Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 34
Tổng truy cập: 1434445
SỨ MẠNG ĐẦU TIÊN CỦA 12 TÔNG ĐỒ
SỨ MẠNG ĐẦU TIÊN CỦA 12 TÔNG ĐỒ
(Trích trong “Fiche Dominicale”)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Một sứ mạng bắt nguồn từ “lòng thương xót” của Đức Giêsu.
Sau những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu tại Galilê, câu 35 cho một cái nhìn tổng quát về hoạt động này: "Đức Giêsu rảo khắp các thành phố, làng mạc, rao giảng trong các hội đường. Công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chữa mọi bệnh hoạn, tật nguyền, nay đến giờ tổng kết, để tạo một đà lực mới cho sứ mạng. Nguồn mạch của đà lực mới cho sứ mạng này phát xuất từ cái nhìn của Đức Giêsu, từ trái tim Mục Tử nhân hậu của Người, từ "lòng thương xót" của Người đối với "đám đông mệt mỏi rã rời", tệ hơn nữa, bị những người có trách nhiệm hướng dẫn - Luật sĩ và Biệt phái - bỏ rơi vì những vị này khép lòng lại trước tính chất mới mẻ của Nước Chúa. Họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Thấy nhiệm vụ quá lớn lao mà phương tiện lại nghèo nàn, trước khi cất tiếng kêu gọi và sai các tông đồ lên đường sứ mạng, Đức Giêsu hướng tầm mắt các môn đệ về phía "ông chủ mùa gặt": “Hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến”.
2) Một sứ mạng không khác sứ mạng của Đức Giêsu
Nhân việc Đức Giêsu kêu gọi "mười hai môn đệ", tác giả Phúc âm phong cho họ tước hiệu "tông đồ" nghĩa là "được sai đi". Simon được gọi là "Phêrô" đứng đầu, Matthêu người thu thuế “ở chương 9,9; "Giuđa", “kẻ nộp Người".
Việc kêu gọi đi liền với việc sai đi truyền giáo được diễn tả dưới hình thức diễn từ, đó là diễn từ thứ 2 trong 5 diễn từ quan trọng của Phúc âm thứ 1 mà ta sẽ đọc Chúa nhật XII và Chúa nhật XIII sắp tới. Đoạn Phúc Âm hôm nay trả lời hai vấn nạn: Họ được sai đến với ai? Sứ mạng của họ là gì?
Đến với ai? Với cuộc hẹn cuối cùng tại Galilê, Đức Giêsu phục sinh đã mở chân trời truyền giáo ra tới "mọi dân tộc" (28,19). Còn hiện tại, những người được sai đi trước hết: "với những chiên lạc nhà Israel".
Sứ mạng gì? Y hệt sứ mạng của Đức Giêsu. Như Người họ sẽ loan báo việc Nước Thiên Chúa đến. Họ sẽ thực hành những cử chỉ nhân hậu của Chúa, những dấu chĩ mà tác giả Phúc âm, ở 11,2, gọi là "những công việc Đức Giêsu”. Khi nhớ lại rằng họ chỉ hành động như vậy nhờ Đức Giêsu ban các quyền năng của Người cho họ một cách nhưng không, họ đã đi đến một thái độ sống nghèo "Anh em đã lãnh nhận nhưng không, hãy ban nhưng không”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) Chính nơi trái tim Đức Giêsu ta tìm thấy động lực cho việc truyền giáo, sứ mạng của ta (Mgr. L. Daloz, le Règne de Diêu s'est approché DDB).
Cho tới nay, Đức Giêsu chưa trao cho những kẻ kêu gọi một nhiệm vụ nào. Giờ đây Người sắp trao cho họ và sai họ đi. Trước đó, Matthêu đã cho ta thấy nguồn cội của sứ mạng của họ: Thấy đám đông, Người động lòng thương, vì họ mệt mỏi rã rời như bầy chiên không người chăn dắt. Rất nhiều lần, Phúc âm đã nói về lòng thương của Đức Giêsu đối với đám đông. Nguồn cội của việc sai đi, của sứ mạng truyền giáo là tình thương của Đức Giêsu, tình thương mà ta gọi là lòng thương xót, không phải là sự hạ cố, nhưng vì tình thương ấy đã nhìn thấy đám đòng mệt mỏi rã rời" và Đức Giêsu đã xúc động… Từ ngừ Hi Lạp còn nói mạnh hơn: Người đau thắt ruột lại. Chính nơi trái tim Đức Giêsu, nơi sự âu yếm của Người, nơi sự xúc động tâm can của Người, ta tìm thấy động lực của sứ mạng truyền giáo của ta. Có lẽ ta nghĩ rằng lời kế tiếp sẽ là lời mời gọi lên đường làm việc thu hoạch mùa màng, vì có quá ít thợ ! Nhưng Đức Giêsu lại không nói điều đó với các môn đệ. Hãy nghe Người: Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ gặt đến. Tự nguyện chưa đủ. Quảng đại chưa đủ. Còn phải hiệp thông với tình yêu của Chúa Cha, ông chủ ruộng nữa. "Lòng thương xót" của Đức Giêsu diễn dịch tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại lầm lạc. Vâng, thật cần thiết, những người muốn làm việc cho mùa gặt, loan báo Nước Trời, làm chứng Phúc âm, đi kín múc từ nguồn tình yêu làm cho hoạt động của họ có ý nghĩa. Lời kêu gọi trước hết là theo Đức Giêsu. Hiểu biết Đức Giêsu, nhận biết Người là Đấng Cứu Thế, Đấng đến nhân danh Chúa Cha, để Người khai tâm mở trí, chiêm ngắm người, năng lui tới với Người, khám phá bằng nghe Người nói, nhìn Người hành động không mỏi mệt, và tặng ban chính sự sống của Người, thấy Người xúc động vì "thương xót" đến mức nào, thổn thúc vì khổ đau của nhân loại... và như thế, chia sẻ sự bao la, sự sâu xa của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu không giới hạn cháy bỏng: Thiên Chúa muốn nhân loại vào một cuộc xuất hành khác với cuộc xuất hành do Mosê hướng dẫn, muốn ban cho nhân loại một cuộc giải phóng vĩ đại hơn! Đó là tất cả điều kiện của một sứ mạng thực sự, không phải là trước khi lên đường, nhưng không ngừng, ở nền tảng của sứ mạng. Trước đây, không biết diều đó, ta vẫn có thể xúc động trước nỗi khổ của con người, trước sự thiếu thốn của họ và dấn thân phục vụ họ, can đảm hành động. Điều đó rất quan trọng, và đó cũng là công việc của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng Phúc âm còn đưa ta đi xa hơn: Nó mạc khải tình yêu mà chính Thiên Chúa mang đến cho nhân loại, say mê, không mỏi mệt. Đời sống và cái chết của đức Giêsu là bằng chứng hùng hồn về điều đó. Người mời gọi ta đến chia sẻ tình yêu ấy làm tôi tớ phục vụ tình yêu ấy cho anh em ta, bắt tay vào hành động vì Người sai ta đi truyền giáo truyền giáo không phải là tác phẩm của ta. Cũng không do sáng kiến của ta truyền giáo đâm rễ sâu trong lời cầu nguyện làm trái tim và ý chí ta phù hợp với tình yêu trong trái tim Thiên Chúa. Truyền giáo không thể tách rời cầu nguyện: Hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai thợ gặt đến.
2. Chúng ta là Giáo Hội (L. Sintas, Parole de Diêu pour la méditation ét lhomélie, Médias Paul).
Sứ mệnh trao ban cho các tông đồ cũng là sứ mệnh trao ban cho ta hôm nay. Giáo hội hôm nay chính là chúng ta. Vậy đến lượt ta phải loan báo Nước Thiên Chúa đã đến. Chắc rằng ta không đi tìm mặt trời giữa đêm khuya. Xuyên qua hoạt động hằng ngày, cuộc sống gia đình, nghề nghiệp, ta có thể, hoặc trở nên tôi tớ của Vương quốc sự dữ khi ta gieo rắc chia rẽ, vun trồng ghen tương, ích kỷ, hoặc trở nên chứng nhân cho hoạt động của Thiên Chúa khi trở thành men tình bạn, men bình an, men hoà giải. Cần cầu nguyện để nhắc nhở những gì Thiên Chúa đã làm cho ta dù ta tội lỗi. Nhưng cầu nguyện còn có mục đích giúp ta kiên vững trong sứ mệnh là tác nhân hoà bình, chữa lành bệnh và hiệp thông. Muốn là Kitô hữu, phải làm cho cách hành động của ta phù hợp với niềm tin. Đó là cách duy nhất để trở thành tông đồ, làm cho Giáo Hội nên sống động và có sức hấp dẫn. Thực vậy, đối với những người không cùng chia sẻ niềm tin với ta, thành phần hữu hình của Giáo Hội mà họ thấy được chính là các Kitô hữu cụ thể ở làng ta, trong khu phố ta ở. Là chính chúng ta. Chính ta có trách nhiệm tạo cho Giáo Hội một khuôn mặt của Thiên Chúa, khuôn mặt ấy có sức lôi cuốn mọi người sống quanh ta. Đó là loan báo Nước Thiên Chúa đã đến
3. Cầu nguyện và truyền giáo (Mgr. R. Coffy, cine Ezlta qui célêber ét quiprie, Le Centurion).
Truyền giáo là lãnh nhận trước khi là hành động. Truyền giáo chỉ là hành động nhân danh Đấng sai đi. Được sai đi chính là hành động nhân danh ai. Nó giả thiết mối quan hệ quen thuộc thông thường giữa người sai và kẻ được sai, trong sứ mạng tông đồ, đó là cầu nguyện. Hoạt động truyền giáo không dựa trên cầu nguyện sẽ có nguy cơ trở nên hoạt động thuần tuý nhân loại chứ không còn là hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người. Nói về truyền giáo mà không nói trong cầu nguyện, có thể vi phạm tính cách chân thực của sứ mạng.
37.Truyền giáo
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã đưa ra hai hình ảnh để nói lên tình trạng đáng thương của họ. Đó là hình ảnh đàn chiên và hình ảnh cánh đồng lúa chín.
Trước hết là hình ảnh đàn chiên. Thực vậy, đàn chiên mà thiếu vắng người chăn, thì rồi sẽ như thế nào? Những con chiên ấy làm sao biết được con đường dẫn tới đồng cỏ non và dòng suối mát. Những con chiên ấy làm sao chống trả được với nanh vuốt sói rừng. Những con chiên ấy làm sao tìm được nơi nghỉ ngơi an toàn qua đêm. Phải, nếu không có người chăn, chắc chắn đàn chiên sẽ bị tan tác.
Tiếp đến là hình ảnh cánh đồng lúa chín. Thực vậy, lời cảnh báo của Chúa Giêsu, từ ngàn xưa và cho tới ngày hôm nay, vẫn còn là một sự thật:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ sai thợ đi gặt lúa về.
Trong những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thay thế lúa mùa bằng lúa thần nông. Mà đã cấy lúa thần nông, thì hầu như vào cùng một thời điểm, nhà nhà đều xuống giống và nhà nhà đều thu hoạch. Vì thế, kiếm được thợ để xuống ruộng gặt lúa, đôi khi đã trở thành một vần đề nan giải. Lúa đã chín mà không có thợ, bị rơi rụng trên ruộng đồng, nhìn thấy mà xót xa.
Dĩ nhiên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói đến một mùa gặt thiêng liêng, cũng như muốn nói đến những người thợ vừa thành tâm, vừa thiện chí, lại vừa có đủ khả năng để đem lại những lợi ích cho các linh hồn. Bởi đó, chúng ta hãy cầu xin để có được nhiều người nhiệt tình đáp trả lời mời gọi của Chúa trên cánh đồng truyền giáo.
Tôi nghĩ rằng ơn gọi thì không thiếu. Cái thiếu duy nhất đó là sự quảng đại của con tim để đáp trả. Nhu cầu truyền giáo mỗi ngày một khẩn thiết, bởi vì rất nhiều người sẽ bị hư đi chỉ vì thiếu vắng các mục tử, các chủ chăn.
Hoàn cảnh hôm nay của chúng ta thật khác xa với hoàn cảnh của các môn đệ ngày xưa. Thực vậy, ngày xưa chính Chúa Giêsu đã qui tụ các ông, sai các ông đi và trao ban cho các ông những quyền hành đặc biệt, để được dễ dàng hơn trong việc thi hành sứ mạng của mình.
Đúng thế, chính Ngài đã phán:
- Các con hãy làm cho những người bệnh được khỏi, hãy làm cho những người chết được sống lại, hãy làm cho những người phong cùi được lành sạch và hãy xua trừ ma quỉ…
Sở dĩ như vậy là để mọi người có thể nhận ra rằng sứ mạng của các ông là sứ mạng xuất phát từ trời cao, xuất phát từ Thiên Chúa. Nếu như ngày hôm nay, các linh mục, tu sĩ hay các nhà truyến giáo cũng có được những quyền hành như thế, chắc hẳn việc rao giảng Tin Mừng sẽ dễ dàng hơn và sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, đó chỉ là một giấc mơ, hay chỉ là một phép lạ. Đúng thế, đừng mơ mộng nữa mà phải trở về với thực tế. Thời buổi buổi bây giờ phép lạ rất họa hiếm và chỉ xảy ra trong những trườn họp đặc biệt mà thôi.
Trở lại với các môn đệ. Trước hết Chúa Giêsu sai các ông đến với những người Do Thái, những con chiên lạc của nhà Israen, rồi sau đó, đến với các dân tộc. Các ông đã lên đường và hăng hái rao giảng:
- Nước Trời đã đến gần.
Trải qua hai ngàn năm, sứ mạng truyền giáo, sứ mạng rao giảng Tin Mừng vẫn còn là một sứ mạng cấp bách, bởi vì trên toàn thế giới mới chỉ có hơn 30% dân số nhận biết Đức Kitô, trong đó người công giáo chỉ chiếm có 17% mà thôi. Còn tại Việt Nam, số người công giáo chưa được 10%.
Sứ mạng truyền giáo, sứ mạng rao giảng Tin Mừng không phải là một sứ mạng được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Trái lại, phải là một sứ mạng chung của mọi Kitô hữu. Bởi vì đã là Kitô hữu, chúng ta đều có bổn phận phải làm cho thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô, tức là Giáo Hội, được phát triển, được lớn lên. Tuy nhiên, chúng ta đã thực thi sứ mạng trọng đại ấy như thế nào? Chúng ta đã góp phần vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo Hội ra làm sao? Đừng hỏi rằng Giáo Hội đã làm được những gì cho tôi, nhưng hãy tự vấn lương tâm xem tôi đã làm được những gì cho Giáo Hội?
38.Truyền Giáo
Hẳn chúng ta đều biết SOS là ba chữ viết tắt trong tiếng Anh bởi câu: Save our soul, có nghĩa là hãy cứu lấy linh hồn chúng tôi. Đây là một tín hiệu khẩn cấp. Đúng thế, khi một chếc tàu bị lâm nguy, thì lập tức vị thuyền trướng phải dùng máy vô tuyến điện gửi đi những tín hiệu khẩn cấp ấy. Và theo luật làng hải quốc tế, thì bất kỳ chiếc tàu nào nhận được tín hiệu này, đều có bổn phận phải chạy đến tiếp cứu.
Cách đây mấy năm, một đoàn thám hiểm dùng khinh khí cầu khởi hành đi bắc cực. Lúc trở về, họ gặp phải cơn bão lớn. Khinh khí cầu của họ bị cuốn đi như một chiếc lá. Sau cùng đã rớt xuống một vùng băng tuyết, cách xa làng mạc hàng trăm cây số.
Nghe có tiếng kêu cứu khẩn cấp phát ra từ một đài vô tuyến, người ta hối hả tổ chức đoàn cấp cứu. Những chiếc tàu phá băng được gửi tới nơi xảy ra tai nạn. Những chiếc phi cơ bay đi tìm đoàn thám hiểm mắc kẹt trên vùng băng giá. Sau cùng, họ đã tìm thấy và đã cứu thoát những người gặp nạn.
Ngăm 1932, có một phi cơ bị rớt giữa sa mạc Sahara. Suốt một tuần lễ, cả miền bắc Phi được đặt trong tình trạng báo động, sẵn sàng lên đường để cứu giúp chiếc phi cơ lâm nạn.
Chúng ta ca tụng những nghĩa cử cao đẹp ấy, thế nhưng nếu suy nghĩ, con người chúng ta gồm có hồn và xác. Phần hồn thì cao trọng hơn phần xác bội phần. Thế nhưng giờ đây có biết bao nhiêu linh hồn đang kêu cứu, đang gửi đi những tín hiệu khẩn cấp SOS, song lại không có một ai đã đến để giúp đỡ họ, không có một ai đã ném cho họ chiếc phao cứu độ. Hay nói theo Chúa Giêsu:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.
Thực vậy, Đức Kitô đã chết để cứu chuộc chúng ta hai mươi thế kỷ rồi, thế mà ngày hôm nay mới có khoảng 30% dân số nhân loại nhận biết Ngài. Riêng những người công giáo thì chiếm khoảng 17%. Và như vậy còn biết bao nhiêu người đang ngồi trong bóng tối, chưa được đón nhận ánh sáng Tin mừng. Giáo hội luôn đưa mắt nhìn họ, đồng thời sai phái những người con dũng cảm nhất của mình đến với họ.
Ngay tại quê hương Việt Nam, trong số 70 triệu dân thì mới có khoảng hơn sáu triệu là người công giáo, tỷ lệ chưa tới 10%. Rồi lại còn biết bao nhiêu xứ đạo hẻo lánh, vùng sâu vùng xa, vắng bóng các linh mục và tu sĩ, vì thế đức tin dần dần bị xói mòn và mai một. Đúng thế, bên cạnh chúng ta còn có biết bao nhiêu anh em lương dân chưa nhận biết Chúa.
Có ba em nhỏ cùng ngắm nhìn bức ảnh chuộc tội trong một gian hàng. Cả ba em cùng ngạc nhiên. Em thứ nhất bảo:
- Coi kìa, người ta đã tạo cho ông ấy một vẻ mặt thật đau khổ.
Em thứ hai liền hỏi:
- Tại sao đầu ông ấy lại gục xuống.
Em thứ ba trả lời:
- Hình như ông ấy khóc.
Các em dùng hai tiếng “ông ấy” vì em không biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu chết vì chúng ta và cho chúng ta. Qua những lời lẽ chân thành và đơn sơ ấy, chúng ta thấy các em mò mẫm tìm hiểu, nhưng không một ai đã dẫn đường chỉ lối cho các em.
Rồi trong số hơn sáu triệu người công giáo Việt Nam, tự hỏi có bao nhiêu người đã thực sự sống đức tin của mình? Có bao giờ chúng ta, những người công giáo, đã lắng tai nghe những tiếng kêu khẩn thiết của các linh hồn hay chưa? Liệu trái tim chúng ta có thể dửng dưng trước hằng triệu người đang lao mình vào cõi chết hay không? Chúng ta đã thực sự hiểu được giá trị của một linh hồn hay chưa?
Mỗi linh hồn chính là một người con cưng của Thiên Chúa, được Ngài dựng nên giống hình ảnh Ngài, được Ngài nuôi dưỡng bằng Mình Máu thánh Ngài, được Ngài cứu chuộc bằng những giọt máu đổ ra trên thập giá.
Hiểu như thế nên các thánh không ngần ngại chấp nhận mọi gian nan cực khổ để rao giảng Tin mừng hầu cứu vớt những kẻ đang bị tội lỗi vùi dập và cuốn trôi.
Một Phanxicô Xaviê, sau nhiều tháng lênh đênh trên biển cả, mới đặt chân lên đất Ấn độ. Người đầu tiên thánh nhân gặp trên bãi biển là một thiếu phụ nghèo túng, ẵm đứa con sắp chết trong tay. Thánh nhân tiến lại, giảng giải và ban bí tích rửa tội, rồi qui xuống cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho mình niềm an ủi lớn, đó là đã gửi được một thiên thần về quê hương vĩnh cửu.
Một vị tông đồ tại bắc cực đã phát biểu:
- Trên miềm băng giá này vẫn có những thương gia lặn lội tìm mua da gấu, thế mà không có một linh mục, một tu sĩ hay một giáo dân thiện chí nào đến tìm kiếm các linh hồn.
Một Martinô đã thưa cùng Chúa:
- Lạy Chúa, nếu con còn làm ích cho anh em, thì con sẽ không từ chối bất cứ lao nhọc nào.
Một Catarina muốn được đứng trước cửa hỏa ngục để ngăn chặn không cho các linh hồn rơi vào đấy.
Một Vianney đã nói:
- Nếu tôi đã đặt được một chân vào thiên đàng mà bỗng nhìn thấy một người cần cứu vớt, thì tôi sẽ không ngần ngại trở về trần gian để cứu vớt người ấy.
Thánh nữ Têrêxa cũng đã nói:
- Để cứu một linh hồn khỏi tội lỗi và hỏa ngục, tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống của tôi đến muôn ngàn lần.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc rao giảng Tin mừng, truyền bá Đức tin của Giáo hội?
39.Ơn thiên triệu
Một chàng thanh niên quí phái đang thong thả bước đi trên một con đường tại vùng quê nước Ý, đi ngược chiều, có một bà già quê ăn mặc rách rưới. Cảm động vì thân hình tiều tụy ấy, chàng thanh niên bước tới ân cần nhã nhặn an ủi, rồi chàng lấy ví ra tặng cho bà cụ tất cả số tiền mang theo. Cử chỉ nhân ái và món quà của chàng thanh niên đã khiến bà cụ xúc động, và khi được biết chàng thanh niên đó là người Công giáo, bà hứa mỗi ngày đọc một tràng chuỗi cầu nguyện cho anh được làm linh mục. Ngày tháng trôi qua, chàng thanh niên đã quên hẳn, không còn nhớ gì chuyện gặp bà cụ ấy, nhưng ít năm sau, lời cầu nguyện chân thành của bà cụ nghèo khổ ấy đã được Chúa chấp nhận. Anh trở thành linh mục, và còn hơn thế nữa, trở thành một Đức Giáo Hoàng thời danh, đó là Đức Lê-ô XIII.
Kể lại câu chuyện trên tôi muốn nói rằng: tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, hãy cầu xin Chúa ban nhiều thợ gặt, vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Hơn nữa, chúng ta cũng cầu xin cho các thợ gặt của Chúa trở thành những thợ gặt lành nghề, những thợ gặt nhiệt tâm làm cho nhiều người biết Chúa và đưa nhiều linh hồn về kho lẫm Nước Trời.
Quả thật, cánh đồng lúa thật bao la mênh mông, hàng triệu triệu người chưa biết Chúa, nhưng ai sẽ đem Tin Mừng cứu rỗi cho những người ấy? Ai sẽ mang Chúa đến cho những tâm hồn chưa biết Chúa ấy? Ai sẽ là chứng tá sống động của Thiên Chúa giữa một thế giới ngày càng lãnh đạm đối với những lời giảng dạy của Chúa? Chúng ta hãy cầu xin chủ ruộng gửi thêm thợ gặt. Thiên Chúa là chủ ơn cứu chuộc. Muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu kia, Chúa bảo chúng ta phải cầu nguyện. Cầu nguyện để Chúa ban nhiều thợ gặt và nhiều thợ gặt lành nghề, đó là công việc của mỗi người. Chúng ta có thể làm công việc đó bất cứ lúc nào và không bao giờ có gì giới hạn cả. Hơn nữa, chúng ta phải coi việc cầu nguyện này như một bổn phận thường xuyên, một nhiệm vụ hàng ngày của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì đã có những người ưng thuận làm linh mục, làm thừa sai để giúp đỡ chúng con, nếu các vị đó cũng thích đời sống dễ dãi, thích có một gia đình ấm cúng như chúng con, thì không biết hiện giờ thân phận linh hồn chúng con sẽ ra sao? Và nếu đâu đâu cũng vậy, thì thế giới này sẽ như thế nào?
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã ban cho các linh mục ý chí can đảm để sẵn sàng hy sinh, nhờ các ngài mà chúng con có bánh trường sinh nuôi dưỡng linh hồn, nhờ các ngài mà chúng con thành lập được những gia đình vững chắc, nhờ các ngài mà chúng con được tẩy sạch trong bí tích Giải tội, nhờ các ngài mà chúng con được chết bình an.
Lạy Chúa, chúng con cầu cho công việc của các linh mục. Xin Chúa cho các ngài thành công, nhưng đừng cho các ngài khải hoàn. Nếu các ngài có gặp thất bại, xin Chúa đừng để các ngài thất chí, bởi vì biểu hiệu một công việc đẹp lòng Chúa không phải tại thành công hay thất bại, nhưng chính là tình yêu Chúa. Xin Chúa gìn giữ các linh mục trong tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, chúng con xin Chúa cho các linh mục trở thành những nhà mô phạm đối với trẻ em, những nhà chuyên môn về vấn đề gia đình, những nhà tâm lý uyên thâm đối với thanh thiếu niên, những nhà thông thái và đầy kinh nghiệm trong tòa giải tội. Xin cho các linh mục biết đáp lại tất cả mọi lời chào, không phân biệt của ai, khi gặp họ ở đường phố, và nhất là biết trả lời cho tất cả mọi người với nụ cười luôn nở trên môi, cho dù trong lòng đang xao động vì phong ba và thể xác đang rã rời vì công vụ.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con biết phê bình các linh mục với tất cả tấm lòng quảng đại, vì công việc của các ngài quá nhiêu khê, phức tạp. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết tha thứ những khi các ngài lầm lỗi và thông cảm những khi các ngài nóng nảy, gắt gỏng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con bền chí cầu nguyện cho các linh mục, bởi vì cầu nguyện cho các ngài là ơn quí trọng nhất đối với chúng con và hữu ích nhất đối với các ngài.
40.Chạnh lòng thương
Trên báo Dấn Thân số 6 tháng 6 năm 2003, Trần Duy Nhiên tâm sự về “Mẹ Giáo Hội: Tự Hào và Xót Xa” như sau: “Họ đã vẽ lên một cơ chế quyền bính, hẹp hòi và áp bức. Không ít lần tôi có dịp gặp những linh mục đường hoàng là “cha: người ta, với quyền sinh sát thiêng liêng: các ngài ấy sẵn sàng giải tội khi tín đồ xúc phạm đến Chúa, và cũng chóng vánh “rút phép thông công” khi người ta xúc phạm đến bản thân mình, đến uy quyền mình. Tôi đã nhìn thấy những thánh đường nguy nga giữa đám giáo dân nghèo hèn rách nát, và ngày ngày đám dân nghèo ấy phải đến thờ phượng một Thiên Chúa vô tâm, thật cao vời nhưng cũng thật dửng dưng trước cái khốn cùng của con người”.
Đọc bài chia sẻ này tôi rất “xót xa”, vì tác giả đã đưa ra những nhận xét thực tế trái ngược với những điều Chúa Giêsu đã làm và giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay.
Sứ vụ thiên sai của Chúa Giêsu phát xuất từ một tình yêu thương tha thiết đối với nhân loại. Chúa Giêsu thương dân Do Thái khi Ngài nhìn thấy đám đông không có người lãnh đạo. Những quyền lực chính trị và tôn giáo đặt ra những loại thuế và luật lệ quá nặng nề để bóc lột dân chúng vì ích lợi cá nhân của những người lãnh đạo. Dân chúng lúng túng và hoang mang: “Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”.
Theo William Barclay, chỉ “splangchna” đã được dùng để diễn tả lòng thương xót của Chúa Giêsu, là tiếng mạnh mẽ nhất trong ngôn ngữ Hy Lạp. Nó có nghĩa là ruột, diễn tả sự sâu xa nhất của con người. Ngôn ngữ Việt Nam cũng nói “máu chảy ruột mềm” để diễn tả tình nghĩa cha mẹ, anh em với nhau. Nếu một người đau ốm hoặc chết đi, cả nhà đều đau khổ như chính mình bị đứt từng khúc ruột vậy!
Các Phúc âm đã diễn tả những hoàn cảnh làm cho Chúa Giêsu phải chạnh lòng thương khi đứng trước đau khổ của con người: đối với người bệnh, người mù, người bị quỉ ám; trước nỗi buồn: của bà góa thành Nain khóc thương con trai đã chết; trước sự đói khát của dân chúng; trước nỗi cô đơn, bị bỏ rơi của người bệnh phong.
Tôi trông thấy người đàn bà ngồi ngủ trước thềm nhà thờ khi đã đóng cửa. Mùa hè bà biến mất. Lúc sang đông, gió lạnh, bà ngồi co ro trong chiếc áo lạnh dài màu xám, đầu cuốn khăn len, chân đi giầy bút cao trên mắt cá, với một túi đồ có mấy tờ báo. Bà không nói chuyện với ai, chẳng thèm nhìn ai, lặng lẽ ngồi gục đầu xuống ngủ trước những con mắt dòm ngó của khách qua lại bên đường. Tôi đoán bà vô gia cư, nhưng không bao giờ nói chuyện hay xin ai cái gì, lại có vẻ bất cần đời.
Bà đã ngồi ngủ mỗi buổi tối ngoài trời giá lạnh như vậy khoảng mấy tuần lễ rồi. Tôi thắc mắc bà ấy từ đâu đến? Ở đâu? Muốn gì? Ăn uống ra sao? Đi vệ sinh ở đâu? Bà giải quyết thế nào đối với những nhu cầu tối thiểu của một con người cần phải có để sống? Sự hiện diện của bà trước ngôi thánh đường, và trước tòa nhà xứ ba lầu làm tôi áy náy lương tâm mỗi khi đi qua lại nhìn thấy bà. Tôi liên tưởng đến dụ ngôn ông nhà giầu và anh Ladarô trong Phúc âm của Luca 16, 19-31.
Đôi lần tôi thử chào, bà làm thinh. Có một lần tôi dừng lại hỏi thăm, bà xua tay như đuổi tà! Trời về khuya, mùa đông lạnh, tôi vào nhà xứ nằm trên giường nệm ấm áp, nhưng tiếng nói từ bên trong tâm hồn vẫn thôi thúc tôi phải làm gì. Có lẽ không bao giờ thay đổi được cuộc đời của bà, nhưng cũng đừng quên lãng hoàn toàn sự hiện diện của bà. Hãy có sự xúc cảm của con tim. Hãy tỏ ra có lòng thương xót. Đừng hững hờ kẻo sẽ trở nên chai đá!
Sau mấy lần “Hello”, bà có vẻ cởi mở hơn. Bà đưa tay vẫy chào mỗi khi tôi qua lại. Tôi đưa tiền bà không lấy, lại còn xua đuổi tôi hơn nữa: “Đi đi, đi đi!” Tôi chưa nghe bà nói câu nào, chỉ diễn tả bằng cử chỉ tránh né và từ chối. Có một lần thấy bà đang uống lon “coke”, tôi dúi vào tay bà 5 đôla và chỉ vào lon “coke”. Bà gật đầu như nói cám ơn, nhưng cũng e ngại như muốn nói hãy để tôi yên. Tôi không muốn làm bà cảm thấy bất an, đành bỏ đi. Sau đó tôi không thấy bà xuất hiện nữa.
Đôi khi suy nghĩ về bà, tôi tự hỏi tại sao tôi đã không làm gì hơn nữa để tỏ lòng thương xót? Cho bà một hay hai bữa ăn chẳng hạn, nhưng còn những ngày khác trong suốt cuộc đời bà thì sao? Có rất nhiều người trên thế giới cần đến sự giúp đỡ, nhưng phải bắt đầu từ đâu? Giúp bao nhiêu thì đủ? Lòng thương xót có một khởi đầu, nhưng có kết thúc không? Chắc chắn rằng chỉ một nỗ lực làm phước cho một người không phải là điều Chúa Giêsu muốn kêu gọi tôi hôm nay trong bài Phúc âm.
Lòng thương xót đối với dân chúng là động lực cho sứ vụ Thiên Sai của Đức Kitô. Chính Ngài đã chết và hy sinh cho nhân loại. “Chạnh lòng thương” tiếng Anh dịch là “compassion”, nguyên gốc từ tiếng La tinh “cum-patior”, có nghĩa là cùng chịu đau khổ với, Mẹ Têrêsa Calcutta đã khuyên rằng:
“Chúng ta hãy cho đi, hãy ban phát tình yêu chúng ta đã lãnh nhận cho những người xung quanh. Hãy cho đi, cho đến khi nó trở thành một việc hy sinh vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi hy sinh. Đó là lý do vì sao các bạn phải yêu cho đến khi chính tình yêu đó làm các bạn đau khổ”.
41.Chạnh lòng thương
Trước khi chọn 12 môn đệ, Chúa Giêsu cho họ nhìn thấy một viễn tượng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Mẹ Têrêsa Calcutta đã cụ thể hóa viễn tượng này trong thế giới ngày nay như sau:
Người nghèo khổ bất hạnh “không phải vì thiếu ăn thiếu mặc. Không, họ là những người đói khát tình thương mến, đói khát một sự cảm thông, một tình bằng hữu. Họ đau khổ vì sự cô độc, vì mặc cảm không được ai ưa, bị khước từ, họ là những người nghèo khổ trong tâm hồn. Những đói khát này còn đau khổ hơn nhiều sự đau khổ vì thiếu ăn thiếu mặc, hoặc vì nghèo tiền nghèo của”.
Nhận xét về thực trạng của thế giới ngày nay, Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Người ta không có thì giờ để ý đến những người nghèo, sự kiện này là nguyên nhân gây nhiều đau khổ. Ôi còn một nỗi cô đơn khủng khiếp nữa đang giam hãm người già cả trong một căn phòng nhỏ, họ hoàn toàn bị gia đình và bạn bè bỏ rơi… Tôi nghĩ đây là bi kịch thảm hại nhất đang xảy ra trong nhân loại ngày nay”.
Sau khi đối diện với một viễn tượng thiếu thốn tình thương của dân chúng và sự hững hờ của con người, Chúa Giêsu đã chọn ra 12 môn đệ để các ông cho đi và ban phát tình yêu. Mười hai tông đồ có vẻ như biểu tượng cho mười hai bộ lạc của Israel, con số hoàn hảo của một Israel mới. Trong số họ có những con người bình thường làm nghề đánh cá như Simon Phêrô và Andrê, Giacôbê và Gioan. Trong việc lựa chọn những người này, William Barclay đã đưa ra nhận xét:
“Họ là những người rất bình thường. Họ không có của cải, không có bằng cấp cao, không có địa vị xã hội. Họ được chọn ra từ những con người tầm thường trong xã hội.
Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường làm những điều bình thường một cách khác thường, Ngài nhìn thấy trong mỗi người, không phải cái mà người đó đang có, nhưng cái họ có thể trở nên dưới sức mạnh và ảnh hưởng của Ngài. Không ai được phép nghĩ rằng mình không có gì để dâng hiến cho Chúa Giêsu, vì Ngài có thể dùng cái tầm thường nhất mà con người dâng hiến để thực hiện những việc vĩ đại”.
Có một cuốn phim diễn tả về cuộc thế chiến thứ hai mang tựa đề là “The Dirty Dozen”. Câu chuyện kể về một người sĩ quan Mỹ, do Lee Marvin đóng vai này, được lệnh phải giải thoát một nhóm người lính Mỹ đang bị nhốt trong trại tù của Đức Quốc Xã. Công tác nguy hiểm này được cấp trên định giá là chỉ có 10/o thành công mà thôi. Do đó thay vì lựa chọn những người lính xuất sắc và tinh nhuệ nhất của Mỹ, Marvin đã tới nhà tù và lựa chọn những tên ăn trộm, giết người… đã ở tù lâu năm, có kẻ đã lãnh án tử hình nữa. Sau khóa huấn luyện căn bản, họ đã chọn ra mười hai người, vì thế cuốn phim mới mang tên “The Dirty Dozen”.
Khi xem phim chúng ta có thể nhận thấy sự khôn ngoan của người sĩ quan đã thực hiện sự chọn lựa này. Tất cả những con người này đã có một bản năng tự vệ sống còn rất mãnh liệt. Họ có một giác quan thứ sáu để biết cách thoát khỏi nguy hiểm. Mỗi người cũng có những tài năng đặc biệt rất hữu ích cho sứ mạng. Người thì có thể mở khóa nhà tù, người khác có võ thuật chiến đấu bằng tay chân… Tất cả đều có thể nằm yên bất động mà đối phương không thể nhận ra họ.
Một phần nào của cuốn phim cũng nói lên sự thành công của những người bị xã hội coi là cặn bã. Dưới sự hướng dẫn của vị sĩ quan, những con người bị thua này đã trở thành những anh hùng.
Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ không phải hoàn toàn là những người bị coi là thua cuộc trong xã hội, nhưng họ cũng không phải là những người thắng cuộc. Họ không phải là những người ưu tú trong xã hội Do thái. Không có ai trong họ đã hoàn tất công việc gì được xếp vào loại đặc biệt. Thánh Matthêu đã không liệt kê ra những khả năng trí tuệ hay phẩm hạnh đặc biệt của họ. Thế nhưng họ đã rao giảng và dân chúng trở lại với Chúa. Họ đã dạy và dân chúng đã nghe. Họ đã chữa lành bệnh tật và trừ được ma quỉ. Họ đã thi hành chức vụ thừa tác vụ tông đồ với lòng yêu thương dân chúng.
“Thương người như thể thương thân” Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ tham gia vào sứ vụ của Ngài từ nguyên tắc đạo lý nhân bản này. Ngài cũng kêu gọi tất cả chúng ta. Sứ vụ tông đồ bắt đầu từ lòng thương xót đối với dân chúng. Có lẽ chúng ta không đủ các tiêu chuẩn khác, nhưng khả năng yêu thương của con tim thì ai cũng có. Chúa chỉ kêu gọi chúng ta biết mở rộng tâm hồn, biết hy sinh và cho đi: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy. Đừng sắm vàng bạc, hay tiền đồng để thắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy”.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam