Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 47
Tổng truy cập: 1435405
THẦY BẢO CHO ANH EM BIẾT
THẦY BẢO CHO ANH EM BIẾT
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)
Suy Niệm
Thiên Chúa là một nhà giáo đầy kinh nghiệm. Ngài đòi hỏi con người phải vươn lên, vươn cao lên mãi, nhưng Ngài không đòi hỏi điều vượt quá khả năng của họ.
Khi ban Mười Điều Răn cho dân Israel, qua ông Môsê, Ngài đưa họ ra khỏi tình trạng sống theo luật rừng. Luật Môsê là một tiến bộ lớn trong nền luân lý, nhưng vẫn chỉ là bước chuẩn bị cho luật của Đức Giêsu.
Luật mới này không phá bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.
Kitô hữu không chỉ xét mình theo Mười Điều Răn, mà hơn nữa còn xét mình theo tinh thần Bài giảng Trên núi. Lời của Chúa Giêsu phải là thước đo để ta xét mình. Có khi nào bạn tự kiểm dựa trên một đoạn Tin Mừng không?
Đoạn Tin Mừng hôm nay mời ta nhìn lại miệng và mắt, hai giác quan dễ được dùng để phạm tội.
Miệng là nơi phát xuất những lời lăng mạ, dối trá. Lời nói biểu lộ tâm hồn con người: lòng có đầy mới tràn ra miệng (x.Mt 12,34). Khi đêm về, nhìn lại những gì mình đã nói, ta thường thấy có rất ít yêu thương và sự thật, nhưng lại đầy ắp cái tôi ích kỷ, lọc lừa.
“Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng làm chủ được toàn thân (Gc 3,26).
Mắt là cơ quan tiếp thu thế giới bên ngoài. Mắt không chỉ là cửa sổ, mà là cửa chính của tâm hồn. Các cơn cám dỗ thường qua cửa đó mà đến với ta.
Mắt thích nhìn cái đẹp. Eva nhìn trái cấm, Đavít thấy người phụ nữ khỏa thân.
Cái nhìn đem lại khoái lạc và thổi bùng lên ngọn lửa thèm muốn, khiến người ta dám làm chuyện trái luân thường đạo lý.
Chúng ta đang bị bao vây trong một thế giới đầy hình ảnh. Tivi, phim ảnh, sách báo, video, thời tranh, quảng cáo... tất cả tìm cách lôi cuốn cái nhìn của ta, kích thích khoái lạc nơi con mắt và cả thân xác.
Những điều cao quý và thiêng liêng như thân xác, như đời sống thầm kín vợ chồng lại bị trở thành tầm thường, dung tục. Tình yêu chỉ còn là vội vã chiếm đoạt thân xác nhau trong cơn mê say nhất thời, chứ không phải là sự trân trọng hiến dâng chính mình trong một quyết định chín chắn và đầy trách nhiệm.
Đức Giêsu nói đến thứ ngoại tình do cái nhìn thèm muốn.
Làm sao tôi giữ được đôi mắt trong suốt của trẻ thơ?
Làm sao để trí tưởng tượng và trí nhớ không bị vẩn đục?
Làm sao để tôi nhìn người phụ nữ như chị, em của tôi?
Làm sao để chính người phụ nữ không tự biến mình thành đồ chơi để người khác ngắm nghía?
Gợi Ý Chia Sẻ
“Thành thật thường thua thiệt”, bạn có thấy điều đó đúng không? Bạn có nghĩ rằng thành thật là đức tính nền tảng cho mọi tương quan giữa người với người không?
Nơi giới trẻ đã có nhiều biểu hiện của sự trụy lạc, sa đọa. Bởi đâu có những tệ nạn như thế? Giới trẻ công giáo đóng góp gì để bầu khí xã hội được thanh khiết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và that vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
2.Còn Thầy, Thầy bảo anh em…
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Người Do-thái coi trọng Luật Chúa đã ban cho ông Môsê,
từ núi thánh Xinai, giữa mây mù, khói lửa và sấm chớp (Xh 19,16-19).
Ông Môsê được Chúa sai làm người phát ngôn cho Ngài.
Ông có đủ thẩm quyền để giải thích Luật Chúa cho dân Ítraen,
vì ông là người đã lên núi gặp Chúa, đã nhận Luật chép trên bia đá,
và đã ở lại trên núi bốn mươi ngày đêm (Xh 24,18; Đnl 9,9).
Tuy nhiên, Đức Giêsu hẳn làm các môn đệ ngỡ ngàng
khi Ngài tuyên bố: Anh em đã nghe ông Môsê nói như thế này
với dân Ítraen ngày xưa, để giải thích cho họ về Luật Chúa.
Ngày nay, Thầy cho anh em một cách giải thích khác về Luật.
Hãy sống theo giáo huấn mới mẻ của Thầy.
Quả thật, Đức Giêsu có uy quyền hơn ông Môsê nhiều.
Môse chỉ là một thụ tạo gần gũi Thiên Chúa trong một thời gian,
Còn Đức Giêsu là Con Một luôn ở trong lòng Thiên Chúa Cha (Ga 1,18).
Vì thế Ngài biết rõ và truyền đạt trung thành ý muốn của Thiên Chúa.
Thầy không đến để bãi bỏ Luật mà Thiên Chúa đã ban qua ông Môsê,
Thầy đến để kiện toàn, và làm cho Luật ấy được nên trọn (Mt 5,17).
Đức Giêsu đã kiện toàn Luật Môsê bằng những đòi hỏi nội tâm.
Ngài không ngừng lại ở hành vi bên ngoài,
Ngài đòi chúng ta đi vào bên trong trái tim mình.
Không giết người bằng gươm dao, chưa đủ.
Còn cần tránh cả sự giận dữ vốn là cội rễ của tội sát nhân (1 Ga 3,15),
hơn nữa cần tránh cả những lời nói nhục mạ kẻ khác (Mt 5,21-23).
Không ngoại tình với vợ người khác, chưa đủ.
Còn cần tránh cả ngoại tình trong cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt,
đó là thứ ngoại tình không ai biết, vì nằm tận trong tim (Mt 5,28).
Đức Giêsu còn đưa ra những đòi hỏi tận căn về việc giữ Luật.
Ngài đòi để lễ vật lại trước bàn thờ để đi làm hòa với anh em,
không phải với người anh em mà chính mình đang bất hòa,
nhưng với người anh em đang gây cho mình nhiều rắc rối.
Phải làm hòa trước đã, rồi mới dâng lễ sau (Mt 5,23-24).
Hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa đòi hiệp thông trước với anh em.
Bằng lối nói cường điệu, Đức Giêsu đòi người môn đệ
phải dứt khoát tránh dịp tội, tránh cớ làm cho mình sa ngã.
Thà bỏ đi một phần quý giá như mắt phải hay tay phải,
còn hơn là toàn thân phải chịu hư mất đời đời (Mt 5,29-30).
Chúng ta không nên hiểu câu nói trên theo nghĩa đen,
nhưng lại không được quyền làm yếu đi sức mạnh của hình ảnh ấy.
Đức Giêsu đã dám đưa ra một giải thích khác với Môse về ly dị.
Ngài không coi ly dị là chuyện được phép.
Người đàn ông thời đó có nhiều tự do để ly dị vợ,
lắm khi chỉ vì một lý do cỏn con.
Ngài cho thấy mình biết rõ ý định ban đầu của Thiên Chúa (Mt 19,4),
nên Ngài cương quyết bảo vệ tính bất khả phân ly của hôn nhân.
Bài Giảng trên Núi của Đức Giêsu vẫn có tính thời sự,
vì chạm đến những vấn đề nóng bỏng ngày nay của chúng ta:
thù hận, giết người, ngoại tình, ly dị, thiếu trung thực…
Chỉ khi sống những giáo huấn của Đức Giêsu một cách nghiêm túc,
chúng ta mới giải quyết được những vấn đề lớn của thế giới.
Chỉ khi để cho tình yêu thấm vào mọi tương quan,
chúng ta mới thực sự là người mở lòng đón lấy Nước Trời.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau.
3.Sống theo sự thật
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần thế. Lý tưởng sống của người tín hữu là chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố: Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ việc chuyên chăm thực hiện giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta có thể sống theo sự thật và nên hoàn hảo trong cuộc đời trần thế, là bảo đảm hạnh phúc Nước Trời.
Tự bản chất, con người dễ dàng dối trá với người khác và dối trá với cả chính mình. Vì dối trá, người ta sẵn sàng xúc phạm đến tha nhân, thậm chí xúc phạm cả Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Bài Tin Mừng hôm nay là tổng hợp nhiều nội dung giáo huấn, nhằm giúp con người sống ngay thẳng trước mặt Chúa và đối với anh chị em đồng loại. Trong giáo huấn này, Chúa khuyên chúng ta, lòng bác ái trung thực đối với tha nhân còn quan trọng hơn của lễ dâng cho Chúa. Chính vì vậy, khi dâng lễ, nếu trong lòng còn những uẩn khúc và mâu thuẫn đối với người khác, thì điều ưu tiên là hãy làm hòa với nhau, vì Chúa chỉ nhận của lễ dâng của người có tâm hồn bình an thanh thản. Thông thường, người ta dễ dàng nói những lời hoa mỹ đối với Chúa, nhưng lại dùng những lời thô tục hoặc cứng cỏi với tha nhân. Sống theo sự thật là tạo mối tương quan chân thành với Chúa cũng như với anh chị em mình.
Nhờ sống theo sự thật mà chúng ta dễ dàng thực thi Luật Chúa. Chúa Giêsu giảng dạy như một nhà cải cách luật pháp. Người không dừng lại ở chữ nghĩa hay những công thức lý thuyết khô cứng, nhưng chú trọng đến tinh thần, đến tâm hồn của người giữ luật. Quả thật, người muốn nên hoàn thiện không chỉ giữ con mắt giác quan bề ngoài, nhưng còn giữ tâm hồn và ý tưởng của mình ngay thẳng trung thực. Vì sống ngay thẳng, nên người ta không cần thề thốt. Chúa Giêsu lên án những thói quen nơi người Do Thái bình dân thời bấy giờ. Họ thường lấy Danh Thiên Chúa hoặc Đền thờ Giêrusalem để thề, để chứng minh cho sự trung thực của mình. Chúa nói: đừng thề chi cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không; thêm thắt đặt điều là do ác quỷ mà ra. Quả vậy, trong con người chúng ta vẫn có “ác quỷ” tức là mầm mống của sự dối trá. Bổn phận của người tin Chúa là phải làm sao để mầm mống của sự thật lớn lên và sinh hoa kết trái, đẩy lui ảnh hưởng của sự dối trá đang hủy hoại tâm hồn và làm cho con người lạc hướng.
Tác giả sách Huấn Ca dạy chúng ta hãy khôn ngoan trong cách sống và trong nhận định của mình. Nhờ khôn ngoan mà chúng ta chọn lựa những gì ích lợi thiêng liêng và bền vững, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho những người xung quanh. Ông đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I). Như thế, Thiên Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa sự sống hay sự chết cho mình, để rồi họ phải lãnh trách nhiệm về những chọn lựa cũng như những hệ lụy của chọn lựa ấy. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.
Nếu sự khôn ngoan là một chọn lựa và tìm kiếm để nên hoàn thiện, thì theo nhãn quan Kitô giáo, Chúa Giêsu chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa Cha. Đức Khôn Ngoan đã nhập thể, mang lấy thân phận con người để chung chia phận người với chúng ta. Thánh Phaolô quả quyết: rao giảng Đức Kitô là rao giảng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Đón nhận sự Khôn Ngoan chính là đón nhận Thiên Chúa. Chính vì vậy, lý tưởng của người Kitô hữu là chính Chúa Giêsu, là Sự Khôn Ngoan vĩnh cửu và là Đấng Cứu độ trần gian. Thánh nhân cũng mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Trong tiến trình tìm kiếm sự Khôn Ngoan, có Thần Khí giúp đỡ chúng ta, để chúng ta không nản chí và không thất vọng.
Hành trình đức tin là hành trình tiến theo Sự Thật và tìm kiếm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được ơn kiên trung, để mặc dầu giữa những biến động của trần gian, chúng ta vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Một khi trung thành với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng sống trung thực đối với anh chị em mình.
4.Tự do và trách nhiệm
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Tự do lựa chọn một quyết định và gánh trách nhiệm về quyết định của mình, đó là đặc tính căn bản làm cho con người khác biệt với mọi loài tạo vật khác. Thiên Chúa sáng tạo con người không giống như một chiếc máy cho ra lò hàng loạt sản phẩm cùng một mẫu mã như nhau. Ngài tạo dựng con người mỗi cá nhân đều khác biệt và cho họ có tự do để lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu. Tác giả sách Huấn Ca đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử… Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I).
Nếu Thiên Chúa ban cho con người có tự do, là để họ dùng tự do ấy một cách đúng mức và để họ có trách nhiệm về những việc mình làm. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá một hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.
Chúa Giêsu đã quả quyết, luật căn bản nhất mà con người phải tuân giữ, đó là luật yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay chứa đụng giáo huấn rất phong phú về nội dung này. Không thể viện cớ một luật lệ hay một tập quán thế tục để hành động ngược với giới luật yêu thương. Khởi đi từ luật yêu thương này, người ta mới có thể xây dựng tình bằng hữu, đạo gia đình và tình nghĩa phu phụ.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật của Cựu Ước. Hơn thế nữa, Người mặc cho lề luật một giáo trị cao siêu hơn. Nếu luật Cựu Ước quy định kẻ sát nhân phải ra tòa, thì luật Tân Ước, những ai giận ghét anh chị em mình hoặc chửi mắng rủa xả họ với những lời thóa mạ, thì đã đáng hình phạt hỏa ngục trầm luân. Những quy định của luật Tân Ước nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa những người đồng loại. Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, luật yêu thương không chỉ dừng lại ở những cấm đoán, nhưng còn tiến xa hơn bằng những lời khuyên làm việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như chính mình. Để giáo huấn của mình có độ xác tín, Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo qua việc rửa chân cho các môn đệ và nhất là qua cái chết trên thập giá.
Để có thể hành động đúng với ý Chúa và để có thể thực thi được đức bác ái hoàn hảo, một điều kiện căn bản là mỗi chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận vị trí và khả năng của mình trong cuộc sống hiện tại. Nghịch lại đức khiêm tốn là kiêu ngạo. Người kiêu ngạo thường lấy mình làm tiêu chuẩn để đoán xét người khác. Họ coi mình là trung tâm vũ trụ, nên hành động và quyết định mà không nghĩ đến quyền lợi và phẩm giá của anh chị em mình. Kiêu ngạo bao nhiêu cũng chẳng đủ; khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng thừa. Lối sống khiêm hạ là phương pháp Đức Giêsu đã dùng để cứu độ trần gian. Đối với mỗi tín hữu chúng ta, khi khiêm nhường là chúng ta nên giống Đức Giêsu và như thế chúng ta có thể sống đức yêu thương như Người truyền dạy.
Sống như một người có trách nhiệm cần phải có ơn Chúa, nhất là ơn khôn ngoan. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Lẽ khôn ngoan này là chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để chỉ cho chúng ta con đường về quê trời.
“Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Một điều xem ra quá đơn giản và dễ dàng mà chúng ta không phải lúc nào cũng áp dụng được. Cuộc sống này vẫn còn những tranh cãi bất hòa và căng thẳng, vì chúng ta thường có khuynh hướng nói ngược lại: ‘có’ lại nói ‘không’ và ‘không’ lại nói ‘có’.
Con người không phải là một ốc đảo trong đại dương mênh mông là cuộc đời này. Mỗi cá nhân là một người có tự do và có trách nhiệm. Nên thánh chính là biết sống quân bình giữa tự do và trách nhiệm trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em. Xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng tự do để lo phần rỗi bản thân và góp phần đem lại hạnh phúc cho đồng loại.
5.Chúa nhật 6 Thường Niên
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 6 Thường Niên Năm A đưa ra câu trả lời cho một vấn đề: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cốt yếu là điều gì?
Hc 15: 15-20
Theo hiền nhân Si-rác, sự khôn ngoan của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người.
1Cr 2: 6-10
Theo thánh Phao-lô, sự khôn ngoan của Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan mà Tin Mừng công bố. Mầu nhiệm được ẩn dấu từ muôn thuở đã được Đức Ki-tô mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần, đó là kế hoạch của Thiên Chúa trên nhân loại, tức là cho con người được dự phần vào vinh quang của Ngài.
Mt 5: 17-37
Luật Cựu Ước được xem như diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su công bố rằng Ngài đến để kiện toàn Lề Luật: những đòi hỏi mà Ngài thêm vào Lề Luật đem lại quyền ưu tiên cho thái độ nội tâm. Lề Luật bị vượt qua một cách sâu xa khi đặt người Ki-tô hữu dưới cái nhìn của Thiên Chúa chứ không của con người.
BÀI ĐỌC I (Hc 15: 15-20)
Bản văn này rất nổi tiếng vì nó hình thành nên một trong những tham chiếu kinh điển thần học về vấn đề sự tự do của con người. Tác giả là một bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem, sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Ông là một nhà hiền triết, nghĩa là bậc thầy dạy lẽ khôn ngoan, đã mở trường và đào tạo môn sinh; ông ghi lại những thành quả từ kinh nghiệm và những gẫm suy của ông.
Vào thời đó, dân Ít-ra-en trải qua một khúc quanh lịch sử của mình. Sau khi trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, tiếp đó tái thiết Đền Thờ (521 trước Công Nguyên), Do thái giáo đã ý thức về chính mình. Ấy vậy, sau những cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-323 trước Công Nguyên), Cận Đông mở rộng cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Vào năm 250 trước Công Nguyên, nền văn hóa Hy lạp tràn ngập khắp miền Pa-lét-tin; những môi trường quý tộc ở Giê-ru-sa-lem sẵn lòng đón nhận nền văn hóa này. Ông Si-rác, tâm trí cởi mở và sáng suốt, thấy trước mối nguy: Do thái giáo có nguy cơ đánh mất tâm hồn của mình. Được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch Kinh Thánh, ông Si-rác đem lại niềm tin và sức mạnh cho các truyền thống của cha ông. Lề Luật, mà ông đồng hóa với sự khôn ngoan, đem lại niềm tôn kính cho chức tư tế và Đền Thờ, cũng cho những thực hành nghi lễ. Ông biên soạn một thủ bản dạy cách ăn nếp ở cho người Do thái trung thành, những người cưỡng kháng lại những ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp.
Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri. Nhưng khoảng năm mươi năm sau, vào khoảng năm 130 trước Công Nguyên, cháu nội của ông dịch tác phẩm này sang Hy ngữ. Sách của hiền nhân Si-rác là một loại bách khoa; nhiều chủ đề đa dạng được đề cập ở đây, không có trật tự xác định, nhưng chung chung được hợp thành nhóm theo chủ đề. Đoạn văn chúng ta bàn đến sự tự do của con người, gồm có ba phần:
– Khẳng định con người có quyền chọn lựa.
– Khẳng định Thiên Chúa là Đấng toàn năng và toàn tri, điều này xem ra đi ngược lại với sự tự do chọn lựa của con người.
– Giải pháp được phác họa dưới hình thức hai phủ định ở nơi câu cuối cùng.
1. Con người có quyền chọn lựa
Hiền nhân Si-rắc khẳng định rõ ràng là con người có quyền quyết định số phận của mình. Thiên Chúa đã đặt trước mặt mỗi người sự chết (“lửa”) và sự sống (“nước”), tùy thuộc vào sự tự do chọn lựa của mình:
“Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước,
con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy.
Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử,
ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15: 16-17).
Theo truyền thống Kinh Thánh, sự sống được liên kết với việc thực thi Lề Luật:
“Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn
mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15: 15).
Chúng ta có thể trích dẫn nhiều bản văn theo nghĩa này, chẳng hạn như Đnl 30: 15-20: “Hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai họa. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lới của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu… Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên mặt đất… Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa…”.
Vài bản văn Cựu Ước có thể khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa điều khiển mọi hành động của con người – thậm chí những hành động xấu. Tuy nhiên, sự tự do của con người được khẳng định ngay từ sách Sáng Thế ở đó rõ ràng Thiên Chúa đã cho con người quyền chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Trách nhiệm tội lỗi không thể chối cãi là trách nhiệm của con người. Các tác giả Kinh Thánh thường đề cao sự tự do chọn lựa của con người: hoặc ăn năn sám hối hay cứ ngoan cố trong sự bất tín. Nhiều lần Kinh Thánh gợi lên sự nhẫn nại của Thiên Chúa, Ngài hy vọng, chờ đợi tội nhân trở về với Ngài. Hiền nhân Si-rác cô động các giáo huấn tản mác này và phát biểu một cách thấm thía và rõ ràng.
2. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và Toàn Tri
Đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, hiền nhân Si-rắc thắp sáng sự toàn năng và toàn tri của Thiên Chúa:
“Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao,
Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả” (15: 18).
Dân Hy lạp nói: “Tinh thần mực thước là giới hạn duy nhất đối với quyền năng của các thần”. Hiền nhân Si-rác, không phải là không biết tư tưởng Hy lạp, nhất là tư tưởng của phái khắc kỷ, diễn tả một ý tưởng tương tự khi đặt lên hàng đầu trí khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, nhưng trước hết Ngài là Đấng Thượng Trí. Trí khôn ngoan này đánh dấu sự giới hạn của Ngài đối với quyền tự do chọn lựa của chúng ta, nghĩa là Ngài không thể nào biết trước sự chọn lựa của mỗi người chúng ta.
3. Chúa không cho phép ai phạm tội
Trước vấn nạn này, hiền nhân Si-rác thoáng thấy một giải pháp mà ông diễn tả bằng hai câu theo hình thức phủ định:
“Người không truyền cho ai ăn ở thất đức,
cũng không cho phép ai phạm tội” (15: 20).
Thiên Chúa muốn điều thiện chứ không điều ác. Khi đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, trí khôn ngoan của Ngài không bỏ mặc con người. Thiên Chúa lôi kéo con người hướng về điều thiện mà không áp đặt con người:
“Chúa để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người,
và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện” (15: 19).
Nghĩa là Ngài trợ giúp con người bằng cách kêu mời nên thánh khi tuôn đổ muôn ân sủng của Ngài trên họ.
BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 6-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Phao-lô đã nhắc tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng thánh nhân đã trình bày Tin Mừng cho họ như thế nào: bằng những ngôn từ thật đơn sơ mộc mạc, không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu.
1. Sự khôn ngoan của Tin Mừng
Nhưng khi ngỏ lời với những tín hữu gốc Hy lạp, thánh nhân không thể không quan tấm đến sự khôn ngoan. Thánh nhân cũng bận lòng chứng mình rằng có “sự khôn ngoan của Tin Mừng”, gắn bó với đức tin dẫn đưa chúng ta thậm chí vào tận nơi sự khôn ngoan cao cả.
Đây không là sáng kiến của thánh Phao-lô. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được trào lưu minh triết Cựu Ước ca ngợi rồi. Nhưng sự khôn ngoan này đã mặc lấy một khía cạnh mới với sự kiện Chúa Ki-tô ngự đến giữa loài người; sự khôn ngoan này bao hàm một mầu nhiệm: mầu nhiệm này đã được mặc khải ở nơi con người của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô dùng từ “mầu nhiệm” không theo nghĩa Hy-lạp: một bí mật phải được giữ kín, nhưng theo nghĩa của các sách khải huyền Do thái: kế hoạch mà Thiên Chúa tiền định từ trước muôn đời nay được vén mở.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
Trước tiên, thánh Phao-lô đưa ra hai khía cạnh tiêu cực của sự khôn ngoan, hay đúng hơn, khía cạnh tiêu cực thứ nhất là bút chiến: sự khôn ngoan này chỉ đạt đến cho “các tín hữu trưởng thành”. Ở đây, thánh nhân nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô, cho thấy họ chưa trưởng thành qua những tranh cãi trẻ con. Khía cạnh tiêu cực thứ hai nhắm đến sự khôn ngoan của thế gian, tức là những thủ lãnh nắm quyền thống trị thế gian: chắc chắn vừa là những thế lực ma quỷ vừa là thế lực của những kẻ hám danh lợi trên cõi thế này, đặc biệt những quyền lực chính trị, như thánh nhân xác định sau này.
Tiếp đó, thánh Phao-lô đề cập đến khí cạnh tích cực của sự khôn ngoan Ki tô giáo, đó là biết được ý định của Thiên Chúa đã được tiền định từ trước muôn đời, nay được bày tỏ ra, tức là cho con người được dự phần vào vinh hiển của Ngài.
Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã biết được kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, họ đã đóng đinh “Đức Chúa vinh hiển vào thập giá”. Thánh Phao-lô cho Đức Ki-tô một tước hiệu mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Thánh nhân thường hằng nhận ra Đức Giê-su là “Chúa”, như vậy hàm chứa Thần Tính của Ngài. Qua tước hiệu cao cả này, thánh nhân nhấn mạnh sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngoài ra, khi lấy lại từ ngữ “vinh quang”, thánh Phao-lô chỉ ra rằng chính qua Chúa Ki-tô mà chúng ta mới có thể được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
3. Sự khôn ngoan cao vời khôn ví
Vận mệnh vinh quang này mà Thiên Chúa dọn sẵn cho loài người không thể nghi ngờ được. Thánh Phao-lô trích dẫn khá tự do một đoạn văn của Is 64: 3: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người”. Sự khôn ngoan cao vời của Thiên Chúa không ai có thể đạt đến được nếu không có mặc khải, “còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí”.
Đại từ “chúng ta” này chỉ ra thánh nhân và những cộng tác viên của thánh nhân. Thánh nhân thường nhấn mạnh ơn thần khải mà sứ vụ tông đồ hưởng được. Thánh nhân đã có kinh nghiệm trực tiếp về điều này. Dù thánh nhân đã không sống với Đức Ki-tô tại thế, nhưng đã lãnh nhận ơn gọi độc nhất vô nhị: ánh sáng trên đường Đa-mát không ngừng soi sáng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 5: 17: 37)
Sau khi đã trình bày cho các môn đệ cách ăn nếp ở được chỉ ra trong bản Hiến Chương Nước Trời về các Mối Phúc, Chúa Giê-su sắp đi vào chi tiết và đối chiếu bản Hiến Chương này với Luật Mô-sê.
1. Đức Giê-su kiện toàn Lề Luật
Khi khẳng định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi”, Chúa Giê-su mượn kiểu nói văn chương mà các kinh sư thời đó thường lập đi lập lại: “Đừng chạm tới một chấm một phết của Lề Luật”. Qua kiểu nói này, các kinh sư lưu ý rằng họ vui thích giải thích Lề Luật, nhưng không bao giờ cho phép mình sửa đổi bất kỳ chi tiết nhỏ nhặt nào của Lề Luật.
Tuy nhiên, Chúa Giê-su hạn định lời khẳng định của mình: “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chắc chắn phải hiểu cho đến khi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài thiết lập một trật tự mới.
2. Điều quan trọng của Lề Luật
Trong lời phát biểu của Chúa Giê-su, “kẻ nhỏ nhất” và “kẻ lớn nhất” không diễn tả đẳng cấp hơn kém, nhưng là kiểu nói sê-mít bày tỏ sự tán thành hay không tán thành đối với cách hành xử của một người nào đó. Việc ca ngợi Lề Luật và tuân giữ Lề Luật dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất khó ăn khớp với giáo huấn theo sau của Chúa Giê-su, Ngài sắp lật đổ thể chế Lề Luật này và thay đổi nó trên nhiều điểm quan trọng.
Nhưng đừng quên rằng thánh Mát-thêu đang ngỏ lời với độc giả Do thái cải đạo hay muốn cải đạo. Điều quan trọng là phải chỉ cho họ thấy rằng Chúa Giê-su đã không thực sự hủy bỏ Lề Luật, ít nhất những lệnh truyền luân lý của Lề Luật (những chỉ thị về nghi lễ nhất thiết trở nên lỗi thời đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái), nhưng Ngài kiện toàn Lề Luật.
Ngoài ra, mạch văn trực tiếp không loại trừ bầu khí bút chiến chống lại những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su đã trách cứ những người này không phải vì họ tuân giữ Lề Luật cho đến những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng vì họ tin rằng việc tuân giữ này miễn cho họ khỏi thực thi những nhân đức. Phải đọc lại chương 23 ở đó Chúa Giê-su trách cứ nặng lời: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23: 23).
3. “Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo…”
Vào thời Chúa Giê-su, Lề Luật được tán dương hết mức, dù các ngôn sứ đã kịch liệt đả kích. Lề Luật bất khả xâm phạm, nó được đồng hóa với sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Thật ra, những luật luân lý đã làm cho lề luật cao hơn các luật của thế giới dân ngoại chung quanh.
Chúa Giê-su sắp kiện toàn Lề Luật, thậm chí đưa nó trở về sự tinh tuyền nguyên thủy khi định vị những yêu sách của Lề Luật trước tiên ở nơi lòng dạ chính trực và phân định luật yêu thương như luật cao hơn tất cả mọi luật khác.
Đức Giê-su phát biểu long trọng với một uy quyền tối cao: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…”. Ngài tự đặt mình là nhà lập pháp trên ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Do thái. Đức Giê-su sắp đưa ra nhiều ví dụ, trong số đó ba ví dụ đầu tiên là sát nhân, ngoại tình, thề gian.
A. Tội sát nhân
Chúa Giê-su không chỉ kết án tội sát nhân, nhưng còn những khích động trong lòng dẫn đến tội sát nhân. Ngài đặt theo mức độ tăng dần: chỉ nóng giận, nóng giận với những lời mắng nhiếc, nóng giận với những lời chửi rủa. Những án phạt theo mức độ tăng dần: trước tiên tòa án địa phương, rồi đến Thượng Hội Đồng, và sau cùng là lửa hỏa ngục.
Nhưng sẽ không có tội sát nhân, sẽ không có tòa án, nếu luật yêu thương ngự trị giữa con người. Vì thế, trước khi dâng lễ vật lên Thiên Chúa, trước tiên phải tự mình hòa giải với người khác: “Anh hãy mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công”, nghĩa là đừng đợi đến lúc trình diện trước “quan tòa”, tức trước Thiên Chúa, rồi mới hối cải.
B. Tội ngoại tình
Luật kết án tội ngoại tình chỉ khi nào bắt quả tang. Chúa Giê-su công bố rằng ngay khi nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Không luật pháp phàm nhân nào có thể đi xa đến như vậy; Luật mới xem những tư thế sẵn sàng trong lòng còn quan trọng hơn những hành vi bên ngoài. Chúng ta luôn luôn theo hướng đi các Mối Phúc.
Chúa Giê-su nhấn mạnh tư tưởng của Ngài bằng những hình ảnh cố ý cực đoan: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc nó mà ném đi…”. Tiếp đó, Ngài tiếp tục khai triển tội ngoại tình. Luật cho phép chồng rẫy vợ. Chúa Giê-su tuyên bố rằng mọi hình thức rẫy vợ đều là tội ngoại tình, vì ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; vì thế, người chồng phải chịu trách nhiệm về tội ngoại tình của vợ. Cũng vậy, ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. Chúa Giê-su sẽ còn tuyên bố nghiêm khắc như vậy khi Ngài nói về sự bất khả phân ly của hôn nhân: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu , không có như thế” (Mt 19: 8). Từ đây, chính luật yêu thương phải trổi vượt trên mọi lề luật.
Câu “ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp” của thánh Mát-thêu đã làm tốn không biết bao giấy mực. Phải chăng Chúa Giê-su tiên liệu một trường hợp theo đó việc ly dị có thể? Đây là điều người ta gọi “luật trừ của thánh Mát-thêu”. Bản văn được dịch sát từ: “trong trường hợp điều trơ trẽn”. Vài người đã thấy ở đây một ám chỉ đến sự bất trung của người vợ; thật ra, Lề Luật tiên liệu theo đó hình phạt của tội ngoại tình không là rẩy vợ, nhưng là ném đá. Những người khác nghĩ rằng đây là trường hợp vô hiệu của hôn nhân: việc ăn ở với nhau không cưới xin và đặc biệt loạn luân hay đồng tính luyến ái, tức là trường hợp mà Lv 18: 6-18, 22 đã tiên liệu và nhấn mạnh tính chất trơ trẽn của những hôn nhân này.
C. Tội thề thốt
Ví dụ thứ ba Chúa Giê-su trưng dẫn là tội thề thốt. Vào lúc đó việc người ta lạm dụng việc thề nguyền là một trong những vết thương của Do thái giáo. Sự tinh tế của các tiến sĩ Luật đã thiết lập vài biểu thức cam kết thật sự, những biểu thức khác chỉ cam kết cho có lệ. Thánh Mát-thêu trưng dẫn vài biểu thức này ở chương 23: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc… Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt 23: 16-22).
Chúa Giê-su chứng minh rằng vì phải tuân giữ Lề Luật bên ngoài, người ta buộc phải thề nguyền, đó là phạm thánh và bội thề. Việc chỉ trời, ngai Thiên Chúa, hay đất, bệ chân Ngài, mà thề được mượn ở Is 66: 1-2; còn việc chỉ Giê-ru-sa-lem, thành của Đức Vua cao cả mà thề xuất phát từ Tv 48. Thêm một lần nữa, Ngài đưa vấn đề trở về chiều kích nội tâm của nó: chân thành với chính lòng mình. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam