Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 39

Tổng truy cập: 1439057

THÂN PHẬN NGÔN SỨ

 

THÂN PHẬN NGÔN SỨ

 

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin mừng Lc 4: 21-30 Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép rửa từ sông Giođan trở về.

Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những ai giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia cũng phải thuyết giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.

Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: "Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?". Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: "Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiarét sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?". Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: "Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác".

Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.

Anh chị em thân mến,

Bài mô tả của Thánh Luca về khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiarét khiến cho người kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị "té cái bịch" xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh: "Trẻ nầy … là một dấu chỉ cho người ta chống đối" (Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiarét từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiarét từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như thế (x.Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiarét từng cố tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!" y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài.

Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hoàn tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Ngày nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.

Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh… biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.

Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội.

Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:

"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh quá nặng đè lên chúng con.

Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy". Amen.

 

35.Trở về quê hương - Lm. John Nguyễn Tươi

Quê hương… mỗi người đều có

Vừa khi mở mắt chào đời

Quê hương …là dòng sữa mẹ

Thơm thơm giọt xuống bên nôi

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ...

Sẽ không lớn nổi thành người.

(Quê Hương- Đỗ Trung Quân)

Trong trái tim của mỗi người, quê hương được gắn liền với tuổi thơ, với tình yêu thương con người. Khi đi xa quê hương, thì lòng người càng thêm nhớ thương. Nhớ về cha mẹ, nhớ anh chị em, nhớ những người thân quen trong tình làng nghĩa xóm, nhớ những người bạn cũ một thời cắp sách đến trường. Quê hương được ví như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng đời con. Quê hương được khắc ghi trong trái tim của mỗi con người. Quê hương nếu ai không nhớ, thì sẽ không lớn nổi thành người. Đọc lại bài thơ quê hương, nó đã gợi lại cho tôi nhiều kỷ niệm của tuổi thơ nơi tôi được sinh ra và lớn lên. Càng xa quê hương thì lòng càng thêm nhớ thương. Dù đi đến đâu thì lòng tôi vẫn muốn trở về thăm lại mái nhà xưa.

Trong hành trình đi rao giảng khắp nơi, Chúa Giê-su cũng tranh thủ trở về quê hương Nazaret, nơi Ngài đã được dưỡng dục và lớn lên. Chúa Giêsu vào Hội đường, Ngài đọc và giảng dạy Kinh Thánh cho dân chúng: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều kinh ngạc và thán phục về giáo huấn của Ngài. Chúa Giê-su dùng từ "hôm nay" có nghĩa là hiện tại ngay bây giờ quý vị vừa nghe. Nó không phải là ngày mai hay là tương lai mà là ngày hôm nay. Lời Chúa phải được ứng nghiệm trong chính tâm hồn mọi người. Nhưng chúng ta phải biết mở rộng con tim, thì Lời Chúa mới có thể gieo vào, lớn lên và sống được. Giống như hạt lúa được gieo vào mảnh đất tốt, nó sẽ đơm hoa kết trái.

Tuy nhiên, có những kẻ nghe Lời Chúa, nhưng họ còn mang nặng thành kiến, vì do lối sống của họ đi ngược lại với đường lối của Thiên Chúa, nên họ tìm cách chống đối, phủ nhận và không muốn nghe Lời Chúa. Chẳng ai xa lạ, họ là những người đồng hương của Chúa Giê-su. Họ nói rằng: "Người này không phải là con ông bác thợ mộc sao?". Hóa ra bụt nhà không thiêng là vậy. Cho dù, Chúa Giê-su đã làm nhiều phép lạ chữa lành bệnh tật cho nhiều người để cho họ nhận ra ơn cứu độ và quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng, họ đã từ chối đón nhận ơn thánh, mà đáng lẽ họ được ân hưởng.

Chúa Giê-su đã thấu hiểu cõi lòng của họ, Ngài nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình". Thật là đau lòng. Chúa Giê-su yêu quê hương da diết, muốn trở về để chia sẻ và ban ân phúc cho những người đồng hương và cho mảnh đất quê hương, mà Ngài gắn bó như ruột thịt máu mủ. Ấy thế mà họ đã phủ nhận và không đón tiếp với những gì Chúa Giê-su giảng dạy và làm cho họ. Vì lòng ganh tỵ, ích kỷ và thành kiến, họ không còn nghĩ đến những gì Ngài đã làm cho họ. Họ cắt đứt mối dây liên kết tình đồng hương, và cũng không chấp nhận sự thật hay biến cố đã xẩy ra tại quê hương mình. Họ nói: Người ấy không phải là con bác thợ mộc sao? Hoàn cảnh của ông ta có gì hơn người khác đâu! Một gia đình nghèo nàn, đơn sơ trong cái làng này.

Hơn nữa, điều làm cho chúng ta đáng suy nghĩ trong đoạn cuối của bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giê-su chỉ cho họ biết lý do tại sao các phép lạ chỉ xẩy ra cho các người dân ngoại Ca-phác-na-um trong thời các tiên tri, mà không thực hiện cho những người Itrael. Lời nói này đã đụng chạm đến lòng tự ái dân tộc, vì họ luôn tự cho mình là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn. Họ tự cho mình đạo đức thánh thiện hơn người nên họ đã phẫn nộ, trục xuất Chúa Giê-su ra khỏi thành. Họ dẫn Ngài lên núi để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi. Thật là phủ phàng.

Cuộc trở về quê hương của Chúa Giê-su đã thất bại. Ngài đã bị người đồng hương xua đuổi, coi thường, khinh dễ. Điều Chúa Giê-su muốn nói với đám đông không phải là coi thường họ, hay bình phẩm về lối sống đạo hình thức giả tạo bên ngoài của họ, nhưng Ngài muốn chỉ cho họ thấy rằng, ơn cứu độ của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho dân Itrael mà còn cho những người dân ngoại nữa. Sự cứu rỗi không tùy thuộc vào công việc họ đã làm, mà chính là ân sủng và nhờ lòng tin mà họ được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là ân huệ lớn lao của Thiên Chúa ban cho. Ơn cứu độ được mở ra cho tất cả mọi người và ơn thánh đó cần được ứng ngiệm trong cuộc sống mỗi người chúng ta hôm nay.

Mỗi ngày là một cuộc trở về. Trở về với gia đình. Trở về với chính mình. Trở về với căn tính của mình. Trở về với Thiên Chúa của mình. Trở về để biết mình đang đi về đâu. Mỗi người chúng ta có thể đi nhiều nơi, nhưng quê hương mỗi người chỉ một. Đó là quê hương trên trời, mà mỗi người chúng ta mong đợi khi kết thúc hành trình trên trần gian này. Thế gian là quán trọ dừng chân, để cho ta bước về quê hương vĩnh cửu. Chỉ có quê hương của Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta mới là quê hương thật. Nếu chúng ta không nhớ thì không thể lớn thành người con dân của nước Thiên Chúa.

Ước gì, Lời Chúa hôm nay được ứng nghiệm trong mỗi người chúng con. Amen.

 

36.Được kêu gọi trở nên những vì sao

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)

Chủ đề: "Chúng ta được kêu gọi trở nên những vì sao chiếu sáng trong cõi trần u ám này"

Có người đã mô tả các tiên tri trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não, và cũng là người gây phiền não cho những ai giầu sang, tự mãn. Chẳng hạn như tiên tri Giêrêmia. Vị tiên tri này sống vào thời kỳ Isael đang bị băng hoại từ bên trong. Và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe doạ từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì Ngài yêu mến tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì thế mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho bạn hữu và láng giềng của ông.

Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách hết sức miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm tiên tri nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia cũng phải thuyết giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.

Nghe ông giảng thuyết như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lầm bầm kêu: "Ông nội Giêrêmia này dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?" Tình trạng căm ghét này càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn ông, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.

Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mệnh làm tiên tri ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè láng giềng ruồng rẫy. Chẳng hạn bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép rửa từ sông Giodan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với bạn bè và láng giềng rằng: "Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh", thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: "Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là tiên tri? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?". Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân chúng bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Phúc Âm như sau: "Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài bước qua giữa họ và bỏ đi chỗ khác" (Lc 4: 29-30)

Bài mô tả của thánh Luca về khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiarét khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị "té cái bịch" xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về Kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simeon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh "Trẻ này… là một dấu chỉ cho người ta chống đối" (Lc 2:34). Lời nói này sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng cớ xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Irsael cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy (Mc 2: 18). Nếu dân làng Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỉ y thế ấy (Mt 12:24). Và nếu dân làng Nagiaret từng cố tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!" y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên báo của cụ già Simeon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế Ngài.

Làm sao áp dụng những điều nói trên vào cuộc sống của chúng ta? Chính Chúa Giêsu đã từng nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ: "Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước… Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Ta thì họ cũng sẽ bắt bớ các con" (Ga 15:18-20). Bất cứ ai cố gắng sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào. Chúng ta thử xét trường hợp những thanh niên đang học trung học hay đại học. Cách đây không lâu, trong đám thanh niên có một số cảm nhận được những điều Chúa Giêsu đang đề cập đến. Chúng ta hãy hỏi họ xem điều gì đã xảy đến cho họ khi họ cố gắng thật thà trong cuộc thi đang khi bạn bè xung quanh gian lận? Điều gì đã xảy đến cho họ khi họ cố gắng giữ mình đúng đắn trong một buổi tiệc vui, đang khi chung quanh họ lũ bạn đang "quậy" tứ tung? Điều gì đã xảy ra cho họ khi họ lên tiếng chống lại việc phá thai trong khi những người xung quanh họ lên tiếng ủng hộ việc ấy? Điều gì đã xảy ra cho họ khi họ tuyên bố chống nạn kỳ thị chủng tộc, đang khi quanh họ người ta đang tìm cách tiêu diệt cá tính của những dân tộc thiểu sổ? Điều gì đã xảy ra cho những thanh niên này thì cũng xảy ra tương tự cho những người lớn tuổi hơn. Quả thế, nhiều lúc chúng ta đã từng bị ruồng bỏ và bắt bớ vì niềm tin của chúng ta.

Tuy nhiên chúng ta không nên vì thế mà từ bỏ lối sống lương thiện và trong sạch. Không nên vì thế mà từ chối không dám bảo vệ quyền lợi trẻ em và nhóm người thiểu số. Lý do thật rõ ràng là vì Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ trong bài giảng trên núi: "Các con là muối đất… Các con là ánh sáng thế gian… Người ta không đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng nhưng đặt nó trên giá đèn… Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả sáng trước mọi người để họ trông thấy việc thiện các con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời" (Mt 5:13-15).

Chúng ta là Kitô hữu được kêu gọi làm tiên tri của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Chúa Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lập lại lời thánh Phaolô; "Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tăm tối này" (Pl 2:15)

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu.

"Lạy Chúa xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa. Vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.

Lạy Chúa xin ban cho chúng con lòng dũng cảm vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh nặng đè lên chúng con.

Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con toả sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối này. Amen".

 

37.Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

CHÚA GIÊSU KITÔ, VỊ THẦY THUỐC CAO TAY ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT

Nếu như Chúa nhật thứ Ba Mùa Thường niên, Đức Giêsu đã thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai. Ngài dạy dỗ chúng ta những Mối Phúc tuyệt vời mà chúng ta cần phải sống mỗi ngày để đạt được hạnh phúc thật là Nước Trời (Phụng vụ Năm A). Ngài chữa lành những người bị quỉ ám (Phụng vụ Năm B), nhưng Lời Ngài là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh, nhưng ngược lại, những người Do thái đầy căm phẫn, chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm " (Lc 4, 29) (Phụng vụ Năm C).

* Phụng vụ Lời Chúa Năm A

- Soph 2, 3; 3, 12-13: Thiên Chúa muốn một dân tộc khiêm tốn, nhỏ bé và nghèo hèn

- Tv 146, 7: Phúc thay ai có lòng khó nghèo, vì Nước Trời là của họ

- 1 Cr 1, 26-31: Những điều Chúa chọn

- Mt 5, 1-12a: Bài giảng trên núi: Tám Mối Phúc

* Phụng vụ Lời Chúa Năm B

- Đnl 18, 15-20: Môisen loan báo vị tiên tri trong thời sắp tới

- Tv 95, 1: Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng nữa

- 1 Cr 7, 32-35: Sự trinh trong đối với Thiên Chúa

- Mc 1, 21-28: Đức Giêsu rao giảng và chữa lành người bị quỉ ám

* Phụng vụ Lời Chúa Năm C

- Gr 1, 4-5;17-19: "Ta sẽ làm cho ngươi trở thành tiên tri của nhiều dân tộc"

- Tv 71, 5: Tới muôn đời, tôi sẽ loan báo sự chiến thắng và ơn cứu độ của Người.

- 1 Cr 12, 31 à 13, 13: Bài ca Đức Aí

- Lc 4, 21-30: Sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu

Về điều này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau:

Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

Một thầy thuốc cao tay là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã đến giữa chúng ta. Ngài đã rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Đức Giêsu đã đến, và Ngài thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Ngài liền hứa trao ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: “Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm”. ( 1Cr 2, 9).

Thiên Chúa, Thầy thuốc đến để chữa bệnh gì cho nhân loại? Ngài đã dùng phương thuốc nào? Ngài đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Ngài mời gọi ta. Thật vậy, Ngài biết rằng phương thuốc để chữa lành bệnh tật của ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Ngài đến cứu giúp ta, vì Ngài biết điều chúng ta cần.

Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Ngài vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Ngài được? Và, nếu không bắt chước được, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Ngài đến trong sự khiêm nhường, vì Ngài biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Ngài, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Ngài là Đấng nào? Ngài được sinh ra, Ngài đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.

Thường thì kẻ mặc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy lòng thương xót không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn sẽ cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Ngài không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Ngài đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Ngài đã chết và đã sống lại.

Như thế, Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Ngài đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.

 

38.Chúa Giêsu không được chấp nhận.

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Đức Giêsu một mình trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dứoi sự chăm sóc của mẹ Maria và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng chân tại Ca-phác-na-um. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và tới dự một buổi thờ phựơng nhằm ngày sabat. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.

Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ lòng không tin bằng một câu hỏi: “Hẳn không phải là con ông Giuse sao?” Ý họ muốn nói: “Đây không phải là người lân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Mêsia được!”

Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm trước mặt họ những phép là mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình” là Ngài có ý nói: “Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác. Nếu anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô.” Chúa cũng trích dẫn một câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của họ. “Quen quá hóa lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tài hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng bi đát trên chức vụ của Chúa Giêsu, có người chối bỏ Ngài vì những lý do hết sức nông cạn và điên rồ, tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi trên thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng hối cải của ân điển Ngài.

Thái độ của khán giả biến thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu ước, cả hai câu đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài hơn hết, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi do chức vụ của Ngài đem lại hơn những người ngoại bang. Ngài tự ví sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ơn phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy các dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ơn phúc cho Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy, điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ xem khinh các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hỏa ngục”. Thế mà giờ đây chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi, họ nổi xung lên đuổi Ngài ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.

Ngay từ khi mới sinh ra, Đức Giêsu nhận được một định mệnh “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.

Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận!” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở về, người đã làm mở mày mở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.

Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lặp lại, nhiều người có cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Na-a-man nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ thông của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thỏa mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.

Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và được đích thân Đức Mẹ dạy dỗ, một lần có người hỏi cô về số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi giáo. Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy.” Sau đó Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi giáo và Chính thống giáo cũng một thể như người Công giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công giáo là đủ để được cứu rỗi… Những người không Công giáo không phải là những thọ tạo kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung là cuộc sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.

home Mục lục Lưu trữ