Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 36

Tổng truy cập: 1438349

THA THỨ

THA THỨ

 

"Anh em hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình.." (Lc 3, 24)

Tin Mừng theo Thánh Luca ghi lại lời Chúa "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất" (Lc15,4). Rồi Chúa nói tiếp: "Vậy tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn". (Lc15,7) Qua câu chuyện này cho thấy hình ảnh vị Mục tử, người thầy, người chăn chiên cao cả và đầy lòng nhân từ. Câu chuyện bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng tương tự như thế.

a. Chúng ta trở lại câu chuyện Tin Mừng chúa nhật hôm nay: Các kinh sư muốn gài bẫy Chúa Giêsu nên nhân dịp người ta bắt qủa tang một người đàn bà đang phạm tội ngoại tình, họ liền dẫn ngay đến Chúa và chất vấn. Họ nói: chị này đang ngoại tình và bị bắt quả tang. Theo luật Môisen, chị ta sẽ bị ném đá cho tới chết. Phần Thầy, Thầy sẽ xử thế nào?

Các kinh sư và biệt phái đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu; thực ra họ chẳng nể nang gì Ngài, cũng chẳng có ý tốt lành gì đâu. Họ rất ghét Chúa, vì Người hay chỉ trích những thói hư tật xấu, giả hình của họ, mà từ lâu họ chưa tìm được chứng cớ gài bẫy, để tố cáo Chúa. Hôm nay nhân có một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đây là một cơ hội tốt để bắt bẻ Chúa mà trả thù; vì thế họ hỏi như trên... Nếu Chúa trả lời: tha bổng cho người đàn bà, thì họ sẽ bắt bẻ Chúa làm thế là không giữ lề luật. Còn nếu Chúa kết tội chị ta thì rõ ràng Chúa rất tàn ác, và còn làm ngược lại với lời dạy của chính mình nữa là: yêu thương, tha thứ... Xem ra bề nào, Chúa cũng bị các kinh sư kết tội cả. Rốt cuộc họ không ngờ Chúa có một câu trả lời mà không ai nghĩ đến: "ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (Ga 8,7) Chúa Giêsu lại thắng keo nữa. Thực tế ai có thể thắng Thiên Chúa?

b. Trên đời này có một nghịch lý rất lớn và cũng rất đáng trách, đó là: Thiên Chúa là Đấng muôn ngàn lần thánh thiện thì lại đầy lòng thương xót, đầy bao dung với người tội lỗi. Trong khi con người tội lỗi đầy tràn, lại thường hay lên án kẻ khác, thích phê bình chỉ trích người ta (chính các thánh còn chưa ai dám tự nhận mình là thánh thiện). Từ chỗ phê bình chỉ trích, rất nhiều khi chúng ta vô tình đẩy kẻ tội lỗi vào vũng lầy không có lối thoát. Các kinh sư và biệt phái trong câu chuyện Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Một câu châm ngôn Á Đông khá chí lý: "chân mình còn lấm mê mê, lại đi cầm đuốc mà rê chân người."

Lòng rộng lượng của Con Thiên Chúa (trong câu chuyện hôm nay) thật là to lớn và cũng thật đúng với những gì chúng ta biết về Thiên Chúa, vì Người sẳn sàng để 99 con chiên không lạc, mà đi tìm cho được con chiên bị lạc và Chúa: "không nở bẻ cây lao bị dập", "cũng không dập tắt tim đèn còn khói.." Những hình ảnh này rõ ràng diễn tả quá đủ lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa.

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

* với lòng nhân hậu và khôn ngoan tuyệt vời, Chúa Giêsu đã giải thoát và tha thứ cho người đàn bà tội lỗi, nhưng Chúa cũng kêu gọi chị từ nay đừng phạm tội nữa. Mùa chay cũng là mùa kêu mời mọi kitô hữu suy niệm về lòng bao dung vô bờ của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta thực tâm sám hối, sửa đổi đời sống và mau quay về với Chúa.

* Chúa không hề có một lời lên án người đàn bà ngoại tình: phần ta, ta có phải là hạng người hay chỉ trích kẻ khác? Nhìn lại bản thân mình đã sửa đổi như thế nào trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt là mùa chay này?

 

67.Án tử hình bị hủy bỏ – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Người Phụ Nữ Ngoại Tình. Câu chuyện ấy đã sảy ra trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài đang trên đường rao giảng Tin Mừng Tình Yêu. Lúc bấy giờ danh tiếng Ngài được đồn thổi khắp nơi. Nhiều người mộ mến. Nhưng cũng lắm kẻ ghét ghen. Nhất là hạng thượng tế, luật sĩ, và biệt phái. Bao cuộc tranh cãi gay go về luật lệ đã nổ ra. Người ta muốn tố cáo, truất phế Ngài khỏi tâm hồn quần chúng, nhưng chưa đủ khả năng. Đã bao lần gài bẫy và nêu các vấn đề hóc búa, đều bị Ngài hoá giải dễ dàng. Bẽ bàng. Xấu hổ. Nhưng giới chống đối vẫn ngấm ngầm tìm cách.

Cơ hội thuận tiện chợt đến. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ lập tức tóm ngay con người khốn nạn đó. Lại đang lúc Chúa Giêsu có mặt trong đền thờ Giêrusalem. Dân chúng đông đảo bao quanh Ngài. Bằng miếng mồi mới bắt được, người ta chắc mẩm chuyến này Đức Giêsu phải sa lưới. Bởi lẽ theo luật Môisen ghi lại trong sách Lêvi: “Người nào ngoại tình với đàn bà có chồng, người nào ngoại tình với vợ của tha nhân, tất phải chết. Cả gian phu lẫn dâm phụ” (Lv 20:10). Cách xử tử những kẻ phạm tội ngoại tình sẽ là “kéo ra khỏi cổng thành mà ném đá chúng cho chết đi” (Đnl 22:24).

Lâu nay, giới chống đối cứ thấy Đức Giêsu giao du với phường thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Nhắc chuyện thì Ngài lại phán: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính mà là hạng tội lỗi.” Nghe nhức tai quá. Chịu không được. Trong khi đó, Ngài cũng dạy người ta về sự công minh của Thiên Chúa: Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa đời đời. Thành ra, hôm nay, khi giương chiếc bẫy với miếng mồi “con mụ ngoại tình”, và câu hỏi “Thầy dạy sao, có nên ném đá con dâm phụ này không?”, nhóm luật sĩ biệt phái cầm chắc ưu thế trong tay.

Họ nhủ thầm: Nếu Đức Giêsu trả lời “Ném đá hắn” thì còn gì là yêu thương nữa. Giáo lý Ngài truyền dạy bấy lâu cũng chẳng có mới lạ. Bọn thu thuế đàng điếm sẽ mở mắt ra mà thấy Giêsu cũng chẳng thương xót gì họ.

Như thế là tạo mối nghi ngờ, rạn nứt ngay từ bên trong. Hạng tội lỗi sẽ mất tin tưởng vào Đức Giêsu. Còn Ngài sẽ không đi đi lại lại với chúng được nữa. Đó là chưa nói đến việc chính quyền đô hộ Rôma sẽ trừng phạt gắt gao người Do thái nào dám lên án tử cho kẻ khác.

Song nếu câu trả lời là “Đừng ném đá” thì lập tức Đức Giêsu sẽ lãnh viên đá đầu tiên, vì Ngài đã công khai chống lại luật Môisen, và dám dung túng, bao che cho phường ngoại tình, tội lỗi. Lúc này, nếu có trốn thoát được cái chết của “mưa đá” thì Đức Giêsu cũng bị khai tử nơi tâm hồn người ta. Ngài sẽ không còn mặt mũi nào để gặp gỡ dân chúng nữa.

Thật thâm độc! Miếng mồi không thể trốn chạy mà con mồi cũng chẳng thể chạy trốn. Chuyến này, có lẽ bất cứ lời nói nào của Đức Giêsu cũng sẽ trở thành bản án cho chính Ngài. Chiếc lưới đã giương lên chỉ còn chờ giờ sụp xuống.

Nhưng kìa, tại sao Ngài không nói gì cả? Câu hỏi dồn dập đổ xuống, ấy thế mà Ngài vẫn lặng im? Trước đây khi nêu vấn đề nộp thuế cho hoàng đế, Chúa Giêsu đã trả lời tức khắc, và nhanh chóng khoá miệng đối phương. Nhưng sao hôm nay Ngài lại thinh lặng? Có phải vì đây là vấn đề của lương tâm nên cần thời gian suy xét? Hay sự thinh lặng của Ngài thúc giục người ta nhìn lại chính mình? Nhìn lại để thấy sự giả dối núp bóng chân lý, lòng nham hiểm ẩn mình dưới lọng dù công chính. Tố cáo người phụ nữ ngoại tình nhưng lại nhằm lên án Chúa Giêsu. Hỏi “Thầy dạy sao?” nhưng vẫn cứ muốn ý gian của mình được thực thi.

Nhìn lại chính mình phải là thái độ tôi cần có trong mọi hành xử với tha nhân. Nhìn lại chính mình để biết cảm thông và tha thứ. Bởi lẽ, khi thinh lặng nhìn sâu vào cõi lòng, người ta sẽ không thể không khám phá ra sự thật này: Không có ơn Chúa thì đời tôi cũng chẳng hơn gì đời người; e rằng có khi còn tệ hơn. Khám phá được như thế chắc chắn người ta sẽ không hà khắc và tàn bạo với tha nhân.

“Ai trong các ông vô tội?” Lời mời gọi nhìn lại chính mình đó đã đưa đến quả: không còn ai lên án hay kết tội nữa, nhưng “kẻ trước người sau họ rút lui hết” (Gn 8:9). Thế mới hay khi con người biết thinh lặng xét mình, sự sống sẽ tồn tại. Những gì là độc ác, máu me, chết chóc, hận thù, la lối phải rút lui, nhường chỗ cho tình thương bộc phát và tràn lan.

Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. Ở đâu có thứ tha ở đó có an bình. “Ta cũng không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8:11). Tình thương không kết án, nhưng luôn mở ngỏ cho sự sống mới được lớn lên.

Từ lâu lắm, tại một làng bên nước Ý, người ta có thông lệ ném từ đỉnh núi cao xuống cho tan xác những người đàn bà phạm tội ngoại tình.

Một hôm, có người phụ nữ không may bị bắt quả tang phạm tội khi chồng vắng nhà. Dân làng chuẩn bị hành quyết người đàn bà trước sự chứng kiến của người chồng. Thế nhưng, ngay hôm trước ngày xử tử, người chồng bỗng biến mất. Giờ hành quyết đã đến mà ông chồng vẫn biệt tăm. Mọi người chờ đợi. Đợi chờ.

Cuối cùng, dân làng cũng đưa người đàn bà lên núi. Và sau vài tiếng trống đưa hồn, bà ta bị đẩy xuống vực sâu.

Mấy hôm sau, dân làng vô cùng bỡ ngỡ khi thấy người đàn bà đó lại đang ra vào ngôi nhà của bà ta. Ai nấy lo sợ vì tưởng rằng hồn ma quay về phá phách. Nhưng rõ ràng họ thấy người chứ đâu phải ma. Mãi sau người ta mới khám phá ra. Số là, vì biết không thể nào phá bỏ được tục lệ để cứu vợ, nên trước ngày xử án, người chồng âm thầm vào rừng tìm những sợi dây mây nhỏ, bền, và đan thành một tấm lưới. Sau đó anh đem giăng dưới chân núi nơi thân xác người vợ sẽ bị xô xuống. Nhờ vậy mà nàng còn sống để trở về mái nhà xưa. Anh đã làm thế vì muốn tha thứ và cứu vợ mình khỏi án chết.

Trước tình yêu và hành vi tha thứ cao cả, dân làng đã nhất trí huỷ bỏ thông lệ tử hình vốn đã kéo dài bao trăm năm.

“Ta không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa.” Noi gương Đức Giêsu, bạn và tôi cũng hãy mở đường cho hy vọng, thứ tha, và sự sống vươn lên. Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng khởi đi từ gia đình và cộng đoàn của mình.

 

68.Con đường hướng về tương lai

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)

Theo suy nghĩ thông thường: tội lỗi và hình phạt đi liền với nhau. Nhưng có trường hợp lại không thể như thế được. Điều này các quan toà thường cân nhắc, tra cứu kỹ càng về nguyên do đưa đến tội lỗi trước khi tuyên bố hình phạt. Vì thế có nhiều trường hợp được ân giảm hay chỉ cảnh cáo thôi.

Tôi được nghe kể lại, ngày xưa thời cha mẹ tôi còn sinh sống trong xứ đạo làng xóm miền bắc Việt Nam, hễ ai, nhất là phụ nữ sống làm điều gì trá i với luân thường đạo lý, trái với công dung ngôn hạnh, trái với lẽ đạo, liền bị mọi người khinh khi, miệt thị dèm pha. Họ không còn cơ hội gì hội nhập với cuộc sống chung trong làng, trong xứ đạo được nữa và cả gia đình họ cũng bị lên án theo như vậy! Có những nạn nhân phải bỏ quê hương trốn đi nơi xa lạ để tìm cơ hội xây dựng cuộc sống mới.

Xã hội Do Thái ngày xưa, như trong phúc âm diễn tả lại (Ga 8,1-11), cũng cứng nhắc theo khuôn luân lý đạo đức nên đời sống con người bị khinh khi miệt thị, bị lên án ném đá cho tới chết, nếu ai làm điều gì trái với khuôn phép đạo giáo.

Chúa Giêsu đến, ngài không đối xử với con người như thế, nhưng với trái tim tình thương, với lòng nhân ái. Ngài loan truyền luật lệ khuôn phép cho đời sống, nhưng ngài không dựa hay nhân danh những luật lệ đó để kết án ai. Tội lỗi là sự xấu, ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu là thánh thiện. Tội lỗi mang lại những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và nhất là làm tâm hồn con người mất bình an. Tội lỗi huỷ diệt đời sống làm con Thiên Chúa. Tội lỗi tạo hố ngăn cách con người với Thiên Chúa xa nhau và giữa con người với nhau. Tội lỗi vì thế cần phải bài trừ, nhưng không được bài trừ người có tội.

Chúa Giêsu đối diện với một nạn nhân của xã hội cứng nhắc theo luân lý đạo giáo, đối diện với một người làm điều tội lỗi như phúc âm thuật lại (Ga 8, 1-11). Trước hết ngài bảo cho mọi người: Các ông hãy soi gương xem mình có sạch không đã. Các ông hãy xét mình xem mình có vô tội không đã, trước khi bảo người khác là có tội và kết án họ!

Sau cùng ngài không dựa theo nguyên do để giảm án ân xá cho tội nhân, nhưng ngài mở cho chị ta con đường hướng về tương lai làm lại cuộc đời: Thầy không lên án con đâu. Chị đi về bằng an và từ nay đừng phạm tội nữa!(Ga 8, 11). Đó là con đường ăn năn sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, đấng là sự thánh thiện. Trở về để tâm hồn có lại bình an.

Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, luân lý là điều không lành mạnh, không tốt. Nhưng đâu chỉ có thể căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp cuộc sống con người thăng tiến nhất là về mặt tinh thần, chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm nhân vị con người xuống bùn đen.

Sự sống con người thể xác lẫn tâm hồn là điều cao quý hơn mọi thứ ở đời. Sự sống vì thế cần phải được kính trọng bảo vệ nâng đỡ. Đã là người ai cũng có khuyết điểm, cũng có thời gian làm điều lầm lỗi, nhưng ai cũng có khả năng ý chí lòng muốn làm điều lành, điều thánh thiện, điều tốt hợp với luân lý đạo giáo.

Thiên Chúa đã dựng nên con người với khả như thế và Chúa Giêsu đã sống làm gương: ngài không kết án hay giảm án nhưng ngài kêu gọi và mở con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ tội lỗi làm lại cuộc đời, ăn năn trở lại với tình yêu Thiên Chúa và với đời sống con người.

 

69.Một câu truyện phổ biến

Một câu chuyện cổ tích Do thái kể rằng có một thầy Rabbi nổi tiếng thường hay vắng mặt tại hội đường vào mỗi ngày Sabbath vài tiếng đồng hồ. Sự vắng mặt này làm cho các học sinh của ông thắc mắc. Nhiều học sinh cho rằng thầy Rabbi của mình đã tìm được một chỗ mà ông có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng toàn năng. Sau cùng, bọn học sinh đã đồng ý cử ra một người đi theo thầy Rabbi của mình để xem ông làm gì. Anh ngạc nhiên thấy thầy mình mặc một bộ áo cũ kỹ của một người ăn xin và đi ra một ngõ hẻm rồi đi vô một căn nhà hoang. Qua khe cửa sổ, người học sinh nhìn thấy thầy mình cặm cụi dọn dẹp, và chuẩn bị bữa ăn cho một cụ già bị tàn tật. Sau đó, người học sinh đã chạy về, và bạn bè của anh đã hấp tấp hỏi anh, "Sao, ông ấy có bay về trời không?" Người học sinh trả lời, "Có, không còn chỗ nào cao hơn nữa!" Chứng kiến việc làm nhân đạo của thầy mình mà người học sinh đã vô tình khám phá ra ánh sáng của trời cao.

Phúc âm kể lại nhiều truyện Chúa Giêsu lên án những kẻ đạo đức giả. Họ hay đi nhà thờ mà không bao giờ biết tỏ lòng nhân hậu và nhạy cảm với người khác. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, có một đoạn gây chú ý, tả lại cảnh Chúa Giêsu tức tối với loại người như thế. Chúa Giêsu "nhìn quanh họ một lượt vừa thịnh nộ vừa buồn phiền vì lòng chai đá của họ" (Mc 3,5). Đáng tiếc thay, vấn đề vẫn còn ở trong chúng ta.

Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cảnh Chúa Giêsu đương đầu với những thầy thông luật và Pharisiêu, những người đáng kính trong tôn giáo, nhưng có "lòng chai đá." Họ đem đến trước mặt Chúa Giêsu một người đàn bà và hỏi, "Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Maisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?" (Ga 8,4-5). Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta rằng những người đã định tâm để gài bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không đồng ý với họ để ném đá, thì họ có quyền tố cáo Ngài là không tôn trọng lề luật. Tuy nhiên, nếu Ngài nói là ném đá, thì họ sẽ nói là Ngài mâu thuẫn với luật yêu thương Ngài dạy. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho họ phải ngạc nhiên, "Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Gn 8:7). "Nghe thế rồi, kẻ trước người sau, họ rút lui hết, các kẻ cao niên dẫn đầu mà để lại một mình Ngài, và phụ nữ kia. Ngẩng lên, Chúa Giêsu nói với người ấy, "Bà kia, họ đâu rồi? Không ai xử tội bà sao? Người ấy đáp, Thưa Ngài, không ai cả! Đức Giêsu lại nói, "Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).

Vấn đề của chúng ta là ở chỗ chúng ta nghĩ mình là những người tốt, đáng kính, thường hay đi lễ, nhưng đồng thời chúng ta cũng thường có chiều hướng nghĩ rằng lời Chúa Giêsu nói về tội lỗi và sự dữ là để cảnh cáo người khác. Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu coi việc ngoại tình là một tội lỗi. Người đàn bà ngoại tình đó cần phải được tha thứ, và chúng ta hiểu điều đó. Bà còn cần phải thống hối, chúng ta cũng hiểu điều đó. Sau cùng, khi Chúa Giêsu cho bà đi, Ngài còn dặn, "Đừng phạm tội nữa", chúng ta cũng biết điều đó. Tuy nhiên, chúng ta có hiểu rằng Chúa Giêsu cũng nhìn sự thiếu lòng nhân ái và thương xót của những thầy thông luật và bọn Pharisiêu như là một tội lỗi không? Chúng ta có biết rằng những thầy thông luật và bọn Pharisiêu cũng cần phải được tha thứ không? Chúng ta có biết rằng những người mà tự xưng là công chính cũng cần phải thống hối không?

Qua cách đối xử của các thầy thông luật và bọn Pharisiêu, nó nhắc nhở cho chúng ta một điều, đó là nếu chúng ta tự cho mình là công chính thì chúng ta sẽ huỷ diệt lòng trắc ẩn của mình. Cái lúc mà chúng ta bắt đầu áp dụng luật luân lý của bản thân mình trên người khác, là chính lúc chúng ta bắt đầu bị mất đi khả năng để có thể cảm nghiệm và thông cảm cho người đó. Sự tự cho mình là đúng đắn không phải là một ảo tưởng, mà là một sự huỷ diệt tình yêu.

Chúa Giêsu đến thế gian không phải là để đem con người lên thiên đàng, nhưng là đem thiên đàng đến với con người. Qua lòng nhân ái đối với người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu đã cho chị ấy thấy được một tia sáng của thiên đàng. Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đến không phải là để cứu con người ra khỏi hoả ngục, nhưng là để xoá bỏ hoả ngục ra khỏi loài người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắc cho những thầy thông luật và Pharisiêu một chút ánh nhìn về hoả ngục mà họ đang đâm đầu xuống chỉ vì sự tự cho mình là đúng, là đạo đức, rồi phán xét kẻ khác một cách độc ác, đối với những người khác. Khi nào chúng ta cho phép cá nhân của mình xa cách Thiên Chúa, chúng ta sẽ để cho hoả ngục đi vào cuộc sống của chúng ta. Cách đi ra khỏi cái hoả ngục này là, "Hãy nhân ái như Cha các con trên trời là Đấng nhân ái."

Chúng ta không đến nhà thờ để qua đó chúng ta muốn chứng minh cho người khác sự đạo đức của mình. Chúng ta tụ họp nơi đây bởi vì ở đây chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu ở giữa chúng ta và Ngài ban cho chúng ta một chút ánh nhìn về sự sống đời đời với Thiên Chúa.

 

70.Mở đường cho cuộc đời mới

Một đứa con trong gia đình nọ, sau một lần được cha mẹ giao trông chừng nhà đã vì quá ham chơi nên đã để cho ăn trộm vô lấy một số tài sản quý giá. Khi phát hiện được, đứa con đã rất run sợ nên đã không dám ở nhà mà đã chạy qua nhà hàng xóm trốn. Trở về thấy vậy, cha mẹ nó rất buồn giận. Họ định đi tìm con về đánh cho một trận hả giận. Tuy nhiên, họ suy nghĩ tài sản ấy có thể lấy lại được. Còn đứa con nếu không khéo đối xử, nó sẽ trở thành một người xấu chăng. Thế là họ quyết định đón con về. Với tấm lòng nhân hậu và bao dung họ đã tha thứ cho con mình. Đặc biệt, họ đã nói với con: "Cha mẹ tin là con đã biết lỗi của mình. Cha mẹ cũng tin là con sẽ biết sửa đổi...". Quả thật, khi lớn lên đứa con này đã trở thành người tốt. Không những thế anh còn là một người rất cẩn thận trong mọi việc. Nhờ đó, công việc làm ăn của anh luôn được trôi chảy. Kết quả là anh đã sắm lại tất cả những gì đã bị mất trước kia cho gia đình và còn hơn thế nữa.

Như thế, nếu như người cha người mẹ trên vì quá tiếc của nên đã đối xử không khéo với con thì không biết sau này nó sẽ như thế nào. Nhờ họ đã biết dằn lại cơn nóng giận đúng lúc và nhất là họ đã biết giáo dục con đúng cách. Họ đã biết tin vào khả năng phục thiện của con mình. Họ đã biết mở cho con con đường mới.

Cũng thế, Tin mừng Chúa nhật hôm nay Chúa Giêsu đã nói với chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: " Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! ". Một câu nói hết sức trân trọng và đầy lòng thương xót cũng như tin tưởng mà Chúa Giêsu dành cho chị. Phải công nhận tội ngoại tình là một tội khó có thể chấp nhận và tha thứ được. Bởi lẽ, đây là tội đi ngược lại với luân thường đạo lý. Thế nhưng, đâu phải vì thế mà ai muốn xử sao thì xử.

"Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi ". Đây là câu nói nghe êm tai nhưng rất nặng cả ngàn cân. Câu nói ấy đã bắn trúng vào tim đen của những Kinh sư và Pharisêu. Kết quả là sau câu nói này thì: " Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi ". Công bằng mà nói tội ngoại tình thì cũng như bao tội lỗi khác thôi.

Có lẽ thái độ của các Kinh sư và Pharisêu cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Ông bà ta thường nói: " Tiên trách kỷ hậu trách nhân " (Hãy tự trách mình trước rồi hãy trách người) hay " Chuyện người thì sáng còn chuyện mình oán ". Chúa Giêsu cũng đã một lần nhắc nhở: " Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? " (Mt 7, 3). Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta quay lại với chính mình. Thiên Chúa luôn biết ta yếu đuối. Tội lỗi của ta tuy có lớn nhưng tình thương của Ngài lại con lớn hơn nhiều. Người sẵn sàng tin tưởng và sẽ cho cơ hội để ta làm lại cuộc đời mỗi khi trót phạm tội.

Mỗi khi lãnh Bí tích Hoà giải, Thiên Chúa qua vị Linh mục luôn nói: " Cha tha tội cho con. Hãy đi bình an ". Đây là không chỉ là lời tha thứ mà còn là một lời an ủi khích lệ. Đồng thời, đây cũng là một lời nhắn nhủ đầy tin tưởng: " Hãy đi và đừng phạm tội nữa ". Hãy xin Chúa Giêsu cho ta xác tín điều ấy luôn. Để rồi khi xác tín được điều ấy, ta sẽ biết phải làm gì để không phụ lòng tin tưởng mà Thiên Chúa dành cho ta.

 

71.Người đàn bà ngoại tình được tha

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Làm thế nào để trả lời một câu hỏi hóc búa, nhất là khi người hỏi có ý bắt bẻ? Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay đã phải đối chất với một câu hỏi như thế. Những người Biệt phái và Luật sĩ trình lên Chúa một vụ về người đàn bà mà họ cho rằng họ đã bắt được quả tang phạm tội ngoại tình. Thực ra thì bắt được người đang phạm tội ngoại tình cũng khó, chứ đâu phải chuyện dễ, trừ khi cái tò mò tính len lỏi vào. Mà tò mò trong trường hợp này có thể là phạm tội bằng mắt. Tuy nhiên xem ra họ không quan tâm đến người đàn bà ngoại tình cho bằng việc muốn gài bẫy để đưa Chúa vào tròng và làm khó cho Chúa trước chính quyền La mã và giáo quyền Do thái giáo.

Theo luật Mô-sê, khi người đàn bà bị bắt được phạm tội ngoại tình, thì sẽ bị ném đá. Như vậy nếu Chúa Giêsu trả lời không phải ném đá, thì Người chống lại luật Môsê. Đàng khác luật La mã áp dụng cho cả người Do thái thời bấy giờ cấm ném đá một người cho đến chết. Vậy nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là Người chống lại luật La mã. Như vậy vâng luật Do thái, thì lại lỗi luật La mã, và ngược lại, vâng luật La mã thì lại lỗi luật Do thái. Đàng khác nếu Chúa bằng lòng cho ném đá, thì Người lại mâu thuẫn với đường lối yêu thương, nhân từ và tha thứ mà Người vẫn thường giảng dạy. Như vậy thì Chúa phải trả lời thế nào? Thật nan giải.

Phúc âm kể lại Chúa cúi xuống vạch vài nét trên đất. Chúa vẽ gì, Phúc âm không kể lại. Có lẽ Chúa chỉ vạch vài đường lả lướt chơi vậy cho đỡ buồn để tỏ ra Chúa không quan tâm đến câu hỏi của họ. Và rồi Chúa bảo họ ai không có tội thì hãy ném đá người đàn bà trước đi. Nhưng không ai trong nhóm họ đã dám làm. Đọc Phúc âm, ta thấy người Biệt phái và Luật sĩ thường bị Chúa quở trách nhiều nhất vì họ là những người hay bới lông tìm vết, hay phê bình chỉ trích, hay nói mà không làm. Chúa bảo họ là những người kiêu căng, tự phụ và giả hình vì họ giữ đạo theo hình thức bên ngoài, mà lòng họ xa Chúa.

Mục đích của việc Chúa quở trách là để dạy họ về đường lối Phúc âm của Người, và qua việc dạy họ, Chúa cũng dạy bảo ta nữa vì mỗi người chúng ta đều có những lúc giống người Biệt phái và Luật sĩ. Nếu có lời giảng dạy nào của Chúa và của người thừa hành mà làm ta suy nghĩ, thì đó là cái bước khởi đầu cho việc hối cải. Nếu Chúa khắt khe với người Luật sĩ và Biệt phái thì Chúa lại nhân từ với người chân thành khiêm tốn và thương xót người tội lỗi mà có lòng ăn năn sám hối. Vì tội lỗi của họ có thể là do hoàn cảnh xã hội hay nghèo túng gây ra như chuyện Thuý Kiều bán mình chuộc cha. Do đó cái hiện tượng đói ăn vụng, túng làm liều có thể được khoan hồng và ân xá. Vì thế áp dụng vào hoàn cảnh mỗi người, khi đi xưng tội ta phải xét cái cội rễ của tội hơn là quan sát và cắt cái ngọn. Cắt cái ngọn thì cây sẽ mọc lại, nhưng nếu nhổ cả rễ thì nó hết mọc. Cũng vậy, triệt cái cội rễ của tội mới hi vọng tránh phạm tội.

Trong Phúc âm hôm nay, Chúa kêu gọi người đàn bà bắt đầu cuộc sống mới, chấp nhận lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa. Cái đề tài bắt đầu mới lại cũng được tìm thấy trong hai bài đọc Thánh kinh hôm nay. Tiên tri Isaia hôm nay nghĩ về cái cuộc xuất hành, cái cuộc giải thoát mới cho dân Chúa, không phải giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, nhưng là giải thoát khỏi tội lỗi và nết xấu. Bài trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê cũng chứa đựng cái gì mới. Thánh Phaolô rao giảng việc bắt đầu mới trong đời sống mới, đời sống ân sủng với Chúa. Đọc Phúc âm ta thấy Chúa Giêsu ghét tội, nhưng Chúa lại nhân từ với người có tội. Chúa tỏ lòng từ bi, ban ơn tha thứ cho chị đàn bà tội lỗi để chị ta xa tránh tội. Trước hết Chúa ban cho chị lời trấn an: Không ai kết án con sao? (Ga 8:11). Theo sau là lời tha thứ: Ta cũng không kết án con (Ga 8:11).. Sau cùng là lời khuyên răn chỉ đạo: Con hãy đi và đừng phạm tội nữa (Ga 8:11).

 

72.Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm và tha thứ

(Suy niệm của JKN)

Câu hỏi gợi ý:

1. Luật Môsê - cũng là luật của Thiên Chúa - buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?

2. Luật mới của Đức Giêsu - luật yêu thương - đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?

Suy tư gợi ý:

1. Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu

Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử” (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. - Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.

2. Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?

Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).

Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?

3. Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ

Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: “Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê” (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).

Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.

Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.

4. Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ

Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người “ai cũng phạm tội” (Rm 5,12): “Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì “vô liêm sỉ” ở trong đó.

Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thoả mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.

Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.

Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.

 

73.Suy niệm của John Nguyễn

HÃY CẢM THÔNG VỚI NHỮNG YẾU ĐUỐI CỦA THA NHÂN

1. "Ai sạch tội, hãy ném đá trước đi!"

Đây là một đoạn Tin Mừng mà tôi rất thích, vì nó rất hữu hiệu trong việc ngăn cản tôi kết án người khác, nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới, v.v... Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giêsu: " Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi", thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn, v.v... y như người vừa mới làm phiền tôi, hay vừa làm một điều ngu xuẩn nào đó.

Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi hết bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.

Làm sao tôi có thể kết án người khác, khi chính tôi cũng đã từng phạm một lỗi như họ? Đọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi khá bất bình với những người giả bộ đạo đức đem người phụ nữ ngoại tình đến với Chúa để Ngài kết án. Nhưng khi nghe thấy họ từ từ rút đi hết sau khi nghe Đức Giêsu nói: " Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi", thì tôi cảm phục họ. Ít ra là họ cũng còn liêm sỉ khi thành thật nhận ra mình cũng chẳng tốt lành gì, để rồi lặng lẽ rút lui.

Nhưng có lẽ cũng có khá nhiều người Kitô hữu không đủ liêm sỉ bằng những kinh sư và những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng này. Họ sẵn sàng kết án người khác, nuôi lòng hận thù với người khác, và rất khó tha thứ, đang khi chính họ cũng đã từng làm những hành vi tội lỗi tương tự như thế, hoặc còn hơn thế nữa.

2. Tội hồng phúc, những khiếm khuyết hồng phúc

Tôi nhận thấy tội lỗi hay khiếm khuyết cũng có mặt tích cực của nó. Nhờ tôi đã từng phạm một số lầm lỗi, sai lạc, yếu đuối, hay ít ra bị cám dỗ nặng nề về một số tội nào đó, mà tôi trở nên bao dung, dễ tha thứ và sẵn sàng thông cảm với những yếu đuối hay lầm lỗi của người khác hơn. Tôi cảm thấy nếu tôi chưa từng phạm những lầm lỗi, những điều đáng trách ấy, thì có thể tôi đã không dễ dàng thông cảm với những yếu đuối của tha nhân.

Trong hai trường hợp sau đây, nếu phải chọn một, thì bạn chọn trường hợp nào?

- một là không hề phạm một lỗi nào cả nên khó thông cảm tha thứ cho những yếu đuối của người khác,

- hai là đã từng yếu đuối, sa ngã, lầm lỡ, nên trở nên độ lượng, bao dung, dễ cảm thông với những yếu đuối lầm lỡ của người khác.

Riêng tôi, tôi sẽ nghĩ đến trường hợp thứ ba là tuy không phạm lỗi bao giờ nhưng lại rất thông cảm với những lầm lỗi người khác, và tôi cho trường hợp này là tuyệt vời nhất. Tuy nhiên, có lẽ trường hợp này khá hiếm. Nhưng nếu chỉ có hai trường hợp trên, thì tôi thích trường hợp thứ hai hơn. Loại người thứ hai chắc chắn được nhiều người thương mến hơn loại người thứ nhất. Và chắc chắn Chúa cũng thích như thế.

Nói thế không có nghĩa là tôi khuyến khích người ta phạm tội để họ có được sự thông cảm với những người tội lỗi. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã từng yếu đuối, lỡ sa ngã phạm tội, thì hãy nhìn ra khía cạnh tích cực của tội lỗi. Nhận ra tội lỗi hay sự yếu đuối của mình sẽ giúp ta khiêm nhường, thông cảm, nhờ đó dễ tha thứ cho người khác. Đức khiêm nhường mà ta có được do nhìn nhận tội lỗi mình thì còn quí giá hơn là trong sạch mà kiêu căng, muốn tự hào và cho rằng mình hơn người vì sự trong sạch đó.

3. Thái độ thông cảm của Đức Giêsu đối với người tội lỗi

Đức Giêsu rất thánh thiện, không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi, Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta. Có thể ta dễ dàng kết án người khác, làm như thể ta hoàn toàn vô tội, không hề phạm những sai lỗi như thế bao giờ. Kết án người khác dễ dàng, điều đó chứng tỏ ta không liêm sỉ bằng những người tự động rút lui sau câu nói của Đức Giêsu: " Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi".

Trong cuộc đời, nhiều khi ta khó chịu với những kẻ lên mặt đạo đức hay kết án hơn là với những kẻ phạm nhiều lầm lỗi. Chắc hẳn Thiên Chúa cũng không ưa những kẻ hay kết án cho dù họ đời sống của họ có tốt đẹp đến đâu. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho kẻ có tội nếu họ biết ăn năn hối lỗi, nhưng Ngài khó tha thứ cho những kẻ hay kết án. Ngài đã từng nói: " Anh em đừng kết án để khỏi bị kết án". Điều đó có nghĩa: kết án người khác chính là cách chắc chắn nhất để Thiên Chúa quay ngược lại kết án chúng ta! Vậy thì ta đừng bao giờ dại dột kết án người khác.

Tôi vẫn nghĩ rằng cách tốt nhất để Thiên Chúa khỏi kết án ta là ta đừng bao giờ kết án người khác. Nếu chúng ta luôn luôn tha thứ cho người khác một cách vô điều kiện, chắc chắn Thiên Chúa cũng không thua kém lòng quảng đại của chúng ta, Ngài cũng sẽ tha thứ cho chúng ta như vậy. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn xin Chúa tha nợ chúng ta, giống như hay theo kiểu chúng ta tha nợ cho những kẻ nợ chúng ta. Ta tha thứ cho người khác kiểu nào, Thiên Chúa cũng tha thứ cho ta kiểu ấy. Ta chấp tội người khác thế nào, Thiên Chúa cũng chấp tội ta thể ấy. Vậy, một cách nào đó, chính ta quyết định việc ta có được Chúa tha thứ hay không.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con ý thức được thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, để con thông cảm dễ dàng với những yếu đuối của anh chị em chung quanh con. Xin đừng để con kết án ai bao giờ, nhưng luôn luôn tìm ra những lý lẽ để thông cảm cho những lỗi lầm của họ. Xin cho con đủ bao dung quảng đại để sẵn sàng tha thứ một cách vô điều kiện cho bất kỳ ai xúc phạm đến con. Và con nghĩ đó là cách khôn ngoan nhất để con được Chúa tha thứ cho con một cách vô điều kiện.

 

74.Chúa đối xử bằng tình thương - Jos. Hồng Ân

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan thuật lại cho ta thấy, Chúa Giêsu có một thói quen, mỗi khi giảng dạy dân chúng xong, mọi người ai nấy trở về nhà mình còn Chúa Giêsu thì lên núi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan nói rõ: “Đức Giêsu thì lên núi Ô-liu” (Ga 8, 1), Ngài lên núi để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa suốt đêm, nên “vừa tảng sáng Người trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc ấy các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình” (Ga 8, 2). Một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang, chị bị điệu đi bêu xấu, xỉ nhục dọc đường và theo luật Môsê bị ném đá cho đến chết. Nhưng có một số người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sẵn có ác ý với Chúa Giêsu, họ mưu toan tìm cách hại Người, nên họ đã nghĩ ra kế sách thâm độc. Họ đã dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến gần Chúa Giêsu hỏi thử Người, để làm một cái bẫy, đưa Ngài vào chòng, rồi họ sẽ kết án luôn cả Chúa Giêsu, như vậy “một mũi tên sẽ trúng hai đích”.

Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nghĩ rằng phen này họ sẽ thắng và chắc chắn Chúa Giêsu cũng sẽ bị kết án. Họ hỏi thử người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Môsê đã truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4-5). Nếu Chúa Giêsu trả lời tha cho người phụ nữ phạm tội, thì họ sẽ kết án Chúa vi phạm luật Môsê và ủng hộ tội lỗi, làm phá hoại nền tảng gia đình và xã hội. Còn Chúa trả lời lên án tử người phụ nữ đó, thì họ sẽ làm cho Ngài một phen bẽ mặt, vì giáo huấn Chúa dạy là phải yêu thương (x. Mc 12, 28-31), nhân từ (x. Mt 11, 29) và tha thứ (Lc 6, 37). Hơn nữa họ còn tố cáo là Ngài đã chống lại Rôma và vượt quyền xét xử của nhà lãnh đạo Lamã. Vì thời Chúa Giêsu Dothái bị đế quốc Lamã đô hộ, nhà cầm quyền Dothái không được lên án tử hình, mà phải đên trình lên Rôma xét duyệt. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ ác ý của họ, nên Người không trả lời mà “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8, 6). Kinh Thánh không nói Ngài viết chữ gì, nhiều ý kiến thì cho rằng: “có lẽ Ngài viết tội trạng của những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư”. Đây quả là một vụ án vô cùng khó xử.

Chúa Giêsu đã im lặng, cúi xuống viết trên đất, đó là khoảng thời gian vô cùng hồi hộp của người phụ nữ, chờ đợi phán quyết cuối cùng của Ngài. Là khoảng thời gian những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nóng lòng chờ đợi Ngài đưa ra phán quyết để có cơ hội tố cáo Ngài. Chúa Giêsu cứ viết mãi, viết mãi, làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư phải khó chịu nên họ thúc dục Người: “Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng đầu lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Rồi Chúa lại cúi xuống tiếp tục viết. Chúa Giêsu không nói là ném đá hay không ném đá, kết án hay không kết án, Ngài cũng không nói tới việc áp dụng luật, Ngài muốn thức tỉnh lương tâm của những kẻ tự cho mình là công chính, giữ luật cách máy móc, đến nỗi không còn phân biệt tốt xấu.

Chuyện kể rằng: Một người Dothái qua đời. Sau khi khám nghiện tử thi, các bác sĩ xác nhận người đó thực sự đã chết và cấp giấy chứng nhận để chôn cất. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, mọi người bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy người chết đã sống lại. Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với người trong quan tài rằng: “chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay đã chết, nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, quả thực ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ”. Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục cử hành nghi thức tang lễ và hoàn tất thủ tục chôn cất.

Có lẽ tác giả của câu chuyện trên muốn lên án, chế diễu tính cứng nhắc và máy móc của con người khi tuân các lề luật, cũng như khi cư xử với người đồng loại, với người đồng đạo, với những người thân cận.

Thời Chúa Giêsu, những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư họ cũng có thái độ như thế đối với lề luật. Họ tuân giữ luật lệ cách máy móc, làm cho luật trở nên nặng nề, họ trung thành với luật lệ đến nỗi không còn tình người, đến hy sinh tính mạng, giết chết người đồng loại, chôn sống cả người đồng hương.

Chúa Giêsu muốn nêu bật cái cốt lõi của lề luật, tinh thần đích thực của lề luật là tình thương. Chúa đánh đổ quan niệm ấy bằng cách chữa bệnh ngày Sabát, đón tiếp, ăn uống với những người tội lỗi và người thu thuế. Qua việc làm đó, Ngài muốn bày tỏ cho con người thấy được bộ mặt yêu thương, nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa, vượt qua mọi luật lệ của con người.

Lời nói của Chúa Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, đã làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư bừng tỉnh, nhận ra chính họ cũng là tội nhân trước mặt Chúa, nên đã lần lượt rút lui. Khi Chúa ngẩng lên thì không còn ai ở đó nữa, lúc đó Chúa mới đưa ra lời phán quyết. Chúa không xét xử như con người, cũng không dùng lề luật mà xét xử. Ngài dùng tình thương mà xét xử: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Chúa đã để cho người tội lỗi có cơ hội ăn năn sám hối, chừa bỏ tội lỗi, trở về với Chúa và sống công chính để được hưởng ơn cứu độ của Ngài. Chúa phân biệt tội và người có tội, đối với tội thì Chúa triệt để lên án, không khoan nhượng, không dung thứ, cũng như ánh sáng không ở chung với bóng tối. Chúa lên án tội lỗi, dạy con người tránh xa tội lỗi. Suốt đời Chúa hằng đấu tranh với tội lỗi, đấu tranh đến giọt máu cuối cùng trên Thập giá để diệt trừ tội lỗi. Còn người có tội thì Chúa lại khoan dung tha thứ.

Trên đời, nhiều khi chúng ta cũng mang bộ mặt của Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sống vụ luật, hình thức, giữ luật một cách máy móc, giữ giờ giấc đầy đủ, bề ngoài có vẻ như rất đạo đức nhưng lại hay soi mói, xét nét, lên án người khác từ những chuyệt rất nhỏ mà quên rằng: trước mặt Chúa chính ta cũng là kẻ tội lỗi, chúng ta mang nơi mình bản tính của con người là yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Vậy mỗi khi định xét đoán người nào, hay lên án ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, không hề mang vết nhơ tội lỗi. Và ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7, 1-3). Chúng ta không xét đoán tha nhân, thì Thiên Chúa cũng sẽ không xét đoán chúng ta như chúng ta đáng tội. Chúng ta dùng đấu tình thương mà đong cho tha nhân, thì Thiên Chúa sẽ dùng đấu tình thương ấy mà đong lại cho chúng ta. Mỗi người chúng ta biết yêu thương và tha thứ cho anh em khi họ xúc phạm đến ta, khi họ làm điều sai trái, thì Thiên Chúa cũng sẽ lấy thương mà đối xử nhân từ, khoan dung và tha thứ cho chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con cũng là những con người tội lỗi, nhưng chúng con lại hay chỉ trích, lên án và loại trừ người khác. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng con, để chúng con nhận biết chính chúng con cũng là những con người tội lỗi, để chúng con đối xử khoan dung và tha thứ cho anh em con. Xin Chúa cũng dùng tình thương mà đối xử với chúng con, như Chúa đã đối xử nhân từ với người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

75.Lòng khoan dung của Thiên Chúa

(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

Các em thiếu nhi trong Giáo xứ thường xem trước bài Tin Mừng Chúa Nhật, đọc và tìm hiểu. Hôm nay, Bé Hữu đọc to đoạn tin mừng Ga 8, 1-11. Mẹ hỏi: “con hiểu thế nào?” Bé trả lời “Chúa Giêsu cứu một mạng người” “cứu ai” “Cứu bà kia”? “Ai định giết?” “Mấy ông luật sĩ định ném đá cho chết luôn” “Sao không ném?” “Ai cũng có tội mà ném gì, Mẹ? Họ rút êm hết rồi”

Còn Chúa thì sao? “Chúa bảo bà ấy về đi, đừng phạm tội nữa. Thế là bà ấy thoát chết”

"Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?" (Gn 8:4-5)

Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội tình được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay đang đau khổ vì xét theo luật, phải bị công khai ném đá cho đến chết. Thực ra, chị không phải là nhân vật chính trong vụ xét xử theo yêu cầu của các luật sĩ. Nhưng chính là Chúa Giêsu. Họ đang muốn xử Chúa Giêsu. Và họ sẽ xử Chúa Giêsu nếu Ngài không xử người phụ nữ này đúng theo luật của Môise đã định. (Lv 20:10).

Thật tội nghiệp cho thân phận thiệt thòi của người phụ nữ. Không thấy người đàn ông tòng phạm bị ném đá!

Chúa Giêsu biết họ đang thử thách Ngài về lòng bác ái và việc thi hành lề luật. Ngài đã thinh lặng đến độ khó hiểu. Và khi Ngài lên tiếng, thì họ mới hiểu ra là Chúa Giêsu đứng về phía tội nhân. Ngài không bảo đừng ném đá, nhưng Ngài bảo ai đó cứ ném đi nếu tự thấy mình vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Gn 8:7).Ngài không bào chữa cho tội nhân, nhưng Ngài tha thứ và với ơn tha thứ Ngài khuyên người phụ nữ đừng phạm tội nữa. "Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).

Tin mừng đưa ra hình ảnh người đàn bà ngoại tình không có ý làm giảm nhẹ giá trị phụ nữ thời xưa hay thời nay, nhưng có ý nhắc đến “người phụ nữ là Dân Riêng Thiên Chúa” mà Thiên Chúa đã kết ước như một cuộc hôn phối diệu kỳ giữa Thiên Chúa như người chồng, và dân riêng như người vợ: “Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.(x. Is 62, 4- 5). Và Ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. (Hôsê 2,21-22)

Còn trong Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô là chàng rể và Giáo Hội chính là hiền thê của Ngài. “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người” (Mt 25, 6). Cũng vậy, trong Giáo Hội mỗi thành phần đều là những người yêu quí của Chúa Kitô, thuộc về Chúa Kitô, trong ý nghĩa đã được hôn phối đời đời với Ngài.

Như vậy hình ảnh người vợ ngoại tình có ý nói đến việc dân riêng Thiên Chúa bỏ Thiên Chúa mà lang chạ với ngẫu thần ngẫu tượng, việc mỗi người chúng ta cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa khi để lòng chúng ta yêu chuộng các sự thế gian hơn yêu mến Thiên Chúa, khi sống trong tình trạng tội lỗi.

Đâu chỉ có các bà!

Dân Chúa hôm nay có trong đó có tôi, có chị, có nam có nữ, có ông già bà già và cả con nít..thảy đều phạm tội ngoại tình.. xét theo nghĩa, ngoại tình là không chung thủy lời hứa hôn phối với Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, qua lời hứa từ bỏ ma quỉ và các việc của nó…

Có người ngoại tình chạy theo lời dụ ngọt của lợi nhuận vật chất, của sự bảo bọc bao che cho những sai trái của mình mà phải làm tay sai cho một thế lực chống lại Thiên Chúa.

Có ông ngoại tình hết mình lo tiền bạc là vì xem tiền bạc là cứu Chúa đời mình mà quên việc phục vụ tha nhân.

Có ông vì run sợ trước họng súng để vào tai, trước lưỡi dao kề bên cổ, trước những đe dọa bắt bớ bỏ tù mà đành phản bội với Chúa Kitô và Thập giá của Ngài.

Có người muốn kết duyên với “chức trọng quyền cao” mà không chu toàn bổn phận đầy gian nan khổ ải, đòi hỏi những hiến thân phục vụ cho chân lý.

Cũng có những người ngoại tình vì những khát vọng khoái lạc chóng qua mà bỏ rơi Thiên Chúa muôn đời hằng hữu.

Có ông ngoại tình “bắt cá hai tay” không mất chuyện trong đạo mà được cả chuyện ngoài đời, trong ngoài đều có lợi……

Ma quỷ khôn ranh tạo ra muôn hình vạn trạng cách phạm tội ngoại tình đối với lời thề hứa chung thủy với Thiên Chúa và còn đưa dẫn chúng ta cách tài tình đến chỗ phải làm thân nô lệ cho tội lỗi.

Không ai vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi".

Lời Chúa xoáy vào tâm can mỗi người. Từng người rút êm. Không ai dám cầm viên đá mà quăng vào người phụ nữ.

Cách đây không lâu, chỉ vài chục năm thôi, tôi còn nhớ như in hình ảnh những cô “ăn cơm trước kẻng”, những bà có chồng công khai chung sống với người khác, đứng trước cộng đoàn đọc bản tự thú để được tha vạ mà xưng tội rước lễ. Tôi cũng thấy có các cô thôi, không thấy các anh, các ông. Các cô, các bà ấy bị những biện pháp chế tài vì là tội nhân công khai -có lẽ công khai vì cái bầu - Có nơi còn phải bị nộp phạt cho giáo xứ nữa.

Những dịp ấy, có nhiều tiếng xì xào trong nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ, cả cô và bà đều cúi gầm mặt xuống mà đi vì xấu hổ trước mặt mọi người. Rồi, nếu có lễ cưới, thì Bí Tích Hôn Phối bị gọi là Phép Giao, cử hành trong phòng thánh mấy phút là xong.

Tưởng là khủng khiếp cho một não trạng phân biệt đối xử như thế, nhưng ít nhiều cũng đã bảo đảm được cho lớp trẻ một thời biết gìn giữ đức khiết tịnh tiền hôn nhân, lớp già biết gìn giữ đặc tính đơn hôn trong hôn nhân công giáo.

Xin một chút tản mạn ngoài lề… Còn thời nay… “Mẹ lạy con đừng phá cái thai ấy. Đã lỡ phạm tội, lỡ có bầu rồi, con đừng phạm thêm cái tội giết người nữa con ơi! Phá thai là giết người không có sức kháng cự, không có khả năng tự bảo vệ, là giết chính con mình… Tội tày trời. Mẹ năn nỉ con…”

Còn thời nay…. người trẻ chưa sống đời vợ chồng, đòi sống thử đã đành, người già cũng sanh tật tìm hoa thơm cỏ lạ, thành ra tội lỗi khắp nơi khắp chốn, tội lỗi đủ mọi lớp tuổi, mọi thành phần. Sống thử, ngoại tình, phá thai, ly dị… trở thành đại dịch để lại những hậu quả khủng khiếp về đời sống luân lý cho không chỉ một thế hệ, và chắc chắn cũng là hậu quả vô cùng tệ hại đối với sự tồn vong của một dân tộc ….

Nhưng xin đừng kết án. Xin đừng ném đá. Chúa Giêsu bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38).

Thực tế, lòng người quá hẹp hòi ích kỷ, như bà De Girardin đã nói: “ đàn bà chỉ tha thứ sau khi đã trừng phạt”, hoặc như Tennyson: “đàn bà rất cay nghiệt với đàn bà”. Vâng tính đàn bà ấy lại ngự trị ngay trong lòng những người đàn ông tưởng như là độ lượng. Ngược lại, không thiếu những phụ nữ còn độ lượng hơn cả đàn ông.

Đối với Chúa Giêsu, tha thứ tuyệt đối là điều kiện tiên quyết để phục hồi tình trạng nguyên tuyền của hôn ước thánh thiện giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu là tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Lòng bao dung của Thiên Chúa được nhắc đến trong bài đọc 1, Is 43, 18-19: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”.

Vâng, Thiên Chúa không nhắc lại chuyện xưa, không dằn xé đay nghiến, không trừng phạt tức khắc, nhưng chỉ biết khoan dung kiên nhẫn chờ đợi và thứ tha vô lượng. Ngài còn mở ra một con đường của bình an hy vọng: “Đừng phạm tội nữa”.

Và để có một hướng định quyết liệt cho việc không tái phạm tội, thánh Phaolô chỉ dẫn: “Thưa anh em, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô…….

Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. (Pl 3,8-14)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là lòng khoan dung của Thiên Chúa, xin cho chúng con giữ lòng chung thủy với Chúa, và khi lỡ lầm, xin cho chúng con biết vững tin vào lòng tha thứ vô lượng của Chúa, mà quyết tâm nối lại duyên tình hạnh phúc vô biên với Chúa, và dứt khoát nói “không” với tội lỗi. Amen.

 

76.Lòng thương xót của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Tuần trước chúng ta được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).

Tuần này chúng ta lại được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, qua lời nói và thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình (x. Ga 8, 11-32).

1. Tha thứ sẽ cứu sống, kết án sẽ giết chết

Tội thì đáng phạt và hình phạt nặng nhất là phải chết. Nhưng Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, trái lại Ngài muốn nó ăn năn sám hối và được sống(x. Ed 18,23). Vì vậy, Chúa Giêsu thường lui tới với người tội lỗi không phải tìm cách kết án nhưng tìm cách để tha thứ. Tha thứ để cứu sống họ. Ngài đã từng tha thứ cho Mathêu, cho Mađalêna, cho Phêrô, cho kẻ trộm lành và cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài cũng dạy Phêrô tha thứ cho anh em không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Biết được tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu như vậy, nên những người luật sĩ và biệt phái mới giăng bẫy để làm hại Ngài. Họ dẫn đến với Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để nhờ Ngài xét xử. Cái bẫy họ giăng ra, nhằm mục đích làm cho Chúa phải tiến thoái lưỡng nan. Nếu Chúa Giêsu kết tội người phụ nữ, thì dĩ nhiên Ngài đi ngược lại với tình thương tha thứ mà lâu nay Ngài rao giảng. Mặt khác, Ngài sẽ vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái lúc bấy giờ. Còn nếu Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, thì Ngài lại đi ngược lại với Luật của tiền nhân. Vì theo luật Do thái, người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Nhưng, khi có lòng thương xót thì luôn tìm kiếm cách thế để cứu thoát. Cách thế của Chúa Giêsu lúc này là gì? Tin Mừng kể lại, sau khi nghe người Do Thái tố cáo, Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Có lẽ Ngài muốn làm thế là để giúp họ có thời gian xem xét lương tâm của mình. Đó cũng là thời gian để Ngài tìm cách giải cứu phạm nhân. Thánh Giêrônimô thì cho rằng Chúa Giêsu đang viết tội của họ. Nhưng vì họ cứ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Nhưng rồi, không thấy ai ném đá, tức là không ai trong bọn họ sạch tội. Lạ lùng hơn nữa, họ im lặng và “Rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”(Ga 8,9). Như vậy, Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Khi chỉ còn Ngài và người phụ nữ, Ngài nói: “Tôi cũng không kết án chị đâu”(x. Ga 8,11). Không kết án, đó là bản chất của Lòng Thương Xót. Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta đã rõ ràng: Nếu có Lòng Thương Xót thì sẽ tìm ra cách thế để giải quyết, cho dù sự việc có bế tắc đến đâu. Bởi vì, tình thương tha thứ bao giờ cũng cứu sống, còn kết án thì sẽ giết chết.

2. Cần sửa mình trước khi sửa anh em

Đối nghịch với Chúa Giêsu, là hạng người biệt phái và luật sĩ. Họ luôn tìm cách để kết án. Kết án có nguy cơ giết chết. Họ bắt được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, họ có quyền ném đá người phụ nữ này cho đến chết. Nhưng, họ muốn bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Đối với họ, đây là một cơ may để họ gài bẩy Chúa Giêsu. Cho nên, với thái độ đầy sát khí, họ lôi kéo người phụ nữ đến với Chúa Giêsu để gài bẩy người. Chúa Giêsu nói với họ: “Ai trong các ngươi sách tội thì hãy ném đá chị này trước đi” (Ga 8,7). Lời mời gọi xem ra nhẹ nhàng nhưng đã xoáy vào lương tâm của họ. Bởi vì, đã là con người thì ai cũng phạm tội: Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Thông thường, càng nhiều tuổi thì lại càng nhiều tội. Chính câu chuyện Tin mừng này thôi cũng cho ta thấy những người Do Thái đã mắc hai thứ tội rất nặng: Tội thứ nhất là “Bêu xấu người phụ nữ”; tội thứ hai là “Gài bẩy” để âm mưu giết chết Chúa Giêsu. Vì vậy, Thánh Luca kể: “Họ im lặng và rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất” (Ga 8,9). Hành động rút lui của họ, chứng tỏ họ biết nhận ra tội lỗi của mình. Đó là bước đầu của sự sám hối. Hy vọng, sau đó họ sám hối thực sự để trở về với Thiên Chúa tình thương.

Bản chất của con người thường hay che dấu tội mình, nhưng lại thích khuếch trương tội người khác. Tội của mình thì bỏ vào túi đeo sau lưng, còn tội người khác thì đeo vào chiếc túi trước ngực. Người xưa nói không sai: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Bài học chúng ta rút ra cho bản thân là: Phải sửa mình trước khi sửa người khác với nguyên tắc người xưa rằng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.

3. Từ nay đừng phạm tội nữa

Chúa Giêsu đã từng nói với người thanh niên, muốn được hưởng sự sống đời đời thì một trong những tội cần phải tránh là tội ngoại tình (x. Mt 19,18). Tội ngoại tình cũng là một trong những thứ tội phạm đến điều răn thứ 9 trong 10 điều răn của Chúa. Tội ngoại tình gây ra những hậu quả hết sức nặng nề trong đời sống gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng. Người ngoại tình sẽ đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu, dẫn đến việc đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà và ly dị. Có lẽ vì lý do đó mà theo luật Do Thái, ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và bắt buộc phạm nhân phải chết. Hình thức xử tội ngoại tình là ném đá cho đến chết. Tại Việt Nam chúng ta, ngoại tình dẫn đến ly hôn bị phạt tù 1 năm là nội dung được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 (Có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).

Việc Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, không có nghĩa là Ngài coi thường tội ngoại tình, nhưng để chị ta khi đối diện với “Lòng Thương Xót” mà hoán cải đổi mới cuộc đời. Vì vậy, Ngài nói với người phụ nữ: “Ta không kết án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Chúng ta không biết sau đó cuộc sống của người phụ nữ này như thế nào. Nhưng ai cũng hy vọng chị sẽ đổi mới cuộc đời của mình giống như Mathêu, Giakêu, Mađalêna sau khi gặp Chúa Giêsu. Tức là cái mới thay thế cho cái cũ, đời sống tốt lành sẽ thay thế cho đời sống tội lỗi, như lời mời gọi của Bài đọc thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện”(x. Is 43, 18-19). Chính Thánh Phaolô đã thực hiện triệt để lời mời gọi này. Sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Ngài đã quên đi quá khứ tội lỗi của mình và hướng tới tương lai để sống trọn ơn kêu gọi của Thiên Chúa. Ngài nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô”(Pl 3,13-14). Ước gì mỗi người chúng ta cũng luôn biết quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai, với một lòng dốc quyết mạnh mẽ “Từ nay tôi sẽ không phạm tội nữa”.

Lạy Chúa Giêsu, vì lòng thương xót, Chúa đã tìm cách để cứu người phụ nữ ngoại tình trước cái bẩy mà người Do Thái giăng ra. Xin cho mỗi chúng con có được lòng thương xót của Chúa, luôn biết nghĩ cách để cứu anh em mình hơn là kết án họ. Xin cho chúng con biết nhận ra tội lỗi của mình để thống hối ăn năn xưng tội và quyết tâm từ nay không còn phạm tội nữa. Amen.

 

77.Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình

(Chú giải và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)

Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Đức Giêsu.

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV ("Sách các Dấu lạ của Đức Giêsu", tức ch. 2–12), nhưng được coi như một bản văn không thuộc về bản gốc TM IV. Lý do: bản văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan trọng phát xuất từ Đông phương (chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P66, năm 200); các tác giả Hy Lạp viết về TM Ga thuộc thiên niên kỷ I không hề bình luận bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản văn Hy Lạp chuẩn. Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ vựng và văn phong của các TMNL, đặc biệt của TM Lc; nó có vẻ không ở đúng chỗ, dù là tại chỗ hiện nay (giữa Ga 7,52 và Ga 8,12), hay ở trong ngữ cảnh tổng quát là TM IV.

Giai thoại này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của Đức Giêsu ở Ga 8,15: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả". Chúng ta thấy như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản D (Codex Bèze), trong các thủ bản La-tinh cổ và tốt, và dĩ nhiên trong bản Phổ thông.

Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai của Đức Giêsu: cách thức xử sự của các người tố cáo được các đoạn khác của TM làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Môsê, và sự tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ rằng đây là công trình của tác giả Luca. Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép đoạn văn này vào sau Lc 21,38.

Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về các TM ngay từ đầu: rất có thể lý do mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá trọn vẹn Đức Giêsu ban cho người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh sơ khai quy định cho tội ngoại tình.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Khung cảnh (8,1-2);

2) Vụ "Người phụ nữ ngoại tình" (8,3-11):

a) Các kinh sư/Pharisêu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Đức Giêsu] (c. 3),

b) Các kinh sư/Pharisêu – Đức Giêsu – [Người phụ nữ] (cc. 4-6),

c) Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisêu: câu nói tạo khúc quanh (cc. 7-8),

b') Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisêu – [Người phụ nữ] (c. 9a),

a') Đức Giêsu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Các kinh sư/Pharisêu] (cc. 9b-11).

3.- Vài điểm chú giải

- vừa tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này trong TM IV, từ orthros, "bình minh" (orthrou, "lúc bình minh, lúc tảng sáng") chỉ xuất hiện trong TM Lc và Cv thôi (x. Lc 24,1; Cv 5,21). Riêng Lc 21,38 dùng động từ orthrizô, "dậy sớm".

- các kinh sư và người Pharisêu (2): Đây là một công thức quen thuộc của các TMNL, còn TM Ga thì chuộng kiểu nói "các thượng tế và người Pharisêu" (x. 7,32.45; 11,45.57); ngoài đoạn văn này, TM Ga không bao giờ nói đến các kinh sư.

- bị bắt gặp đang ngoại tình (3): Câu 4 sẽ xác định rõ hơn: "bị bắt quả tang đang ngoại tình". Theo Đnl 19,15, phải có ít ra hai người làm chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào nói đến anh tình nhân, có lẽ anh này đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với truyện bà Susanna (Đn 13,36-40 Vg).

- Thưa Thầy (4): Danh xưng didaskalos ở hô-cách[1] này rất quen thuộc với truyền thống Nhất Lãm; còn trong Ga, tác giả thường dùng từ Rabbi để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).

- trong sách Luật, ông Môsê truyền (5): Các kinh sư và người Pharisêu đang quy chiếu về Lv 20,10 và Đnl 22,22-24 để lý luận.

- Họ nói thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy Lạp.

- để có cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy Lạp.

- viết trên đất (6): Có nhiều gợi ý về điểm này.

1) Thánh Giêrônimô cho rằng Đức Giêsu đã viết tội của những người tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;

2) Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các người chứng để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo c. 6, Đức Giêsu đã viết lên đất câu Xh 23,1b: "(để làm chứng gian)", và dựa theo c. 8, Người đã viết Xh 23,7a. Với lại sách Đn đã quy chiếu về câu Xh này trong truyện bà Susanna (Đn 13,53);

3) T.W. Manson lưu ý rằng trong cách thực hành của Luật Rôma, trước tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn là c. 6 cho thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở c. 7; rồi ở c. 8, Người lại viết những gì sẽ công bố ở c. 11.

Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các đường nét trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng hay Người đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của những người tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả-rập cho thấy thói quen Sê-mít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào đó. Dù sao, chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung của những nét vẽ đó đã được kể lại.

- Ai trong các ông sạch tội,... ném trước... (7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl 17,7 nhìn nhận rằng người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc biệt đối với cái chết của kẻ ấy.

- họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? (10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm biếm? Có lẽ phải nói lời này vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm cho người phụ nữ, và như thế tương đương với câu: "Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này rồi". Vì những người chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi. Động từ "lên án" ở đây là động từ chuyên môn katakrinein; ở những chỗ khác, khi nói về sự phê phán, phán đoán, tác giả Ga luôn luôn sử dụng động từ trung lập hơn, đó là krinein (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16...).

4.- Ý nghĩa của bản văn

Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu nay chắc chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng bàn với những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương xót, sẵn sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái độ khinh bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho ra "nhơ uế". Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.

Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm này.

* Khung cảnh (1-2)

Đức Giêsu đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của đời Người. Nhiều chi tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy quyền chung quanh Đền Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói "toàn dân" để cho hiểu là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh hưởng lớn trên người Do Thái.

* Vụ "người phụ nữ ngoại tình" (3-11)

Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là cuối cùng họ đã có thể đưa Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh luận với Người nữa, mà họ điệu đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Vụ việc đã quá rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã có những người có uy tín nhất trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở đây chúng ta thấy có các kinh sư và người Pharisêu: các kinh sư là những chuyên viên về Luật; còn các Pharisêu là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật theo mặt chữ. Họ trích Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh nhiên: "Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử" (Lv 20,10; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt). Trường hợp ở đây thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả tang.

Các đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho Người. Họ đưa người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Đức Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận đi theo cách thực hành của các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức khắc? Hoặc là Người ưng theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ Người khinh thường Lề Luật. Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch nhật, trước sự chứng kiến của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng thuận với các xử sự của các đối thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của họ đối với những người tội lỗi, Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của Người và thế là Người sẽ bị lật mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại, nếu Người không chấp nhận lối xử sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ không ngõ thoát này?

Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống viết, hoặc vẽ những dấu trên mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời họ gì cả. Dường như Người hoàn toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ trên đất. Mọi người cứ chờ một lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin, người phụ nữ thì cam chịu, dân chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm gì? Người muốn làm cho các đối thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr 17,13, chúng ta đọc được: "Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất, vì chúng đã bỏ Yavê, mạch nước hằng sống" (Bd NTT). Phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa, nên tên họ đáng bị viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng, thúc bách Người cho câu trả lời.

Từ đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện chuyển sang hướng khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người Pharisêu. Bấy giờ Đức Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề Luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử người phụ nữ chỉ như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như một bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại, Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã quên mất, đó là tình trạng thật của họ trước mắt Thiên Chúa: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (c. 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa bản thân ra mà xét đoán. Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và viết nữa. Thế là xảy ra một kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện để chấp nhận lời Đức Giêsu trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.

Khi Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng đó. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (c. 10). Tất cả mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu mới lấy lập trường: chính Người cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng Người khuyến cáo: "Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (c. 11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối sống của người phụ nữ này hoặc giảm thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà đã làm là tội lỗi, là những điều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho bà thấy trách nhiệm mới của bà.

+ Kết luận

Một giai thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với người thân cận. Người phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về giáo lý cứu độ của Đức Giêsu.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và người Pharisêu thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ nôn nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự việc, kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện ý đồ gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có thể trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisêu coi người phụ nữ ngoại tình như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể là một bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động, cần phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt 7,1-5).

2. Bài Tin Mừng này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn tất. Là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là Đấng Cứu Thế, Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến để chữa các bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Người.

3. Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm lỗi, chúng ta cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thế thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin kết án kẻ khác? Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay chúng ta có một niềm vui thiếu lành mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có cảm tưởng mình không có tội (x. 1 Cr 13,6)? Chúng ta khó chịu với các kinh sư vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không giống họ sao? Chúng ta lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào họ đó sao? Chúng ta cần ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn cứu chữa như Đức Giêsu đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính chúng ta liên tục đón nhận.

4. Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều đó không có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay. Ơn tha thứ cũng kèm theo một khuyến khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay đổi đời sống. Nếu hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh liệt kết án người khác, thì cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem chúng ta đã đi xưng tội bao nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ, và rồi đã sống theo lời khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: "Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Tại sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi tìm ra và công khai hóa các lỗi lầm của người khác?

5. Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không hạnh phúc và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: "Chị cứ đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!", nhưng dường như muốn bảo: "Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng đời sống chị nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú". Không ai ghét tội cho bằng Đức Giêsu, bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng Người không kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào những gì kẻ tội lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: "Từ nay đừng phạm tội nữa!"

-------------------------

[1] Vocative: một sự thay đổi về ngữ pháp trong danh từ để diễn tả việc xưng hô.

 

78.Chú giải của Noel Quesson

Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ

Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.

Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.

Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. "Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình... Chị ta đáng chết... luật lệ đã rõ ràng" (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.

Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó

Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?

Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?

Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.

Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người

Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. "Ông ấy ăn uống với người tội lỗi". Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là "vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.

Vụ án biểu tượng:

Bị cáo: Một người phụ nữ.

Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu

Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.

Bản án: Tử hình

Vụ án thực sự:

Bị cáo: Đức Giêsu

Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu

Tội phạm: Phạm thượng

Bản án: Tử hình

Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất

Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.

Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ...Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến "lãnh vực khác".

Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ

Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…

Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi

Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê" hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.

Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.

Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình" bằng những hành động "điếm đàng". Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!

Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi

Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ "lần lượt" âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.

Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, "không lên án" chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc... Chị ta đã thoát chết... Chị không còn là người “ngoại tình" nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.

Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa

Sự “khốn khổ” đối với "lòng xót thương", Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.

Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"

Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả" (Ga 8,l5). "Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ " (Ga 3,17).

Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: "Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.

“Đừng phạm tội nữa". Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi... " Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!

 

79.Chú giải của Fiches Dominicales

Đức Giêsu mở ra một con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình; trong khi những kẻ tố cáo lại muốn giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Trước bẫy giăng của đối thủ

Câu chuyện quí giá này tự nó có thể là một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu từ nơi Thiên chúa đến, không phải để tố cáo tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người dâng tặng họ chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ. Các thủ bản đầu tiên của thánh Gioan không có. Với những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.

Tại sao có sự do dự này? A. Marchadour giải thích: "Câu chuyện thì xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai ngại sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Đức Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị chức trách cho là quá dễ dãi quá. (Họ quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa"). Dễ dãi thế đe doạ sự trung tín trong hôn nhân" ("L'Eavngile de Jean", Centurion 1992. trg 121).

Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.

"Các kinh sư và những người Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu làm đảo lộn tất cả, nên họ quyết định trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.

Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ "bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào "giữa" đám đông đang tụ họp và nói với Đức Giêsu: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?"

Bẫy đã giăng, thoát thế nào được! Tha, Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Đức Giêsu.

Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi lớp học, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu phụ cũng như đối với chính Đức Giêsu.

Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu "cúi xuống" và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.

Các nhà chú giải rất quan tâm tìm hiểu xem Đức Giêsu viết gì trên đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia (17,l3): "tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất ". A. Marchadour cho rằng: "Tốt nhất nên trung thành với sự mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch trên đất để kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng". (sđd; trg 124).

Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Đức Giêsu "cúi xuống", rồi "ngước lên". X. Léon-Dufour thắc mắc: "Sao lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?" Rồi trả lời: "Tên núi Ôliu được nhắc đến ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa" ("Lecture de l'evangile selon Jean", Cerf, tập 2, trg 313).

2. Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu là sự thinh lặng.

Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: "Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi". (Dnl 13,9-10 và 11,7: "Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.

Các kinh sư và những người Pharisêu đinh ninh mình công chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Đức Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan toà phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như "người phụ nữ kia", người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.

Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: "Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất".

3. Rồi lời giải thoát đến:

Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên "lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ". Thánh Augustinô chú giải: "Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”.

Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là "hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: "Này chị". Hơn bất cứ ai khác, Đức Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một "Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa ".

Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện "độc giả cũng thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa" (x. Léon-Dufour, Sđd, trg 332).

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Một mạc khải sâu xa về bản chất của tội lỗi

Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.

Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ... theo cái nhìn của Thiên Chúa.

Tội lỗi, trước tiên là một thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia đình, cộng đồng... không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình là điều rất rõ. " Đừng phạm tội nữa".

- Ý niệm về lỗi phạm... Nếu trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn "mối tương quan với Thiên Chúa". Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu xa về tội lỗi.

Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương "khuôn mặt" của Người... nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.

2. Một lời nói và một ánh mắt giải phóng và cứu độ.

Những người Pharisêu tốt lành và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.

Sẽ không có sự kết án, cũng không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và trung tín như các ông tự phụ.

Một bài học thật là nặng nề, khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng hẹp hòi của con người. "Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy không? "

Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận giả dối của “những người công chính" cho rằng mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội người khác.

3. Một vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta.

(“Célébrer", tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).

Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).

Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.

Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.

Vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và " sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.

 

80.Tình thương tha thứ và biến đổi

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

1. LỜI CHÚA: "Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"

2. CÂU CHUYỆN: Về cuộc hoán cải của một tội nhân:

TA-XI-A-NA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là "Về Một Cuộc Đổi Đời Kỳ Diệu". Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi trở nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Ta-xi-a-na được tóm gọn như sau:

Ngay từ khi còn bé, Ta-xi-a-na đã được chịu phép Rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do thường hay gây gỗ và cứng đầu nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ em khó dạy. Ngay từ nhỏ, Ta-xi-a-na đã tỏ ra căm thù tất cả những gì gò bó, ép cô vào khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy bị mất tự do và không thể làm theo ý mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Ta-xi-a-na đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám ma-cô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen...! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yô-ga. Khi tập luyện Yô-ga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha để thay cho bài văn vần kia. Ta-xi-a-na đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Ta-xi-a-na: "Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh?" Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giêsu. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được đổi mới hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau: "Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà cô đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi mất khả năng sinh con. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự: Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa! Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tâm can tôi. Sau cùng tôi thật xúc động khi nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân".

Sau lần xưng tội ấy, Ta-xi-a-na đã cảm nghiệm thấy cô đã gặp được chính Chúa Giêsu và được Người tha thứ mọi tội lỗi quá khứ. Ta-xi-a-na không những đã được ơn tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô trở nên một tạo vật hòan tòan mới của Người.

3. SUY NIỆM:

1) Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu đã bênh vực và tha thứ tội cho một phụ nữ ngoại tình. Người còn biến đổi chị nên một con người mới. Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu chúng ta nhận biết sự yếu hèn của mình để hồi tâm sám hối nhờ gặp Chúa Giêsu trong bí tích giải tội. Chắc chắn chúng ta sẽ được Người tha thứ và còn được ơn biến đổi nên một con người mới.

2) Bí tích giải tội là bí tích do Chúa Giêsu thiết lập, để tha các tội riêng ta đã phạm từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội thánh. Bí tích giải tội còn được gọi là bí tích giao hòa, hòa giải hay bí tích sám hối. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này vào chiều ngày phục sinh, khi Người hiện đến với các tông đồ trong nhà tiệc ly và phán rằng: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23). Bí tích giải tội ban cho ta các ơn này: Một là tha tội để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng đã gây ra cho ta và tha một phần hình phạt tạm. Ba là ban sự bình an cho tâm hồn và gia tăng sức mạnh giúp ta chiến đấu chống lại các cơn cám dỗ của ma quỷ. Bí tích giải tội rất cần cho người tín hữu, vì giúp họ nhận được ơn tha thứ tội lỗi đã phạm đến Thiên Chúa, làm tổn thương phẩm giá con người và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội Thánh. Chỉ các giám mục và những linh mục có quyền giải tội mới được ban phép giải tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Ba Ngôi. Những ai đã phạm tội trọng thì cần phải nhận lãnh bí tích giải tội; còn ai chỉ mắc tội nhẹ thì không buộc xưng tội, nhưng nếu họ có lòng ăn năn mà xưng thú tội lỗi thì sẽ nhận được nhiều ơn ích thiêng liêng. Muốn lãnh nhận bí tích giải tội ta cần làm bốn việc: Một là xét mình; Hai là ăn năn dốc lòng chừa; Ba là xưng tội; Bốn là đền tội. Ngoài việc xưng tội, Hội Thánh còn dạy các tín hữu sám hối bằng các việc khác là: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái để chia sẻ cơm áo và khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.

3) Ngày nay một số khá đông các tín hữu không muốn lãnh nhận bí tích giải tội dựa vào một số lý do như sau:

* Do gương xấu của một số chủ chăn: Những tín hữu này không muốn xưng tội với lý do các vị chủ chăn cũng chỉ là những con người tầm thường với nhiều tội lỗi và bất tòan.

Tuy nhiên, chính Đức Giêsu đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các tông đồ vào chiều ngày phục sinh, dù các ông chỉ là những con người còn nhiều sai lỗi. Vì các ngài hành quyền "cầm buộc và tháo cởi" không với tư cách cá nhân nhưng đại diện cho Chúa Giêsu. Đàng khác, các hối nhân được ơn hóan cải hay không là do quyền năng Thánh Thần đã được chính Chúa Giêsu thổi hơi ban cho các tông đồ, như Tin mừng Gio-an đã ghi lại như sau: "Nói xong, Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).

* Do hiểu sai về hiệu quả của bí tích giải tội: Có người nói: "Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng thú một số tội đã xưng nhiều lần trước đó, mà không sao chừa được. Do đó xưng tội là một việc làm vô ích, thiếu hiệu quả và mất nhiều thời giờ.

Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác: Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh khó lòng chữa khỏi như: bệnh cao huyết áp đòi người bệnh phải uống thuốc hằng ngày, bệnh dị ứng nổi mề đay, bệnh "gút" gây đau nhức luôn phải uống thuốc giảm đau... Mỗi khi căn bệnh tái phát nặng hơn, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa điều trị và phải dùng một số loại thuốc giống nhau... Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do sẽ tái bị lại?. Nếu ta không đi khám và không uống các thứ thuốc trị bệnh quen thuộc nói trên mới là điều sai lầm. Cũng như mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa cho sạch, dù biết rằng đến mai cơ thể của mình sẽ lại bị dơ cần phải được tắm lại... Về phạm vi tâm linh cũng vậy: Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như: Dễ nổi nóng, hay nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ tự ái cao, lười biếng làm việc đạo đức, uống rượu say sỉn, thủ dâm để tìm hưởng lạc bất chính... Dù biết sau một thời gian có thể sẽ tai phạm, nhưng ta vẫn cần đi xưng tội để đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.

* Do xét mình cẩu thả: Có người chữa mình rằng: "Tôi xét mình mãi mà chẳng thấy có tội gì cần phải xưng. Nhiều khi phải cố tìm một "tội trọng cũ" để có tội mà xưng.

Việc không tìm ra tội nào không chứng minh chúng ta là người thánh thiện, nhưng có thể do chúng ta đã chai lỳ về tâm linh khi cho các việc làm sai là không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều yếu hèn như thánh Phao-lô đã thú nhận: "Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra là do đã xét mình cẩu thả mà thôi, như thánh Gio-an đã viết: "Nếu chúng ta nói mình không có tội, là chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1,8).

* Do xét mình thiếu sót: Kinh cáo mình có câu: "Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói việc làm và những điều thiếu sót". Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai... hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp...

Trong Tin mừng, Đức Giêsu đã đề cập đến tội thiếu sót này như dụ ngôn ông nhà giàu đã làm ngơ không giúp đỡ anh La-da-rô, một người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu cũng sẽ phán với những kẻ bỏ qua không chịu làm việc lành như sau: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các người đã không viếng thăm..." (Mt 25,41-45).

Những tội thiếu sót này tưởng chỉ là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể thành tội nặng nếu nó cho thấy trong ta không có tình thương và đồng nghĩa với tội giết người như thánh Gio-an đã viết: "Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó" (1 Ga 3,14b-15).

4. THẢO LUẬN:

1) Trong mùa Chay này, mỗi người chúng ta cần làm gì để biểu lộ lòng tin vào tình thương bao dung của Thiên Chúa?

2) Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói: "Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục cũng phạm nhiều tội như mình? Hoặc xưng tội làm chi để rồi chỉ sau một thời gian ngắn sẽ lại tái phạm các tội mới xưng? Sao không đợi đến lúc sắp chết sẽ xưng tội một lần cuối?"

5. NGUYỆN CẦU

- Lạy Chúa Giêsu. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng nhìn thấy và không hay biết? Xin cho chúng con biết bỏ đi những mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên những chứng nhân của Chúa trước mặt người đời.

- Lạy Chúa. Nếu Chúa đã không lên án kẻ có tội, không chấp nhất những điều chúng con sai lỗi, thì xin cũng giúp chúng con tránh kết án tha nhân. Khi thấy anh chị em con sai lỗi, xin cho chúng con biết tự xét và tu sửa tội lỗi nơi mình trước đã, rồi mới đủ uy tín để giúp sửa lỗi của anh em con. Bấy giờ xin cho chúng con biết khôn ngoan để nói đúng lúc và đúng phương pháp hầu chu tòan bổn phận "răn bảo kẻ có tội", như kinh "Thương người" đã dạy

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

81.Đứng dậy và đừng phạm tội nữa

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Ga 8: 1-11: Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng...

Ta bắt gặp Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, dẫn chứng của Gioan đầy sức thuyết phục "Con Một, Ðấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri" (Ga 1,18). Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô "Cha đầy tình thương xót" (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11).

Và rồi ta thấy trang Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội.

Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.

Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.

Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.

Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.

Và ta thấy rằng không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.

Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.

Trang Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời.

Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: "Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.

Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta hôm nay.

 

82.Cảm nếm tình Cha! - Huệ Minh

Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Môsê.

Thật ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và rồi, với lòng chai dạ đá trước anh chị em đồng loại để rồi họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.

Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ.

Thực chất, trong câu chuyện này họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng bẫy để Chúa Giêsu vấp phạm để loại trừ Chúa Giêsu. Họ chỉ lấy chuyện tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.

Chúa Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình và chính Ngài đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”.. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.

Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.

Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.

Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.

Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng, những con người hăm hở kết tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!

Thật thế, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.

Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.

Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.

Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.

Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”.

Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.

Với lời yêu thương tha thứ của Chúa Giêsu, ta chợt nhận ra rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta hiểu và nhận ra rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Chúa Giêsu đã không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa.

Lòng thương xót của Chúa hải hà trên vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.

Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.

Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.

Xin cho mỗi người chúng ta cảm nếm được hồng ân tha thứ của Chúa để ta cũng biết tha thứ và thương cảm anh chị em đồng loại như Chúa đã tha thứ và thương cảm mỗi người chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ