Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1431373

Thà Là Đau Khổ

THÀ LÀ ĐAU KHỔ

       Không khí tang thương của chiều thứ sáu như vẫn còn âm ỉ khắp vùng trời Palestine. Thật, chỉ cần nhắc lại cảnh tượng thê lương ấy, ai cũng cảm thấy mủi lòng. Đau đớn vì người lãnh án tử hình thập giá thì ít nhưng đớn đau vì người yêu thương mà chịu chết khổ nhục thì nhiều. Có ai yêu mà phải chết thảm thương như vậy? Nếu chỉ vì yêu thương mà phải chết nhục nhằn thì có quá tàn nhẫn, bất công không? Đã gọi là tình yêu thì phải mang hạnh phúc đến cho người yêu và kẻ được yêu chứ. Thật khó tìm câu trả lời xác thực được, chỉ còn biết lặng thinh mà chiêm ngắm, may ra bớt phần nào khó chịu.

      Có phải sau cái chết chiều hôm ấy, mọi sự đã kết thúc? Thế rồi cũng qua một đời người nhỉ, như bao người, kiếp sống nhọc nhằn, vất vả, cay đắng, tủi nhục... Chết có phải là hết, là giải thoát khỏi những tranh chấp, kèn cựa, ganh tỵ hay chết vẫn còn chưa hết? Vẫn còn nữa, còn nhiều nữa sau nấm mộ...

      Nếu Đức Giêsu chết chỉ để mà chết, nếu Ngài vì yêu mà chết thì mọi sự cũng sẽ hết. Như bao đời, ai trong nhân loại sống, yêu, thương rồi cũng sẽ chết, không có gì mới mẻ cả. Nhưng sự thực, mặc dầu chết cho tình yêu thật, nhưng cái chết ấy không phải là cuối cùng. Cái chết ấy là tột đỉnh của yêu thương, nhưng không phải là tận cùng, mà sự yêu thương còn kéo dài mãi cho đến vô tận. Tình thương Thiên Chúa dành cho con người không bao giờ thay đổi mà cũng chẳng bao giờ chấm dứt, tình yêu ấy bền vững đến vô cùng.

      Cái chết hôm nay của Đức Kytô, là một sự diễn tả bất tận của yêu thương, chứ không phải là án phạt mà cũng chẳng phải là sự thất bại. Tình yêu làm gì có thất bại, tình yêu đúng nghĩa không bao giờ có thất bại. Tình yêu đích thực bao giờ cũng tồn tại và không thay đổi, nó không lệ thuộc vào đối tượng được yêu mà hoàn toàn tuỳ thuộc vào chủ thể yêu. Chính chủ thể yêu khiến tình yêu sống, vậy giả như người yêu thương không bao giờ thay đổi thì làm sao tình yêu mất đi được. Sự phản bội, bất tín, không chung thuỷ của kẻ được yêu cũng không thể làm tình yêu thay đổi.

      Thật vậy, nếu Đức Kytô đã chết chỉ để mà chết như bao vạn vật, thì có lẽ niềm tin Kytô giáo trở nên vô hiệu. Tin vào một người đã chết thì chẳng còn gì hy vọng, nhưng thật ra chúng ta đã tin vào Đấng toàn thắng sự chết và Ngài đang sống, đang tồn tại, đang hiện hữu. Thiên Chúa không bao giờ chết, Ngài vẫn luôn luôn sống, điều quan trọng không phải là Ngài đã chết hay đã sống lại mà là việc con người có nhận ra sự hiện diện thật của Ngài hay không thôi.

      Mọi thất vọng, u buồn, chán nản, buông xuôi của cuộc tử nạn đã qua đi. Tình yêu đã chiến thắng, chân lý đã thuộc về sự thật. Sự thật đó là gì? Đó chính là Thiên Chúa là tình yêu. Ngài đúng thực là tình yêu, tình yêu ấy lớn lao đến nỗi toàn thắng trên mọi thế lực ác thần, ngay cả sự chết là tận cùng của tội lỗi. Tình yêu ấy chính là niềm hy vọng bất tận cho nhân loại.

      Ánh sáng phục sinh đã bừng lên, chiếu rọi hy vọng vào thế giới. Sự ác đã lui vào bóng tối nhường bước cho ánh sáng phục sinh chiếu toả khắp hoàn cầu. Kể từ nay Đức Kytô đã mang lại cho nhân loại ơn cứu độ vĩnh cửu. Bất cứ ai tin vào Người mà tuyên xưng niềm tin ấy đều được cứu độ. Tình yêu của Ngài đã làm cho con người sống, tất cả mọi người, không loại trừ bất cứ một ai, tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Việc còn lại của chúng ta là làm sao để ánh sáng phục sinh trở thành ngọn lửa soi đường cho chúng ta thắng vượt thử thách cõi trần mà sống cho Chúa. Điều quan trọng nhất của chúng ta là có dám sống niềm tin phục sinh trong đời?

      Nhân loại hay nhìn vào thập giá, chỉ nhìn bóng thập giá đã thấy nặng hơn ánh sáng phục sinh, cho nên lửa phục sinh không bùng cháy giữa đời thường là vậy. Kẻ có lòng tin cũng như người không sống niềm tin, chỉ nhìn vào bóng tối của chiều tử nạn mà quên đi niềm  vui hân hoan của ơn cứu độ sáng chúa nhật phục sinh. Phải làm sao, phải làm sao cho ngọn lửa yêu thương và hy vọng ấy cháy bừng trong tâm lòng mỗi người. Ngọn lửa dù nhen nhúm, bé nhỏ như niềm hy vọng chỉ cần được thấy xác Chúa như Maria Madalena, như Phêrô và các tông đồ cũng đủ phá tan tuyệt vọng.

      Tình yêu đã giúp Maria Madalena khám phá sự kiện mộ trống. Nếu không thao thức được viếng xác Thầy sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì làm sao cô biết được thân xác Thầy đã không còn ở trong mộ nữa để mà báo tin cho người thân cận. Nếu không bỏ lại tất cả: sự tuyệt vọng, nghi ngờ, e ngại, sợ sệt để tháo chạy đến mồ, thì làm sao Phêrô và môn đệ Thầy yêu tận mắt chứng kiến các băng vải và khăn che mặt của Thầy đã được xếp gọn ra một chỗ để mà tin. Nếu không đến tận nơi, không tận mắt chứng kiến, làm sao kí ức đẹp về Thầy có thể trỗi dậy và sống để môn đệ Chúa yêu có thể tin Thầy đã sống. Thật vậy, nếu nhân loại ngàn đời vẫn tuyên tín niềm tin vào sự tử nạn và phục sinh của Chúa mà không sống niềm tin ấy, thì mọi niềm hy vọng cũng thành vô hiệu. Đã tin là phải sống, bằng không chỉ là sự ảo tưởng hão huyền.

      Bàn về tình yêu đẹp, sự tự huỷ tuyệt đối, sự hiến mình toàn vẹn giữa thế giới ngập tràn giả trá và thực dụng này, xem như hành động thổi cát vào đại dương. Nhân loại ngày nay không còn tin vào tình yêu đẹp nữa rồi, nói đến nó như nói đến một cái gì mơ hồ, trừu tượng đối với họ. Thực tế người ta thích hưởng thụ, thích cái gì thoả đáp nhu cầu thị hiếu là hơn cả. Tình yêu ngày nay như một món hàng, có tiền là mua được, không thích thì bán hay đem cho, đem tặng. Bởi vậy, chẳng còn mấy ai để tâm hồi tưởng lại hành động yêu thương mà chết tận cùng của Chúa, lấy gì bảo người sống hy vọng phục sinh. Không từng có trải nghiệm mầu nhiệm thập giá, thì làm sao bạn có thể sống niềm tin phục sinh đúng nghĩa được. Không phải ngày xưa chỉ có một Maria Madalena, ngày nay còn biết bao Madalena khác chỉ cho bạn biết tình yêu Đấng Cứu Thế nhưng bạn cũng chả tin. Làm sao bạn có thể tin nếu như bạn không thể rời bỏ khỏi căn nhà cũ kỹ của lòng mình, những bức tường bêtông cốt sắt chắc nịch bởi tham vọng, ích kỷ, bất công, giả trá. Hãy ra khỏi lòng mình đi bạn, chạy đến nấm mồ Chúa, ở đấy Ngài đang đợi bạn, để tỏ cho bạn mầu nhiệm phục sinh.

      Lạy Chúa, con từng tuyên xưng Đức Giêsu Kytô Con Chúa đã sống lại thật mà sự thực thì con chưa bao giờ sống mầu nhiệm phục sinh cả. Lúc nào con cũng chỉ thấy tang tím của chiều thứ sáu. Sự bất toàn của bản thân, những bất hảo, bất công của cuộc đời khiến con ngán ngẩm, mỏi mệt. Đời là gì vậy, đời chẳng là gì thật nếu đâu đâu cũng chỉ thấy toàn thập giá. Mà đúng ra, không biết có phải thánh giá thật hay chỉ là bóng cây thập giá. Dẫu sống niềm tin phục sinh là một thách đố nhưng xin cho con dám sống cho niềm tin ấy. Xin cho con can đảm bước ra khỏi đời mình, cởi bỏ khỏi cửa lòng vầng tang tím mà mỗi ngày con mỗi thắt chặt bởi kí ức đau buồn. Chỉ khi nào cởi bỏ khỏi nó con mới có thể sống cho Chúa được. Đường đến mồ Chúa ngay cạnh hồn con thôi mà, nhưng lại quá dài bởi con khép chặt lòng chỉ vì ích kỉ, hẹp hòi, nông cạn. Con muốn phục sinh thật, xin Ngài hãy phục sinh con. Chúa ạ, xin Ngài hãy phục sinh con khỏi vết trầy tội lỗi, những thứ đó làm sao có thể sánh được với giòng máu cứu độ mà Ngài đã tuôn chảy vì con cơ chứ. Tại sao con không để Ngài tẩy xoá cõi lòng cứng cõi của mình? Tại sao con vẫn không thể vượt thoát khỏi nó mà đến cùng Ngài? Nào có phải xa xôi gì, ngay trong lòng con kìa, Chúa phục sinh, Ngài đã xếp dẹp tội lỗi con ra khỏi đó, chỉ cần con biết cúi xuống, biết bước vào trái tim yêu thương của Ngài để cùng thắp lên ánh sáng phục sinh, niềm tin, niềm hy vọng cho thế giới. Cảm ơn Chúa, con thật cảm ơn Ngài vô cùng, bởi nếu yêu thực là đau khổ, nhưng Ngài đã thà là đau khổ mà đến được với con còn hơn cả đời con không được biết Chúa. Xin giúp con vì Ngài mà dám sống hiến tế như vậy, thà là đau khổ... còn hơn cả đời nhân loại không biết đến Ngài.

M. Hoàng Thị Thuỳ Trang, ICM.

home Mục lục Lưu trữ