Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 121
Tổng truy cập: 1425637
THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: “Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.
Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
“Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov)
Suy Niệm 2. SỰ BỘC LỘ TÂM HỒN
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự trống rỗng của tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
57.Người con trai đi hoang
Dụ ngôn “Người con trai đi hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.
Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi…
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.
Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:
1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.
Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.
2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.
“Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và “thêm giá trị”. Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II, DM6).
Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ “thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy” (DM 6)
Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam