nói trên bình diện lớn thì sẽ gây chiến tranh giữa các quốc gia.

Nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình thì làm sao có thể chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em được. Ai muốn mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất ít và rất ít để tìm gặp điều mình mong muốn. Một người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì cả.

Lời Chúa hôm nay còn muốn nói với chúng ta nhiều điều khác nữa, nhưng ít ra trong giây phút này chúng ta hãy xét mình lại về hai điểm vừa được gợi ra cho chúng ta đó là: Thái độ từ bỏ mọi sự để theo Chúa không ỷ lại vào sự an toàn của con người, nhưng cần nghĩ đến sự quan phòng chăm sóc của Chúa cho đời sống của mình. Và điểm thứ hai là chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tâm hồn chúng ta, để chúng ta có được đầy tràn sự bình an của Chúa, qua đó chúng ta có thể chia sẻ sự bình an ấy cho anh chị em. Chúng ta đến cử hành thánh lễ và trong thánh lễ trước khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta được mời gọi nhớ lại lời hứa bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an, bình an mà thế gian không thể ban cho”.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sự bình an này và gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

 

38. Tử tế

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới. Thế giới có khoảng sáu tỉ người, mà những người tin Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới nhưng người Công giáo chỉ có không tới 3%. Có thể là đất nước Việt Nam chúng ta gần 80 triệu người, mới có khoảng trên 10 triệu người Công giáo. Vẫn còn biết bao người chưa biết Chúa. Có thể là giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, gia đình, nơi chúng ta sinh sống, làm việc… Vậy ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy?

Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng, nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng không phải chỉ dành riêng cho nhóm 12 là các tông đồ, nhưng cho số đông những người theo Chúa. Đối với chúng ta hôm nay, việc rao giảng Tin Mừng cũng không phải là bổn phận của một số thành phần nào trong Giáo Hội như Giám mục, linh mục hay tu sĩ, nhưng là bổn phận của những người tin theo Chúa, tức là của mọi người và mỗi người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Như vậy, thợ gặt là tất cả chúng ta.

Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô hữu được trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao cho một cây nến sáng được châm lửa, được thắp sáng từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô là ánh sáng. Anh sáng ấy đến thế gian để chiếu rọi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh Bí tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật. Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung quanh bằng cách sống trong ánh sáng.

Như vậy, ngay từ lúc được rửa tội, ngay từ lúc tiếp nhận ánh sáng, thì người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng lãnh nhận sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là đèn sáng, là người được sai đi, sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt màu da, tiếng nói, tín ngưỡng, địa vị xã hội… Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng được sai đi; ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng khẩn thiết, như Chúa đã nói: “Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói”, bởi vì “Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, chỉ những ai bệnh tật mới cần”. “Ta không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời những người bất lương ăn năn trở lại”.

Tuy nhiên, công việc rao giảng không chỉ là của con người nhưng là của chính Chúa, Ngài là chủ và là người quản lý. Chính vì vậy nên khi sai các môn đệ đi rao giảng Ngài không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho các môn đệ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả. Phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người. Việc sống tử tế này không chỉ đối với những người có hoàn cảnh và điều kiện tốt, nhưng là một đòi hỏi cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu Việt Nam chúng ta đang sống trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn và chưa lấy gì làm sáng sủa của đất nước. Đây cũng là điều chúng ta đặc biệt lưu ý hôm nay.

Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên là “Đại Dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế?”. Nhà đạo diễn đã trả lời: “Điều người ta mong đợi ở các người Kitô Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”.

Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi người Kitô chúng ta.

Có người đã nói lên một sự thật đau lòng như sau: “Chữ tử tế” bây giờ chỉ thấy ở miệng những người có tuổi hoặc những người hơi xưa. Thời bây giờ mấy ai còn thì giờ để luận bàn những chuyện xa xôi ấy”. Thật là một lời cảnh báo đáng cho chúng ta suy nghĩ. Người tử tế dường như đã trở thành loại người quí hiếm trong xã hội. Và khi lòng tử tế đã trở thành quí hiếm thì dĩ nhiên là những hành động không tử tế chút nào lại càng gia tăng với cấp số nhân. Đọc báo chí hàng ngày chúng ta thấy đầy dẫy những hành động không chút tử tế ấy.

Sống cho tử tế, sống cho ra người là điều cần thiết và quan trọng cho cá nhân cũng như xã hội. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Tử tế thực sự không phải là có tiền hoặc muốn là có được ngay. Nó cũng phải được học hành, được dạy dỗ, được tập luyện, kế thừa và gìn giữ. Tử tế như hoa thơm, hoa đẹp, không thể thiếu được của cuộc đời.

Một người bạn của đạo diễn Trần văn Thủy, trước khi chết vì bệnh ung thư đã nói: “Tôi chả có gì phải hối tiếc vì chúng ta đã sống tử tế với nhau”. Lời phát biểu gợi cho chúng ta niềm vui ngập tràn của 72 môn đệ Chúa sau khi đã hoàn thành công tác được giao phó. Đó là niềm vui của các tông đồ chân chính, là niềm vui của những ai dám sống tử tế trong một xã hội không lấy gì làm tử tế và đó chẳng phải là niềm vui của những người Kitô chúng ta sao?

Xã hội chúng ta đang xuống cấp về mọi mặt, nhất là mặt đạo đức, đó là thực tế không thể chối cãi. Nhưng “Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Tất cả những điều chia sẻ trên đây mong ước gợi lên cho mọi người một suy nghĩ: trước khi nghĩ đến những công việc truyền giáo to lớn rầm rộ, chúng ta cần chú ý đến những việc nhỏ bé đơn giản, đó là thắp một ngọn nến, tức là thắp một tia hy vọng cho người tuyệt vọng, mang bình an cho người đau khổ, mang tình yêu đến cho người bị bỏ rơi… chúng ta làm được những việc đó không?

 

39. Sứ giả

Một vị vua hoặc ông chủ tịch của nước Việt Nam chúng ta muốn sang thăm một nước nào đó thì phải làm gì đây – vị vua hoặc ông chủ tịch nước sẽ cử sứ giả hoặc đại sứ sang nước đó báo tin cho họ hay.

Cũng thế Tin Mừng hôm nay mà chúng ta vừa nghe cho thấy Chúa Giêsu muốn đến các thành, các nơi mà Chúa định đến nên Chúa đã làm hai việc là chọn 72 môn đệ làm sứ giả cho Ngài, và trao cho các ông nhiệm vụ đến đó loan báo Tin Mừng bình an của Chúa.

Với việc tìm hiểu đoạn Tin Mừng này chúng ta sẽ nhận ra Chúa muốn nói gì với mỗi người chúng ta trong thế giới hôm nay.

Chúa Giêsu quyền năng đã biết trước và nhận thấy rõ số người sẵn sàng đón nhận Chúa rất nhiều. Nhiều đến nỗi mà Chúa đã ví họ như cánh đồng lúa trổ bông chín vàng mà lại có ít thợ gặt. Vì thế cho nên Chúa mới nói: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” và Chúa đề nghị các môn đệ hai nhiệm vụ:

Nhiệm vụ thứ nhất là cầu nguyện. Thiên Chúa là ông chủ của mùa gặt, Thiên Chúa có quyền quyết định những ai được vào Nước Trời. Vì thế, Chúa kêu gọi các môn đệ cầu nguyện để xin Thiên Chúa khơi lên trong lòng con người tinh thần làm môn đệ Chúa, sẵn sàng làm sứ giả của Chúa.

Nhiệm vụ thứ hai là “Hãy ra đi loan báo Tin Mừng bình an”. Cầu nguyện chưa đủ nhưng còn phải lên đường ra đi loan báo Tin Mừng bình an. Trước khi đi Chúa Giêsu căn dặn rất kỹ:

Hành trang phải nhẹ tênh: không túi tiền, không bao bị, không giày dép để thực sự trở nên nghèo khó như Chúa Giêsu. Công việc thì cấp bách nên đừng chào hỏi ai dọc đường. Đến nơi đâu thì đầu tiên phải nói lời chào thân thiện “Bình an cho nhà này”. Đây không phải là bình an mà thế gian ban tặng dựa trên của cải vật chất, danh vọng… nhưng là bình an mà bài đọc I tiên tri Isaia đã loan báo Thiên Chúa sẽ ban cho Giêrusalem: “Này Ta đổ hòa bình tuôn xuống thành đô khác nào dòng sông cả, khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ…”. Bài đọc II cho biết: Bình an đó là chính Đức Kitô đã đến trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc khổ nạn thập giá, dẫn đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Một thái độ phải có là khiêm tốn, siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu. Một công việc phải làm là chữa lành bệnh tật những người ốm đau. Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui là “Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em”. Tuy nhiên, cũng phải đón nhận sự tự do từ chối của người ta nhưng cũng phải loan báo cho người ta biết rằng “Nước Thiên Chúa đã đến gần”.

Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là câu chuyện cách đây hơn 2000 năm, nhưng thử hỏi đến lúc này Tin Mừng đã có bao nhiêu người được đón nhận.

Thế giới có trên 6 tỷ người mà những người tin vào Thiên Chúa chỉ mới có 1 tỷ, và cũng có những người có đạo nhưng không sống đạo. Riêng tại Á Châu, trong 100 người thì còn hơn 97 người chưa biết Chúa. Và chúng ta phải suy nghĩ lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu là “Một điều thật bí ẩn là tại sao Đấng Cứu Thế sinh ra tại Á Châu, mà cho tới bây giờ phần lớn châu lục này vẫn không biết Người”. Thử nhìn ra trong khu xóm hoặc xung quanh chúng ta, còn bao nhiêu người chưa biết Chúa. Chắc chắn là đông như cánh đồng lúa chín mà Chúa đã nhìn thấy trước rồi phải không.

Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu “Hãy trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng bình an” cho mọi dân tộc, đặc biệt là dân tộc Á Châu vẫn luôn vang dội trong tâm hồn mỗi chúng ta, và càng khẩn thiết hơn khi bước vào ngàn năm thứ ba. Cùng với Hội thánh chúng ta “Hãy ra khơi” trở nên những sứ giả loan báo Tin Mừng bình an. Trong giới hạn của đất nước Việt Nam chúng ta, Chúa sẽ mời gọi mỗi người đi loan báo Tin Mừng mỗi cách khác nhau.

Thông thường chúng ta nghĩ việc loan báo Tin Mừng chỉ dành cho các Giám mục, Linh mục, Phó tế và tu sĩ nam nữ, mà quên đi rằng ngay từ lúc lãnh nhận Bí tích Rửa tội mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng bình an rồi.

Cầu nguyện mỗi ngày và đóng góp quỹ truyền giáo hằng năm vào lễ “Khánh nhật truyền giáo”.

Sống chứng nhân nơi mình đang sinh sống, làm việc trung thực trong mọi hoàn cảnh, chia sẻ những khó khăn, nếu có thể được thì thăm viếng an ủi, đem tình thương và bình an cho những người ốm đau bệnh tật, nghèo khổ và cô đơn…

Nếu thực hiện được như thế thì chúng ta đã và đang loan báo Tin Mừng bình an rồi đó và tên của chúng ta đã được Chúa khắc ghi.

Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa, chúng ta phải sống làm sao để nên như sứ giả loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Điều đó, Chúa Giêsu vẫn đang nhắc nhở mỗi người chúng ta nhất là khi tham dự thánh lễ là lúc chúng ta đón nhận bình an từ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu ở lời chào đầu lễ của chủ tế, rồi chúng ta lại trao bình an đó cho nhau lúc “chúc bình an” và cuối thánh lễ chủ tế xướng lên “lễ xong chúc anh chị em ra đi bình an” đó là lúc chúng ta nhận sứ mạng mang bình an đó cho mọi người.

Ước gì lời Chúa hôm nay qua việc Chúa chọn 72 môn đệ làm sứ giả cho Ngài là động lực nhắc nhở mỗi người chúng ta một lần nữa “Hãy trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng bình an”.

 

40. Tất cả những người cô đơn

Tôi xin được trích một phần của bản nhạc “Eleanor Rigby” từ thời 1966 của ban nhạc Beatles:

Ôi, hãy nhìn những con người cô đơn: Eleanor Rigby đang lượm những hạt gạo ở trong nhà thờ sau một đám cưới, và sống trong mơ mộng… Những người cô đơn đến từ đâu vậy? Những người cô đơn ở đâu vậy?

“Eleanor Rigby” đã làm một phần của phong trào âm nhạc hiện thời mà có thể giúp cho người nghe không thể nào mà không mủi lòng, và nó đã gây ảnh hưởng rất nhiều cho giới trẻ. Bản nhạc đó vẫn còn đánh vào tim đen của con người. Nó vẫn còn đặt ra một câu hỏi, “Thế nào là một con người hoàn thiện?” Nhìn xung quanh, chúng ta thấy rất nhiều người đang phải đương đầu với nhiều vấn đề. Tận thâm tâm của mỗi người đều đang dâng lên một câu hỏi, “Đi đâu để tìm một cuộc sống hạnh phúc?” “Ai có thể chỉ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc?” Không ai giàu có mà mãn nguyện cả. Người nghèo phải chiến đấu để mà sống. Còn những người thuộc vào cấp trung lưu thì có cả đến ngàn cuốn sách đã ghi về cuộc sống buồn chán của họ. Nếu thật sự cả ba giới trong xã hội đều là như vậy thì con người có thể nào tìm được hạnh phúc không?

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta một đầu mối quan trọng cho câu hỏi ở trên. Thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã chọn 72 tông đồ và sai họ đi vào các thành để chuẩn bị cho dân chúng ở đó đón tiếp Ngài. Nhiệm vụ của họ chính là nói cho dân chúng biết Chúa Giêsu đang đến với một sứ mạng cao cả. Chúa Giêsu được sai đến từ Thiên Chúa. “Hãy chữa những người bệnh tật”, và nói cho người ta biết rằng “Nước Thiên Chúa đã đến gần,” Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ (Lc 10:9). Đồng thời Chúa Giêsu cũng căn dặn các tông đồ những điều các ông nên làm và không nên làm. Các tông đồ ra đi và thâu lượm được nhiều kết quả, và các ông thuật lại cho Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỉ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10:17). Chúa Giêsu trả lời họ, “Anh em chớ mừng vì quỉ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10:20). Phần đầu tiên của câu Phúc Âm vừa rồi không có gì khó hiểu cả. Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ của Ngài rằng đừng sống dựa vào những cái vinh dự mau qua. Cái vinh dự trừ quỉ hoặc làm được những phép lạ này nọ, đó chính là điều mà con người chúng ta thường hay bám vào. Chúng ta thường bám vào những cái gì là vinh quang chóng qua ở đời này.

Phần thứ hai không phải là một điều dễ hiểu khi Chúa Giêsu nói tên các con được ghi ở trên trời.

“Các Mối Phúc Thật”, như các bạn đã biết đó là những lời mở đầu của Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu, là một danh sách ngắn những điều thỏa nguyện. Đáng tiếc thay, rất nhiều người đi tìm hạnh phúc mà không phải đi theo lối của các mối phúc thật. Vấn đề là ở chỗ họ đã quá tập trung vào những cái không được làm cái này cái nọ mà đã đưa đến việc kết luận là những điều Chúa Giêsu thì chỉ là mơ hồ và không thể nào đạt nổi. Họ có thể quên hoặc không biết rằng sứ điệp của Chúa Giêsu không phải là, “Nếu con yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ, và đưa má bên kia, thì con sẽ được hạnh phúc.” Ngược lại, những người được chúc phúc và hạnh phúc sẽ yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ bắt bớ họ, và đưa má bên kia. Nói một cách khác, không phải, “Nếu anh đã có vợ, và nếu anh không đi ngoại tình thì anh là người được hạnh phúc.” Nhưng là, “Nếu anh đã có vợ và sống dựa trên Lời Chúa, anh là người hạnh phúc, và anh sẽ không đi theo người đàn bà khác.”

Mối phúc thứ nhất trong 8 Mối Phúc Thật là phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó. Điều đó có nghĩa là những ai có tinh thần nghèo khó mà biết rằng mình thiếu thốn. Khi họ nhận biết được điều đó, họ phải biết cậy trông vào Chúa để nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó bởi vì họ sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể làm cho lòng họ được thỏa nguyện.

home Mục lục Lưu trữ