Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1439426
SAY MÊ TIN MỪNG ĐỨC KITÔ
(Suy niệm của Lm. Giuse Trực)
Càng ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô càng trở nên hấp dẫn, nhất là với những người nghèo khổ. Mới đây, Tòa Thánh đã cho xây một khu nhà trọ với tên gọi: “Quà tặng của Lòng Thương Xót” cho những người vô gia cư. Nhà trọ này chỉ cách quãng trường Thánh Phêrô có vài bước chân. Năm ngoái, Đức Giáo Hoàng cũng đã cho xây dựng những phòng tắm và phòng vệ sinh dọc theo những hàng cột tại Quảng trường Thánh Phêrô. Người vô gia cư cũng được cung cấp thêm dịch vụ cắt tóc miễn phí đảm bảo hợp vệ sinh và theo ý thích của họ. Hay mới tháng trước đây, xe y tế của Tòa Thánh chỉ dành riêng cho các sự kiện có sự hiện diện của Đức Thánh Cha cũng đã được huy động để hỗ trợ y tế cho người nhập cư.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở rộng vòng tay của Giáo hội để đón tiếp nhiều người, nhất là những người nghèo khổ. Sở dĩ Đức Thánh Cha muốn mở rộng cánh cửa tòa thánh, muốn đến những vùng “ngoại vi” là vì “Tình yêu Đức Kitô thúc bách” Ngài, là vì di chúc của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19); để rồi người khác đến với Ngài, đến với Giáo Hội là cũng vì cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô.
Khi chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta “nói” cho người khác bằng chính đời sống của mình là chúng ta truyền giáo. Và người khác cũng chỉ có thể “bước vào ngôi nhà của Giáo Hội” khi họ cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua chính đời sống chúng ta. Đó chính là nội dung của các bài đọc lời Chúa hôm nay.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đoc I: Gn 3, 10 - 4, 11
Thiên Chúa không muốn thành Ninivê bị tiêu diệt vì những tội lỗi của họ nên đã sai tiên tri Giôna đến rao giảng để họ ăn năn sám hối. Tiên tri Giôna đã miễn cưỡng để làm điều đó, nhưng dân thành Ninivê cũng được cứu vì họ đã “vô tình” nghe được lời rao giảng miễn cưỡng của Giôna.
Sau khi thành Ninivê được cứu, “Ông Giôna bực mình, bực lắm và ông nổi giận” (Gn 4, 1). Thiên Chúa đã dùng hình ảnh cây thầu dầu che mát làm cho ông Giôna vui tươi thoải mái, bỗng nhiên bị con sâu cắn đứt và khô héo khiến ông Giôna bị nắng giội xuống phải ngất xỉu. Khi tỉnh lại ông xin Thiên Chúa cho ông chết đi cho rồi vì không còn cây thầu dầu để che mát nữa. Thiên Chúa lấy hình ảnh đó làm bài học cho ông Giôna: “Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên… Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái.” (Gn 4, 10-11)
Truyền giáo là cho người khác biết được Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ truyền giáo không muốn rao giảng chương trình của Chúa, chỉ muốn làm theo ý mình, nhưng Thiên Chúa sẽ làm mọi cách để “cho con người được ơn cứu độ”.
2. Bài Đọc 2: 1Tm 2, 1-8
Thánh Phaolô mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa là “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4). Chính vì điều đó mà ông đã được đặt lên để rao giảng Tin Mừng, một cách đặc biệt là cho lương dân. Để rồi ông dùng hết khả năng, sức lực của mình cùng với ơn Chúa để làm cho mọi người được biết tình yêu cứu độ của Đức Kitô, đến nỗi ông đã xác quyết: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”
3. Tin Mừng: Ga 17, 11b.17-23
Trong lời cầu nguyện hiến tế của Đức Kitô, Ngài đã cầu nguyện cho các môn đệ là những kẻ đã tin và bước theo Ngài: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Ga 17, 11b). Ngài còn cầu nguyện cho đối tượng mà các môn đệ của Ngài sẽ rao giảng: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha.” (Ga 17, 20)
II. YÊU AI YÊU CẢ ĐƯỜNG ĐI
Ca dao Việt Nam có câu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”. Khi chúng ta đam mê Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng chung thao thức với Ngài là đem tình yêu và ơn cứu độ đến cho người khác.
1. Đam mê Đức Kitô
Đam mê là một khái niệm mà đôi khi bị nhầm lẫn với ước mơ, hoài bão, khát vọng. Có người định nghĩa đam mê là ham thích thái quá, đến mức không còn biết gì khác nữa. Trong thần học, đam mê liên quan đến sự giận dữ, nhiệt tâm, tìm kiếm, tình yêu và ước muốn. Ở đây tôi chỉ nhìn ở khía cạnh đam mê là động lực để chúng ta hành động. Vì vậy mọi hành động tốt xấu của chúng ta đều xuất phát bởi đam mê tốt hay đam mê xấu.
Thánh Augustinô nói “đam mê xấu khi tình yêu xấu, đam mê tốt khi tình yêu tốt”.
Như vậy nếu chúng ta yêu mến những sự xấu thì sẽ dẫn đến những hành động xấu. Những sự xấu này nằm trong 7 mối tội đầu: Kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười biếng. Nếu thực tâm nhìn lại, chúng ta sẽ thấy mình bị chi phối bởi những đam mê xấu này. Có người cứ ganh ghét với người khác dẫn đến hiềm thù, thậm chí giết người chỉ vì ghen ghét. Có người cứ mê nhậu, rãnh giờ nào nhậu giờ đó, mà chính vì mê nhậu nên không có giờ nào rãnh hết. Sáng sớm: nhậu, trưa: nhậu, chiều: nhậu, tối: nhậu… Có người cứ bị lôi cuốn vào những tư tưởng, những hình ảnh, những chuyện dâm ô. Chính vì vậy họ mất giờ, mất sức, mất sự tập trung… vì họ dành tất cả cho đam mê dục vọng của mình…
Bấy nhiêu đó đủ để chúng ta (nhất là các bạn trẻ) thấy được khi có những tình cảm xấu, nó sẽ hướng dẫn để trở thành những đam mê xấu. Chính những đam mê xấu này sẽ hủy hoại nhân cách, tâm hồn và cả cuộc đời chúng ta.
Ngược lại khi chúng ta có những tình cảm tốt, sẽ dẫn đến những đam mê tốt. Những tình cảm này là việc quan tâm đến gia đình, đến Giáo hội, đến xã hội, đến những người nghèo khổ, đến các em học sinh, đến ơn gọi tu trì… Chính những tình cảm tốt này sẽ trở thành những đam mê tốt để chúng ta dồn hết sức lưc, thời giờ và khả năng để lo cho gia đình, cho Giáo Hội, cho xã hội, cho những người nghèo khổ, cho các em học sinh, cho ơn gọi tu trì…
Tuy nhiên mọi sự tốt lành đều bởi Chúa. Vì vậy tình cảm vững bền nhất phải xuất phát từ Thiên Chúa. Cho nên chỉ có đam mê Thiên Chúa mới là đam mê đúng đắn nhất, tốt đẹp nhất, theo như lời thánh vịnh: "Cả tấm thân con cùng là tấc dạ, những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng" (Tv 84,3); và “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61, 2). Mà Thiên Chúa hiện thân rõ ràng nhất nơi Đức Giêsu Kitô. Vì vậy đam mê Đức Kitô phải là lẽ sống cho cuộc đời chúng ta, theo như lời của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, còn chết là một mối lợi” (Pl 1, 21).
2. Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi
Chính vì đam mê Đức Kitô nên chúng ta cùng chung thao thức với Ngài. Mà thao thức của Ngài là để cho mọi người được cứu độ, được sống trong Tình yêu của Chúa. Vì vậy hằng ngày trong mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải thể hiện được khuôn mặt của Đức Kitô.
Trong sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô hướng một cách đặc biệt đến những người sống đời thánh hiến, vì họ đã đam mê Đức Kitô đến mức đã tận hiến cuộc sống cho Ngài. Dĩ nhiên mọi bậc sống đều cao quý, nhưng đời sống thánh hiến cao quý hơn vì họ không bận tâm gì khác, ngoài việc “miễn là Đức Kitô được rao giảng”. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người dám từ bỏ tất cả mọi đam mê khác để đam mê Đức Kitô và sống đời thánh hiện để bước vào cánh đồng truyền giáo của Giáo hội.
Kế đến, mọi người khi đam mê Đức Kitô, họ cũng sẽ lo sống theo Tin Mừng của Ngài, mà Tin Mừng của Ngài là sám hối và cải thiện cuộc sống. Vì vậy người ta sẽ sửa đổi những sai lỗi của mình bấy lâu nay và chứng minh bằng một cuộc sống tốt lành, thánh thiện hơn. Sự tốt lành, thánh thiện đó sẽ phát xuất hoa trái là tình yêu thương dành cho mọi người xung quanh, muốn làm tất cả để mọi người được hạnh phúc hơn. Chính lúc đó chúng ta đang truyền giáo.
Tóm lại, trong ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo năm nay, chúng ta hãy quay về với chính con người của mình để xem chúng ta đang đam mê điều gì. Nếu chúng ta thực sự đam mê Đức Kitô, thì chắc chắn chúng ta sẽ cùng chung thao thức với Ngài để làm cho nhiều người được cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ những đam mê xấu để chỉ đam mê Đức Kitô và con đường của Ngài. Chính con đường đó sẽ giúp một số người dám mạnh dạn sống đời thánh hiến để dễ dàng thực hiện công cuộc Truyền giáo của Đức Kitô hơn. Cũng chính con đường đó sẽ giúp chúng con sửa đổi cuộc sống mỗi ngày để biết sống thánh thiện và yêu thương. Đó là Truyền giáo.
22. Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 10: 35-45: Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay nói với chúng ta rằng: Các con đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui....
1. Niềm Tin trong đời sống Kitô hữu
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay nói với chúng ta rằng: Các con đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui. Cha có thể nói với các con từ kinh nghiệm riêng của Cha: nhờ Niềm Tin, Cha đã tìm thấy một nền tảng chắc chắn cho những giấc mơ của Cha và sức mạnh để thực tại hoá chúng. Niềm Tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên thập giá và đã sống lại vì chúng ta. Sự thật này mời gọi sự tự do của chúng ta và thách đố chúng ta hãy tìm kiếm, khám phá và loan báo. Cha muốn suy tư với các con về sứ mạng mà chúng ta đã nhận lãnh từ Đức Kitô. Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội với vai trò là con cái của Thiên Chúa. Điều dẫn Cha đến việc nói với mọi người qua cuộc trò chuyện này với các con là là sự chắc chắn rằng Niềm Tin Kitô Giáo vẫn hằng luôn trẻ khi nó mở ra cho việc truyền giáo mà Đức Kitô ủy thác cho chúng ta:“Truyền Giáo làm sống động Niềm Tin”,[1] nghĩa là "loan truyền Đức Tin chính là tái tạo sinh lực mới cho Đức Tin"[2]
1.1.Vậy Niềm Tin đó như thế nào
1.1.1.Niềm Tin trong đời thường
Trong cuộc sống, không ít lần ta gặp khó khăn, khiến bản thân ta cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, mất phương hướng và không còn tin tưởng vào ai cũng như vào bất cứ điều gì. “Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất Niềm Tin”. Khi gặp khó khăn, trắc trở, chúng ta cần phải đối mặt, cần phải tin rằng ngày mai tươi đẹp sẽ đến. Đó chính là phương pháp giúp ta thoát khỏi những khó khăn, hụt hẫng hoặc thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Chúng ta phải tìm lại Niềm Tin vì Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.
Niềm Tin chính là nguồn năng lực mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Niềm Tin giúp cho chúng ta khơi nguồn những năng lực vốn có, ẩn sâu trong mỗi con người. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta cần phải tin tưởng nhau và Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn. Vì ta tin tưởng vào một người nào đó, tức là ta thấy được giá trị đích thực của họ, cho dù giá trị đó đã bộc lộ ra bên ngoài hay vẫn đang tiềm ẩn bên trong. Từ Niềm Tin tự nhiên, chúng ta tiến tới Niềm Tin tôn giáo.
1.1.2.Niềm Tin Tôn Giáo
- Niềm Tin tôn giáo là một dạng nhận thức đặc biệt, dựa trên trực giác, tạo cho con người một Niềm Tin có tính thiêng liêng, giúp người ta có thể nhận thức được những sự vật mà người thường không thấy được, cho ta một sức mạnh đặc biệt mang tính “thăng hoa” để tác động đến cuộc sống trần tục.
- Niềm Tin tôn giáo phải là một niềm tin siêu lý, không dựa vào lý tính, thực nghiệm, một Niềm Tin được cảm nhận hoặc theo truyền thống kinh nghiệm, hoặc do tu luyện dần để khẳng định vững chắc. Đó là một Niềm Tin không cần chứng minh. Người ta tin để rồi tin. Tin vào những điều vĩnh hằng, tuyệt đối, một cuộc sống như ý muốn, cuộc sống bất diệt. Vì lý do đó mà nội dung Niềm Tin tôn giáo phụ thuộc vào những tín điều, giáo lý của từng tôn giáo khác nhau.
1.2.Sự khác biệt giữa Niềm Tin và Đức Tin
Sống trên đời ai ai cũng có Niềm Tin. Nếu không có Niềm Tin, con người chúng ta dễ rơi vào tình trạng lập dị và có khi đi đến chỗ tuyệt vọng, không còn tin tưởng vào ai cũng như bất cứ điều gì. Là người Kitô hữu, chúng ta lại còn có Đức Tin, tin vào một Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Nhưng nhiều khi chúng ta lẫn lộn hai từ Niềm Tin
(la confiance - confidence) và Đức Tin (la Foi - Belef).
1.2.1.Niềm Tin (la confiance - confidence)
Ở đây, Niềm Tin là lòng tin, sự tin tưởng vào một người, một sự việc nào đó. Mất Niềm Tin là mất hết tin tưởng, không còn tín nhiệm nữa. Một lần bất tín, vạn lần không tin. Con người lỡ một lần không trung thực, bội tín, sẽ dễ làm cho người khác không còn tin mình nữa.
1.2.2.Đức Tin (La Foi - Belef)
Đức Tin là Niềm Tin vào một tôn giáo, vào một Đấng Siêu Việt và toàn Năng, thậm chí còn dám hy sinh mạng sống vì Đức Tin, vì Đấng họ yêu mến. Cho nên Đức Tin là chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng.[3] Chính vì vậy, Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa ban tặng.[4]
2. “Được lôi cuốn và được sai đi”[5]
Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này. Sứ mạng này gồm “được lôi cuốn và được sai đi”. Đây là hai chuyển động được người trẻ cảm nhận như tình yêu trong tâm hồn họ. Hai chuyển động này còn mang lại cho người trẻ một tương lai đầy hứa hẹn và giúp họ định hướng cuộc đời.
2.1. “Được lôi cuốn và được sai đi” qua vụ nổ trái bom nguyên tử
Ngày 9 tháng 8 năm 1945, lúc 11 giơ 02 phứt.
Một tia chóp lóa mắt lóe lên. Nhiệt độ: 9000 độ bách phân. Dưới một luồng gió với vận tốc 2km/giây, Urakami, khu phố phía tây bắc của Nagasaki bị hủy diệt và bốc cháy. Cơ thể của những người đi đường nằm rạp trên đường và hóa thành than. Những cư dân khác bị biến thành tro bên dưới căn nhà bị thiêu rụi. 30.000 người chết, 100.000 người bị thương. Trong số 10.000 người Công Giáo ở Urakami, có 8.500 người đã chết. Tại ngôi trường có 1.800 em học sinh, thì chỉ còn lại 200 em sống sót.
Đại Học y khoa nằm cách trung tâm vụ nổ 700 mét và được xây dựng bằng bê tông cốt thép đã thoát khỏi cuộc tàn phá lúc ban đầu sớm bị hỏa hoạn. Nagai đang sắp xếp các phim chụp tia X vào lúc diễn ra vụ nổ, ông bị ném xuống nền nhà, bên phải bị mảnh vỡ cửa kính đâm thủng lỗ chỗ. Máu chảy xối xả từ bên thái dương phải của ông. Ông lần mò thoát ra khỏi đống kính vỡ vụn và đi xuống cầu thang. Từ phòng khám và hành lang nơi các bệnh nhân đang ngồi chờ, người ta nghe vọng lên tiếng kêu cứu. “Được, chúng tôi đến đây!” Nagai hét to và đưa bàn tay ép mạnh vào thái dương chảy máu.
Việc săn sóc bắt đầu. Những chiếc áo sơ mi rách nát được sử dụng làm băng quấn. Bác sĩ Nagai, tay phải siết chặt thái dương phải làm việc bằng tay trái. Đôi khi mải mê săn sóc người bị thương, ông bỏ tay ra và máu lại phun ra nhuộm đồ trang phục của cô y tá đứng bên cạnh.
“Vì những mạch máu ở thái dương hẹp, nên tôi có thế cầm cự trong ba tiếng đồng hồ. Điều đó cũng đủ để tiến hành công cuộc sơ cứu,” ông nhận xét. Ông vừa làm việc vừa thỉnh thoảng bắt mạch để xem mình còn đủ sức lực hay không.
Thung lũng Urakami nhanh chóng biến thành biển lửa. Ở cửa bệnh viện, những dòng người bị thương chạy đến không dứt: những bóng dáng đẫm máu, áo quần tơi tả, tóc cháy xém. Trẻ con kéo lê các tử thi của cha mẹ chúng, những bà mẹ trẻ ẵm thi thể mất đầu của những đứa bé còn bú. Một cảnh tượng như hỏa ngục.
Phần lớn các loại thuốc men không còn sử dụng được nữa. Chỉ còn một chút ít dụng cụ để sơ cứu...và hàng ngàn người bị thương đang chờ đợi. Nagai chỉ có một vài người phụ tá. “Mặc kệ! Chúng ta sẽ săn sóc cho đến khi sức cùng lực kiệt!”[6]
Takashi Nagai là người chứng kiến và cũng là nạn nhân của trái bom nguyên tử. Còn Leonard Cheschire người ném trái bom nguyên tử thì như thế nào?
2.2.“Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật Léonard Cheshire
Léonard Cheshire là viên đại úy trẻ tuổi nhất của nhóm R.A.F... Lúc này anh là vị sĩ quan trẻ nhất nhận được đặc ân hiếm có này, huân chương thập giá Victoria.
Một ngày đẹp trời tháng 8/1945, hai pháo đài bay của Mỹ bay về phía Nagasaki trên bầu trời Thái Bình Dương xanh thăm thẳm, ở khoang lái của một trong hai chiếc phi cơ B.29 có đại úy Cheshire. Anh vừa được thủ tướng Winston Churchill bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc bên cạnh không lực Mỹ ở Viễn Đông.
Một chiếc B. 29 khác vừa bay đến mục tiêu. Khoang hầm phi cơ được mở ra, một quả bom nguyên tử đang đâm bổ xuống thành phố. Một vài giây sau, toàn bộ hải cảng Nagasaki bị hủy diệt.
Báo chí Anh đã hết lời ca ngợi Cheshire. Họ nói về “con người có sức hủy diệt nhất của chiến tranh”, “viên sĩ quan được tuyên dương nhất trong chiến tranh”, “một trong số những nhà chiến lược hàng không tài giỏi nhất”. Cảnh tượng hủy diệt Nagasaki cũng vừa khiến cho người đàn ông này quay lưng lại hoàn toàn. Lúc quay về từ cuộc không tập, Cheshire liền xin từ nhiệm chức vụ sĩ quan của R.A.F.
Sau khi rời khỏi hỏa ngục này, anh quay về với Thiên Chúa xa lạ để cầu xin sự giúp đỡ của Người. Khi trở về Anh quốc, anh luôn nghĩ về việc thực hiện bi thảm của ngành kỹ thuật nhân loại, vấn đề căn bản ám ảnh anh hơn bao giờ hết: vai trò của Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại là gì? Anh ý thức rằng không những bản thân anh nhưng còn tất cả mọi người phải hướng đến một điều gì cao trọng hơn là một nền vật lý nguyên tử thuần túy.[7]
Ngày lễ Giáng Sinh năm 1948, đại úy Cheshire gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Ngay sau đó, anh xây dựng ba ngôi nhà dành để săn sóc cho những bệnh nhân bị bỏ rơi không thể chữa trị. Vào lúc này, anh là người trở lại Công Giáo nổi tiếng nhất của nước Anh và hơn thế nữa, một vị tông đồ đáng chú ý.
Từ thập giá Victoria, anh đã đến với thập giá đích thực của Đức Kitô.[8]
2.3. “Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật bác sĩ Takashi Nagai
2.3.1.Tín đồ của chủ nghĩa duy vật
Takashi Nagai sinh năm 1908 tại Izumo, mãnh đất huyền thoại của Nhật Bản. Chẳng biết chút gì về đạo Công Giáo và đến 1928 anh bị ảnh hưởng chủ nghĩa duy vật khoa học rất thịnh hành tại Nhật Bản lúc bấy giờ. Sau đây là những gì bác sĩ Nagai viết khi nhớ lại những năm tháng này:
“Từ những năm tháng tràn đầy lòng nhân đạo, tôi đã trở thành tù nhân của chủ nghĩa duy vật. Vừa chân ướt chân ráo bước vào ngành y, tôi buộc phải mổ xẻ các tử thi. Theo người ta cho tôi biết, đó là tất cả những gì tồn tại trong con người. Tôi dễ dàng kết luận là con người không là gì khác ngoài vật chất.
Cơ cấu tuyệt vời của toàn bộ cơ thế, tổ chức tỷ mỷ của những phần nhỏ nhất của nó, tất cả làm cho tôi thán phục. Nhưng cái thứ mà tôi đang sử dụng ở đây, đó không chỉ là vật chất đơn thuần.”
Các cơ quan phức tạp của cơ thể con người, các chức năng tương ứng, mọi thứ đều được giải thích. Vì cớ gì anh có thể chấp nhận sự hiện hữu của một thực tại lờ mờ như “linh hồn” kia chứ! Không phải cơ thể chỉ là sự tổng hợp của những vật đơn giản như ôxy, azốt, canxi... hay sao? Linh hồn ư? Một hồn ma do những kẻ lừa bịp nghĩ ra để đánh lừa những người đơn sơ thôi!
Tuy nhiên, vấn đề cuộc sống con người luôn luôn dầy vò anh. Đôi khi anh cũng quyết tâm tìm kiếm chân lý trong khoa học thực nghiệm. Anh tuyệt đối tách ra khỏi tâm trí bất cứ ý tưởng nào về tâm linh hoặc tôn giáo.
Cái chết bất ngờ của mẹ anh vào năm 1930 đã bứt anh ra khỏi những ảo tưởng đó.[9]
Tháng 6/1934, anh chịu Phép Rửa Tội với tên thánh Phaolô.
2.3.2.Những vinh dự sau cùng
Năm 1949, bộ trưởng “bộ phúc lợi xã hội” trao tặng bằng khen cho Nagai về quyển sách “để lại cho các trẻ em”. Cùng năm đó, ông đề nghị với hội đồng chính phủ tuyên dương bác sĩ theo chương trình nghị sự quốc gia.
Ngày 28/6/1949, hoàng đế Nhật đến thăm ông. Cuộc gặp gỡ rất đơn giản đã để lại trong lòng ông đầy sự thán phục đối với tính cách minh bạch khoa học của hoàng đế, với tư cách là một nhà sinh vật học nổi tiếng.
Ngày 30/6, đến lượt Đức Hồng Y Gilroy, đại diện của Đức Giáo Hòang, đến thăm ông nhân dịp lễ kỷ niệm 400 năm ngày thánh Phanxicô Xaviê đến nước Nhật truyền giáo.
Ngày 1/6/1950, qua sự biểu quyết của Quốc Hội, hoàng đế trao tặng cho ông một chiếc cúp bằng bạc, trong khi thủ tướng gửi đến ông một bức thư có nội dung như sau:
Gửi bác sĩ Nagai,
Khen tặng theo chương trình nghị sự
“Giữa muôn vàn nguy hiểm triền miền, ngài đã cống hiến bằng cả tâm hồn và thể xác cho việc nghiên cứu khoa y học quang tuyến X. Rốt cuộc ngài mắc bệnh bạch cầu. Luôn luôn miệt mài hăng say trong công việc, ngài đã góp phần vào sự tiến bộ của khoa học và được xem như tấm gương cho tất cả mọi người. Bị tổn thương vì bom nguyên tử và bắt buộc phải nằm liệt giường, ngài đã cống hiến toàn bộ sức lực cho việc biên soạn nhiều tác phẩm, nổi bật nhất là tác phẩm “những quả chuông ở Nagasaki” và “để lại cho các trẻ em”. Ngài đã đóng góp tích cực vào việc giáo dục xã hội cho những người đồng hương. Trong niềm tin đó, chúng tôi khen ngợi ngài.”
Thủ tướng
Shigeru Yoshida
Và sau đây là bức thư phúc đáp của bác sĩ Nagai:
“Chiếc cúp và bức thư mà ngài gửi đến cho tôi là một niềm vui dành cho Thiên Chúa, những người thân và các con của tôi. Mặc dù bản thân tôi không xứng đáng, tôi cũng xin vui mừng đón nhận.
Nếu như công việc của tôi có góp phần vào việc tái thiết nước Nhật, điều đó có được là nhờ sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nhờ sự giúp đỡ của những người đồng loại và nhờ lòng hiếu thảo của các con tôi. Tôi chỉ là một tôi tớ vô dụng, mọi vinh quang đều thuộc về Thiên Chúa.
Về niềm vinh dự dành cho tôi, tôi nghĩ đúng hơn nó nên dành cho những người đồng hương của tôi ở Nagasaki. Trên cánh hoang tàn đổ nát do bom nguyên tử để lại, chính họ là những người xây dựng một trung tâm của nền văn minh có ánh hưởng sâu rộng trên thế giới.
Sự khích lệ mà ngài ban cho tôi đồng thời cũng ban cho tôi sức mạnh mới để làm việc với tất cả khả năng của tôi trong việc xây dựng hòa bình đế đáp lại lòng mong đợi của ngài.”
Takashi Nagai.
Biết được quyết định của hội đồng chinh phủ, Đức Thánh Cha Piô XII cũng san sẻ niềm vui với bác sĩ và gửi đến ông Phép Lành Tòa Thánh.[10]
2.3.3. Những giờ phút sau cùng
Tháng 3/1951, tình trạng sức khỏe của bác sĩ Nagai trở nên nghiêm trọng. Ngoài sự suy nhược cực độ, lá lách sưng to làm bụng phình to đến mức không cho phép ông trở mình trên giường, nếu không có sự giúp đỡ. Bạch cầu với số lượng 7.000 nơi người bình thường, đã đạt đên 330.000. Nagai, người đã nghiên cứu kỹ sự phát triển của căn bệnh trên chính cơ thể của mình, không thể không cảm thấy giờ ra đi của ông sắp đến.
Điều đó không ngăn cấm ông tha hồ biểu lộ óc khôi hài quen thuộc, đến mức những người đến thăm ông khó mà hình dung họ đang đứng trước một người đang hấp hối.
Tháng 4, ông viết quyển sách cuối cùng. Sau khi quyển sách vừa hoàn tất, một cơn xuất huyết lại bộc phát làm tê liệt toàn bộ cánh tay.
Ngày 28/4, lại xảy ra đợt xuất huyết lần thứ hai. Bị dằn vặt đau đớn, bác sĩ đề nghị chích một mũi móc phin. Mũi đầu tiên cho đến giờ phút này.
Người ta quyết định cho ông nhập viện. Buổi sáng vào bệnh viện, ngày 30, ông lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Dù rất khát, suốt cả đêm, ông không muốn uống gì, mặc dù ông được phép uống vì là bệnh nhân.
Ở bệnh viện, cơn đau của ông càng trầm trọng thêm, rồi Nagai đi vào hôn mê. Lúc tỉnh lại, ông kêu lên thật to:
“Giêsu, Maria, Giuse”, rồi với giọng nói khe khẽ “con xin phó dâng linh hồn con trong tay các Ngài”. Một nữ y tá đưa một cây Thánh Giá cho Makoto để anh trao lại cho cha. Vừa đưa bàn tay trái còn cử động cầm lấy Thánh Giá, Nagai vừa thì thào: “con hãy cầu nguyện... " ông tắt thở.
Ông cầm trong tay tràng chuỗi Mân Côi được kết bằng những hạt ngọc đen do Đức Thánh Cha trao tặng và cây Thánh Giá Makoto vừa trao.
Trên gương mặt người chết còn phảng phất một nụ cười nhẹ nhàng. Ông hưởng dương 43 tuổi. Nguyên nhân trực tiếp của cái chết: suy tim do bệnh bạch cầu. Trái tim mà Nagai đã bắt nó dâng hiến cho đến hơi thở cuối cùng đã ngừng đập.[11]
3. Lời khích lệ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
Cha cám ơn tất cả các nhóm trong Hội Thánh giúp cho các con có thể gặp gỡ Đức Kitô sống động trong Hội Thánh: các giáo xứ, các hiệp hội, các phong trào, các dòng tu, và nhiều hình thức phục vụ truyền giáo khác nhau.
Có biết bao nhiêu người trẻ coi hoạt động truyền giáo tự nguyện là một cách để phục vụ những anh chị em “bé mọn nhất” của chúng ta (xem Mt 25,40), thăng tiến phẩm giá con người và làm chứng cho niềm vui của tình yêu và của tư cách là Kitô hữu! Các kinh nghiệm này của Hội Thánh không chỉ giáo dục và đào tạo những người trẻ để họ thành công trong nghề nghiệp, mà còn để họ phát triển và nuôi dưỡng những ân huệ Chúa ban hầu phục vụ tha nhân tốt hơn. Các hình thức rất đáng khen ngợi của việc phục vụ truyền giáo nhất thời này là một sự khởi đầu hiệu quả, và nhờ việc phân định ơn gọi, chúng có thể giúp các con quyết định hiến mình hoàn toàn cho công việc truyền giáo.[12]
-----------------
[1] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018
[2] Redemptoris Missio, 2
[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số155
[4] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 153
[5] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018
[6] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 1, trg.132-133
[7] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 3, trg.181-183
[8] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 3, trg.175-177
[9] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo, tập I, trg.124-125
[10] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo, tập I, trg.143-144
[11] .Yakichi Kataoka
[12] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018
23. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
TRUYỀN GIÁO BẰNG CẦU NGUYỆN VÀ CHỨNG TÁ ĐỜI SỐNG
Thánh giáo hoàng Piô V đã dày công thuyết phục một vị “Tai mắt” Tin Lành đến với Giáo Hội Công Giáo. Trong khi vị này đang còn tìm hiểu Đạo, ngày nọ ông bước vào một nhà thờ để tham dự thánh lễ. Rủi thay, hôm đó những người hiện diện không có vẻ tôn kính trang nghiêm, trừ một số rất ít, số còn lại thì chia trí nói chuyện to nhỏ và nhìn ngó loanh quanh. Con người có ý định trở lại đạo này sinh ra bất bình, ông từ chối trở lại đạo bằng cách viện dẫn lý do trên. Ông nói: “Các người Công giáo không tin ở thánh lễ. Họ không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Thánh Thể”.
Câu chuyện trên đây đã để lại cho mọi người kitô hữu chúng ta một bài học hết sức thâm thuý, đặc biệt trong ngày cử hành lễ truyền giáo hôm nay. Nhiều khi vì những việc làm, lời nói vô tình hay cố ý của chúng ta làm rào cản, ngăn người khác đến với Chúa và Giáo hội. Vấn đề này đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đề cập đến trong tông thư Tiến tới thiên niên kỷ thú ba rằng: “Sở dĩ thế giới không nhận ra Đức Kitô nơi Giáo Hội và nơi mọi người Kitô hữu vì hai lý do: Một là vì Giáo Hội không biểu lộ được Đức Kitô ở trong mình ra cho thế giới; hai là vì Giáo Hội chưa sống với Đức Kitô như là một người của Thiên Chúa để làm cho thế giới cảm nghiệm được sự sống dồi dào của Chúa Giêsu, sức thánh hoá mãnh liệt của Chúa Thánh Thần và nhất là tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, qua Giáo Hội”.
Ngài nói tiếp: “Thái độ lãnh đạm tôn giáo, một thái độ khiến nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu hay sống một cuộc sống mờ nhạt không đẩy được họ tới đối diện với vấn đề chân lý cũng như nghĩa vụ liên đới”.
Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Nhìn vào thực tiễn các xứ đạo, các gia đình, nhìn vào chính mình mỗi chúng ta đây, ta thấy rằng con số sống đạo cho đúng nghĩa rất ít. Trong khi đó, rất nhiều người giữ đạo hình thức, ở cách ăn mặc, hát xướng, tưng bừng bên ngoài, nhiều gia đình bất hoà bất thuận, những cá nhân sống như không có luật lệ, trộm cắp gian tham, lỗi công bằng bác ái...
Là Kitô hữu thì phải làm chứng, không làm chứng là phản chứng, làm chứng là một trong những cách thế truyền giáo hữu hiệu nhất, đặc biệt trong thời đại chúng ta hôm nay. Trước khi rao giảng bằng lời nói hãy rao giảng bằng đời sống. Người tín hữu giáo dân hãy nỗ lực cùng với đồng bào hãy xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đặc biệt hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của nước Thiên Chúa, Nước đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an. Người tín hữu cũng nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương. Không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa nói: Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy: Ấy là nếu anh em thương yêu nhau(x. Thư mục năm 2003 của HĐGMVN).
Trong Tông huấn loan báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI khi đề cập đến vấn đề những đường lối và những phương thế Phúc Âm hoá, tông huấn đề ra những đường lối quan trọng nhất: việc rao giảng, phục vụ Lời Chúa, huấn giáo, sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội, truyền đạt kinh nghiệm về đức tin bằng sự tiếp xúc cá nhân, vai trò của các Bí tích trong mối tương giao của chúng với Lời Chúa, những giá trị tích cực của nền đạo đức bình dân. Tuy vậy, trước danh sách của những đường lối đó, tông huấn có một đoạn dành riêng cho chứng tá đời sống được coi như phương thế Phúc âm hoá đầu tiên (EN 41): “Nhờ lối sống mình mà Hội Thánh trước tiên sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nghĩa là nhờ chứng tá đời sống của mình về lòng trung tín với Chúa Giêsu, về sự khó nghèo và từ bỏ, về sự tự do trước quyền bính của thế gian này, tắt một lời về sự thánh thiện”.
Và Ngài kết luận rằng: “Con người thời đại này thích nghe những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết, và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết là chỉ vì những nhà giảng thuyết là những chứng nhân”.
Chính vì thế mà những bài giảng đơn sơ của thánh Gioan Vianney có nhiều sức mạnh truyền giáo hơn là những bài giảng hùng hồn của các nhà giảng thuyết lừng danh chứa đựng nhiều sự thông thái và nhiều nghệ thuật, nhưng lại không được nung nấu bằng một lòng mến Chúa. Việc ban bí tích Hoà giải của cha Gioan Vianney không có giá trị hơn của các linh mục khác, nhưng sự thánh thiện của ngài tự nó đã là một lời kêu gọi mạnh mẽ thúc đẩy các tín hữu muốn xưng tội và hoán cải. Và sở dĩ vị thánh làm được điều đó là vì người liên lỉ sống đối diện với Mầu nhiệm, sống tâm giao với Thiên Chúa.
Vào thời đại của chúng ta, ai mà chẳng biết tiếng tăm lừng lẫy của Mẹ Têrêxa Calcutta, người đã sáng lập dòng Bác ái truyền giáo, và nhờ những việc làm cụ thể của các nữ tu mà bao người đã trở lại đạo. Câu chuyện sau đây là một trong vô vàn những chứng từ được Mẹ kể lại: Một người đàn ông sau khi đã quan sát rất kỹ lưỡng chị nữ tu băng bó cho người hấp hối một cách trìu mến và vui vẻ, đã nói với tôi: “Ngày hôm nay khi đến đây, tôi không có chút lòng tin vào Chúa, trái lại tâm hồn tôi đầy căm ghét Người. Nhưng bây giờ khi sắp rời khỏi nơi đây, tôi đã là người tin Chúa. Tôi đã thấy tình thương của Chúa được biểu lộ bằng những hành động như thế nào. Qua đôi bàn tay của chị nữ tu kia, qua bộ điệu của chị, qua sự trìu mến của chị với người hấp hối cùng cực, tôi đã thấy tình yêu của Thiên Chúa bao phủ người khốn cực này như thế nào, và bây giờ tôi tin”.
Tại sao thánh Gioan Vianney đã hoán cải được nhiều tội nhân như vậy? Tại sao Mẹ Têrexa Calcutta chinh phục được nhiều con tim đến thế? Chính là nhờ đời sống chứng nhân phát xuất từ lòng mến Chúa và luôn sống kết hợp mật thiết với Người. Một phóng viên đã hỏi Mẹ Têrêxa: “Thưa Mẹ, Mẹ yêu thương đám quần chúng mà người khác nhìn họ như những đống hoang phế của nhân loại. Đâu là bí quyết của Mẹ?” Mẹ Têrêxa từ tốn trả lời: “Bí quyết của tôi thật đơn giản: Tôi cầu nguyện”.
Như vậy, linh hồn hoạt động cho công cuộc bác ái của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện. Sức mạnh phát xuất từ đó. Phép lạ chuyển hoá con người cũng khởi hành từ đó.
Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh nhiều đến việc cầu nguyện trong Giáo Hội. Vì đây là phương thế kết hợp với Thiên Chúa, để gắn bó với Đức Kitô, từ đó người tín hữu mới có thể biểu lộ Chúa ra cho thế giới. Vì người không có đời sống cầu nguyện sẽ không bao giờ thực hiện được trên các linh hồn một việc phong nhiêu kết quả. Chúng ta có thể ban tặng cho tha nhân cái dư tràn của chính đời sống thiêng liêng của chúng ta, cái dư dật của những xác tín tôn giáo chúng ta đã nghiền ngẫm trong kinh nguyện, theo kiểu nói tuyệt vời của Thánh Tôma: “Tặng người khác những gì mình đã chiêm ngắm”. Đời sống cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động Tông Đồ chỉ sử dụng dựa vào sức điện nạp ấy. Bởi thế, càng hoạt động thì càng phải cầu nguyện. Cầu nguyện như người ta nghĩ là “Hồn sống của mọi hoạt động tông đồ”. Hay nói như Mẹ Têrêxa: “Hoạt động chỉ là kết quả của cầu nguyện”. Vì vậy, chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều trái tim quảng đại biết cảm thương những cảnh đời bơ vơ không người chăn dắt; có nhiều tâm hồn thiện chí hăng hái dấn thân ra đi loan báo Tin Mừng(x. Thư mục vụ năm 2003 của HĐGMVN).
Suốt hai ngàn năm qua, Giáo Hội luôn nỗ lực truyền giáo, từ con số Mười Hai lớn dần tới hơn một tỉ người. Tuy nhiên, so với số dân thế giới thì con số đó chưa thấm vào đâu, chỉ chiếm khoảng 17%. Đặc biệt ở Việt Nam chúng ta con số đó lại càng ít, số giáo dân chỉ chiếm gần 8% dân số toàn quốc. Thế mà số người trở lại hàng năm thật ít ỏi. Theo niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam năm 2015 cho biết: Năm 2013 cả Giáo hội Viêt Nam với 6 606 495 giáo dân, với 29 152 Giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh mà chỉ có 41 395 người lớn trở lại đạo. Như vậy, mỗi giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh bình quân một năm chỉ lôi kéo được hơn một người theo Đức Kitô. Đó là chưa nói đến những người bỏ đạo hay từ Công giáo theo các tôn giáo khác. Hơn nữa, hầu hết những người trở lại đạo ấy chỉ để lấy vợ lấy chồng. Tại sao? Có phải như một số ý kiến cho rằng: “Người Công giáo Việt Nam mới chỉ giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo?”. Đó là vấn đề mà mọi người kitô hữu Việt Nam chúng ta cần nghiêm túc suy nghĩ để không phải chỉ giữ đạo mà còn cần phải sống đạo và ra sức đóng góp phần mình cho công cuộc mở mang nước Chúa.
Truyền giáo luôn là nỗi thao thức của Giáo hội. Vì tự bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Giáo Hội mang bản chất li tâm tức là trao ban chính mình cho người khác. Việc truyền giáo là lí do tồn tại của Giáo Hội. Thời gian của Giáo Hội là thời gian giữa hai lần Chúa đến, là thời gian truyền giáo, nếu không truyền giáo thì Giáo Hội mất hết ý nghĩa thời gian của mình. Xin cho mỗi người chúng ta biết góp phần mình cho công cuộc truyền giáo, nhất là bằng lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân. Amen.
24. Tinh thần nhiệt tình tông đồ
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng hẳn về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: "Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều."
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy thót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng là có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng cách bất ngờ.
Câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng tới tinh thần nhiệt tâm truyền giáo cần phải có nơi mỗi người kitô hữu chúng ta. Thiết tưởng việc truyền giáo cũng cần có những người “Thổi kèn thúc quân?” Chính trong thư mục vụ năm 2003, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã mời gọi: “Hãy lên đường với nhiệt tình tông đồ, là sự hăng hái được thúc đẩy bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là lòng nhiệt thành được nung đốt bởi lửa của Chúa Thánh Thần, là những sáng kiến do ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần”.
Thứ nhất, tinh thần của Chúa Giêsu: Ngài chính là nhà Truyền Giáo vĩ đại nhất. Sứ mệnh truyền giáo của Ngài đón nhận từ Chúa Cha(x. Lc 4,18). Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại vùng quê Nazarét, Ngài bắt đầu lên đường đi tới mọi nơi: Từ thành thị tới đồng quê. Từ vùng biển lên miền núi. Từ Giêrusalem lên Núi Sọ. Ngài gặp gỡ, tiếp xúc với mọi hạng người: giàu - nghèo, tri thức - dân thường, công chính – tội lỗi, khoẻ mạnh - ốm đau. Chính nhờ những cuộc gặp gỡ đó, Ngài đã hoán cải được nhiều người: Mathêu, Giakêu, Maria Mađalêna. Và chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền: Người què đi được; kẻ điếc được nghe; người câm nói được; người mù được thấy; người phong cùi được sạch; kẻ chết sống lại.
Tinh thần nhiệt tâm truyền giáo của Ngài còn được thể hiện qua sự chọn lựa và huấn luyện các Tông đồ. Trước khi về trời, Ngài đã ra lệnh cho các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”(Mc 16,15).
Thứ hai, tinh thần của các Tông đồ và các kitô hữu tiên khởi: Vâng lệnh Chúa Giêsu, sau ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ mở toang cửa ra đi đến với mọi người, tới mọi chân trời để làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh(x. Cv 2). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút khoảng ba ngàn người xin rửa tội (x. Cv 2,41). Con số xin gia nhập Giáo hội ngày càng gia tăng. Họ họp nhau lại, chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng(x. Cv 2,42). Các Tông đồ tiếp tục rao giảng Tin Mừng, khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Khi bị điệu ra trước thượng hội đồng(x. Cv 4). Lúc bị tống vào ngục, được giải thoát ra, lại tiếp tục rao giảng (x. Cv 5,17). Đi liền với lời rao giảng là những phép lạ kèm theo (x. Cv 5,12-16). Các Tông đồ thiết lập nhóm Bảy người, tức là Bảy phó tế đầu tiên. Trong số đó, có Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi. Sau biến cố Đamát, Phaolô trở lại. Trước đây nhiệt tình bắt bớ các kitô hữu bao nhiêu thì giờ đây Phaolô lại nhiệt tình rao giảng Tin Mừng bấy nhiêu. Khi xác tin được niềm tin và hiểu được sứ mạng Chúa giao phó, Ngài sống trọn vẹn cho Chúa và cho các linh hồn. Ngài nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3,8-14). “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Ngài đã miệt mài rao giảng Tin Mừng cho dân Do Thái và dân ngoại. Đi đến đâu, Ngài cũng thiết lập các cộng đoàn mới, chăm sóc, dạy dỗ bằng những cuộc viếng thăm hoặc qua thư từ.
Tinh thần nhiệt tình tông đồ của các Tông đồ, các kitô hữu tiên khởi và đặc biệt là của Thánh Phaolô đáng cho mỗi người chúng ta học tập.
Thứ ba, tinh thần của các nhà thừa sai: Đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu Kitô, từ nhiều thế kỷ nay biết bao thế hệ môn đồ của Chúa đã hăng hái lên đường. Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người đã bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới. Thật vậy, nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quí giá (x. Thư chung năm 2003 của HĐGMVN).
Để làm được điều đó, thiết tưởng các ngài phải có một tâm hồn nhiệt tình tông đồ: Yêu mến Chúa hết lòng và khao khát phần rỗi các linh hồn. Chúng ta hãy lắng nghe những lời tâm huyết của một số vị thánh sau đây:
Cha Đa-miêng, vị tông đồ của những người hủi đã nói: “Phần tôi, tôi muốn hủi với những người hủi để chinh phục họ cho Chúa Giêsu”.
Thánh Phanxicô Xaviê đã dấn thân không mệt mỏi cho công cuộc truyền giáo, khi viết từ Viễn Đông cho thánh Ignatiô, Ngài nói: “Ở xứ này, rất nhiều người không phải là kitô hữu chỉ vì hiện nay không có ai để làm cho họ trở thành kitô hữu. Nhiều khi tôi có ý tưởng rong ruổi qua mọi đại học ở Châu Âu. Bắt đầu từ đại học ở Paris để kêu gọi những kẻ có nhiều học thức hơn là lòng bác ái và làm cho họ biết trách nhiệm về phần rỗi của kẻ khác”.
Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu thì nói: “Con cảm thấy lòng con khao khát phần rỗi linh hồn người ta lắm; con muốn dùng hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội lỗi cho khỏi lửa hoả ngục”. Trong những lá thư gửi cho hai cha truyền giáo, Ngài đã bộc lộ được tâm hồn khao khát truyền giáo của Ngài: “Cái điều mà con đêm mong ngày đợi là chinh phục nhân loại cho tình ái Chúa, con thú thật rằng: Nếu ở trên thiên đàng con không thể tiếp tục mạnh mẽ việc đó, con thích ở lại nơi lưu đày này hơn là về chốn vui vẻ đời sau”.
Còn mẹ Têrêxa Calcutta thì sao? Ngài nói: “Nhiệt tâm đối với các linh hồn là kết quả và chứng tá của tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa. Nếu ta yêu mến Thiên Chúa thực lòng, ta không thể không rạo rực ước muốn cứu vớt các linh hồn; đó chính là điều Chúa Giêsu quan tâm hơn và yêu quí hơn. Vì thế, nhiệt tình là bằng chứng của tình yêu, và bằng chứng nhiệt tình là tận hiến cho việc nghĩa này: Tiêu hao sức lực và cuộc đời ta để cứu vớt các linh hồn”.
Tóm lại, để loan báo Tin Mừng có hiệu quả, trên hết và trước hết cần phải có một tinh thần nhiệt tình tông đồ: Tinh thần của Chúa Giêsu. Tinh thần của các Tông đồ và các kitô hữu tiên khởi. Tinh thần của các nhà truyền giáo. Khi đã có tinh thần nhiệt tình tông đồ, chắc chắn sẽ tìm ra phương cách để truyền giáo. Hãy ra chỗ nước sâu. Hãy tới các vùng ngoại biên. Hãy mạnh dạn “Thổi những hồi kèn thúc quân”, đó là lòng nhiệt tình tông đồ bằng những hành động cụ thể chứ không phải lý thuyết suông. Hãy quan tâm đến những người bệnh tật ốm đau, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội, những người bị áp bức bóc lột. Hãy quan tâm đặc biệt đến những người nghèo: “Có một mối giây không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 48). Làm như thế, mới hy vọng có được một mùa gặt bội thu trên cánh đồng truyền giáo tại quê hương Việt Nam chúng ta. Amen.
25. Chủ nghĩa “Ma-kê-nô” trong đời sống Đức Tin -- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Ma-kê-nô, một cách nói khôi hài và mỉa mai, rút ra từ cụm từ “mặc kệ nó, sống chết mặc bay”, ám chỉ thái độ sống vô cảm, vô tâm, không hề quan tâm đến phúc lợi của những người chung quanh.
Bệnh vô cảm hay chủ nghĩa ma-kê-nô tràn lan trong xã hội
Vô cảm là một đề tài được đề cập khá nhiều trên các trang báo Việt Nam hiện nay và được xem như một thứ bệnh dịch đáng sợ gây ra những tác hại to lớn cho đồng bào, cho quê hương, đất nước.
Cảnh một đám học sinh dửng dưng vô cảm chứng kiến bạn học này đánh đập cách tàn nhẫn và dã man một bạn khác ngay trước mặt mình mà không hề có một lời can gián; cảnh một tài xế xe đầu kéo chở bia bị lật xe giữa chỗ đông người, thay vì được giúp đỡ thì lại thấy đông đảo người tuôn đến hôi của sạch trơn; cảnh nạn nhân cần được cấp cứu tức thời, bị bỏ lơ ngoài hành lang bệnh viện, không được đoái hoài, vì chưa nộp viện phí… và rất nhiều chuyện đau lòng tương tự đã không còn là điều hiếm thấy trên quê hương chúng ta…
Báo chí gọi đó là bệnh vô cảm, là chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang tràn lan trong xã hội. Vô cảm đã trở thành một căn bệnh trầm kha rất khó chữa.
Điều đau lòng là vô cảm không chỉ là một căn bệnh đáng sợ của xã hội mà còn là một thứ bệnh tâm linh của người con cái Chúa. Người đời thì vô cảm với nỗi đau buồn của đồng bào trong nước, còn ki-tô hữu thì vô cảm trước những bất hạnh tinh thần của đông đảo anh chị em chung quanh mình.
Vô cảm với nỗi đau của Thiên Chúa Cha
Thiên Chúa là Người Cha rất mực tốt lành, ngày đêm ưu phiền khắc khoải vì đông đảo con cái yêu dấu của Ngài không nhận biết Ngài là Cha rất tốt lành và giàu lòng yêu thương; vì thế, họ ngoảnh mặt quay lưng lại với Cha, xem Cha là nhân vật hoang đường do những người mê tín dựng lên và cần phải xoá bỏ, hoặc tự nghĩ rằng mình là con không Cha… nên phải sống trong cô đơn khắc khoải trọn kiếp người. Trước tình trạng đó, Thiên Chúa đau khổ biết chừng nào!
Biết thế, nhưng nhiều người con trong nhà Cha, kể cả chúng ta, vẫn thờ ơ vô cảm trước nỗi lòng thổn thức đau khổ của Cha, miễn là hiện nay mình được an vui hạnh phúc trong Nhà Cha là được rồi.
Vô cảm với cảnh bơ vơ lạc lối của anh chị em mình
Là những người con trong nhà Cha, chúng ta được diễm phúc sống kề cận bên Cha, được Cha ấp ủ bằng tình phụ tử ngọt ngào, được Cha dưỡng nuôi bằng những lời khôn ngoan do Chúa Giê-su mang từ trời xuống, được Chúa Thánh Thần là Thầy khôn ngoan soi đường dẫn lối, được Đức Maria là Mẹ hiền bao bọc chở che bằng tình mẫu tử thiêng liêng trìu mến, được đón nhận vô vàn ân sủng qua các Bí Tích… Chúng ta cũng giống như những phú hộ sung túc trong đời sống thiêng liêng, nhưng lại tỏ ra dửng dưng vô cảm với vô số anh chị em ruột thịt con cùng một Cha trên trời, không được diễm phúc như mình.
Vì vô cảm, chúng ta không nói cho anh chị em lương dân biết họ có một Người Cha giàu lòng yêu thương. Vì vô cảm, chúng ta không ra tay dẫn đưa những anh chị em lưu lạc về với Cha để cùng chung hưởng hạnh phúc với mình. Vì vô cảm, chúng ta cứ vui hưởng hạnh phúc của người con trong nhà, còn anh chị em chúng ta có lưu lạc, có đói khát lầm than thì “ma-kê-nô”, có liên quan gì đến chúng ta!
Vô cảm trước lời thôi thúc mời gọi của Cha
Rất nhiều lần, lời Cha qua miệng Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Mt 28,19)”; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. (Lc 10,2)…” Nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó không gây được âm vang để lay động con tim vô cảm của chúng ta, không đủ mạnh để nhen lửa truyền giáo trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như làn gió thoảng qua rồi im bặt.
Chủ nghĩa “ma-kê-nô”
Hôm xưa, sau khi Ca-in thanh toán đứa em vô tội của mình, có tiếng Chúa từ trời vọng xuống hạch tội Ca-in. Ngài phán: “Ca-in, em ngươi đâu?”
Ca-in vô cảm trả lời: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!” (St 4,9) Ma-kê-nô!
Dường như câu đáp: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi” hoặc “Ma-kê-nô”… cũng là châm ngôn sống và hành động của nhiều người trong Hội Thánh Chúa đối với đông đảo anh chị em lương dân quanh mình.
Nếu hôm nay Chúa hỏi mỗi người chúng ta:
- “Con có biết lòng Cha ray rứt đau khổ ngày đêm vì có hơn nửa dân số địa cầu chưa hề biết Ta là Cha thật sự của họ không?” Câu đáp sẽ là: “Ma-kê-nô!”
- “Con có biết hiện nay có hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam, là anh chị em ruột thịt của con, đang cần con nói cho họ biết họ có Cha trên trời hết lòng yêu thương họ và họ đang cần được con dẫn về đoàn tụ trong nhà Cha không?” Câu đáp cũng sẽ là: “Ma-kê-nô!”
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cứu chúng con khỏi bệnh dịch vô cảm hay chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang lây lan và gây nhiều tác hại đau thương cho đất nước và đặc biệt, xin cứu đoàn con trong gia đình Hội Thánh Chúa, khỏi căn bệnh vô cảm tâm linh hoặc chủ nghĩa “ma-kê-nô” độc hại, đang gây nhiều đau khổ cho Thiên Chúa và thiệt hại lớn lao cho rất nhiều người.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam