Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1437644

SÃN SÀNG CHỜ CHÚA ĐÉN

SÃN SÀNG CHỜ CHÚA ĐÉN

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin mừng Lc 12:30-45 Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, về một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy?

Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện nhà vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để làm trò cho nhà vua giải phiền.

Nhà vua gọi anh hề lại và nói:

- "Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho nó".

Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua. Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói:

- "Ta sắp sửa đi du lịch một nơi xa lắm."

- "Nhà vua đi tận đâu lận?" anh hề hỏi.

- "Ta chẳng biết nữa."

- "Nhà vua đi có lâu không?"

- "Đi hoài và không trở về đây nữa."

- "Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?"

- "Chưa hề".

Anh hề liên cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:

- "Vậy xin Hoàng thượng cầm lấy phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi".

Anh chị em thân mến,

"Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến". Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, về một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta.

Chết là đi về sự sống vĩnh cửu, là về với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Thế mà sao chúng ta vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói rằng chúng ta sợ có thể không gặp được Chúa? Chúa luôn mong mõi chờ đợi chúng ta. Phải chăng lo âu sợ hãi là dấu hiệu nói rằng chúng ta chưa chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng khi Chúa đến, là tâm hồn chúng ta còn ngổn ngang, còn tội lỗi và những đam mê, quyến luyến…

Triết gia Platon nói rất đúng: "Ai không bao giờ nghĩ đến sự chết thì không thể biết cách sống". Điều nầy càng đùng với đời sống của người kitô hữu. Làm sao một kitô hữu có thể sống trong thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nếu những chân lý về đời sống vĩnh cửu, về ngày Chúa trở lại… chỉ là những điều xa xôi, mờ ảo, phi thực trước những cơn sốt của cuộc sống thực tiễn mỗi ngày. Đức tin chỉ cho người tín hữu thấy mình phải đi tới đâu và không cho phép người tín hữu hy sinh vận mạng vĩnh cửu vi những lợi ích ngắn hạn. Người kitô hữu phải thấy được tất cả chiều dài con đường mình phải đi.

Vì vậy, người kitô hữu phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát. Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, "kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp".

Trông chờ Chúa đến là điều kiện để sống một cuộc đời kitô hữu đích thực. "Lạy Chúa, xin Chúa mau đến!" đó là lời cầu nguyện khẩn thiết và niềm tin mạnh mẽ của các tín hữu buổi đầu. Chính vì thế mà Giáo Hội sơ khai đã là một Giáo Hội sốt mến, luôn cầu nguyện và bẻ bánh, sống trong tình huynh đệ, để của chung, chia sẻ của cải với anh em nghèo túng.

Còn chúng ta ngày nay thì sao? Thưa anh chị em,

Ưu tư hàng đầu của đông đảo tín hữu hôm nay là gì? Có còn là lòng khao khát Chúa đến nữa không? Chính tâm tình khao khát đợi chờ nầy sẽ chi phối tất cả cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu thúc giục chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi, thắt lưng, cầm đèn sáng trong tay. Đó là thái độ của người khao khát đợi chờ Chúa đến. Những lời khuyến cáo nầy chẳng những ám chỉ những việc cụ thể người kitô hữu phải làm để chuẩn bị đón Chúa, mà còn chỉ cho thấy ý nghĩa bao quát, đích thực của đời kitô hữu. Tất cả đời kitô hữu là một cuộc chuẩn bị và một sự chờ đợi kiên trì. Nó hướng tới sự hoàn tất cánh chung, tới sự thực hiện chung cuộc các Lời Hứa. Vì thế, tất cả đời kitô hữu cũng như toàn thể lịch sử loài người là một Mùa Vọng kéo dài, một Mùa Vọng trường kỳ, trong đó tâm tình tiêu biểu nhất là lòng khao khát Thiên Chúa và niềm hy vọng vui tươi sẽ gặp được Ngài.

Tuy nhiên, niềm hy vọng cánh chung – đợi chờ ngày Chúa đến – không làm giảm giá trị cuộc đời trần thế hiện tại. Cuộc đời của người kitô hữu luôn có một cuộc dằn co, căng thẳng giữa hai chiều kích, giữa niềm hy vọng cánh chung và việc dấn thân vào đời. Có căng thẳng, dằn co, chứ không có mâu thuẩn. Căng thẳng vì mỗi chiều kích có những đòi hỏi riêng của nó, và người kitô hữu phải đáp ứng cả hai. Không được chọn bên nầy mà bỏ bên kia: không được dấn thân vào đời mà quên đích điểm là ngày Chúa đến ; cũng không vì đợi chờ ngày Chúa đến mà xao lãng bổn phận dấn thân vào đời để xây dựng trần thế nầy. Có dằn co, căng thẳng giữa hai chiều kích, nhưng không mâu thuẩn, vì cả hai đều nhằm thực hiện ơn gọi cuối cùng và tòà diện của con người.

Anh chị em thân mến,

Hy vọng cánh chung chẳng những không miễn trừ các trách nhiệm trần thế mà còn là một động lực thúc đẩy chúng ta chu toàn các trách nhiệm đó một cách tận tụy và chu đáo như người quản gia khôn ngoan và trung tín, biết quản lý và phân phát của cải cho các gia nhân, tôi tớ. "Ai được giao cho nhiều thì phải phân phát nhiều." "Phúc cho người quản gia nào khi chủ trở về mà gặp thấy đang làm như vậy". Chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng là một cách tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Vì mọi công trình tốt đẹp thực hiện trong cuộc đời hiện tại sẽ được giữ lại làm chất liệu kiến tạo Nước Trời mai sau.

Mỗi lần cử hành Thánh lễ là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu – Ngài đã chết và đã sống lại – đồng thời trông đợi Ngài lại đến. Xin cho niềm khát khao Chúa đến sẽ làm chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng, nhờ đó ta sẽ đón nhận được Chúa cách trọn vẹn trong mọi thời điểm bất ngờ nhất của cuộc đời.

 

27.Những đầy tớ tỉnh thức - McCarthy

Suy Niệm 1. NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG TÍN

Cái chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy mà không hay biết. Đối với một số người nó đến như kẻ trộm vào ban đêm. Tuy nhiên sự bất ngờ ấy có thể là một ân sủng –nó theo sát chúng ta trong gang tấc. Nó buộc chúng ta chuẩn bị trong mọi lúc.

Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại. Một ngày nọ, một tu sĩ đang quét sàn nhà trong tu viện thì có người hỏi ông, ông sẽ làm gì nếu ông sẽ chết trong vòng một giờ nữa. “Tôi sẽ tiếp tục công việc quét nhà”, ông đáp. Nói cách khác, ông muốn tiếp tục đi theo bổn phận của mình trong lúc đó.

Nhiều người tin rằng hạnh phúc gắn liền với việc không có sự gì để cam kết, không có người nào để đáp lại và không bao giờ để cho nhu cầu hoặc những vấn đề của người khác trói buộc mình. Nhưng không phải thế. Thật ra, trái lại mới đúng. Hạnh phúc và sự viên mãn của một con người không nằm trong tự do, nhưng trong sự chấp nhận của bổn phận. Người ta chấp nhận bổn phận này không phải một cách khắc nghiệt nhưng với lòng yêu thương.

Bất cứ ai chỉ làm tròn bổn phận của mình, thì không làm hết bổn phận ấy. Chúng ta càng hiến dâng tình yêu cho nhiệm vụ khó khăn hơn, thì nó cũng làm cho chúng ta cao quý hơn. Ân sủng cao cả nhất, tự do cao cả nhất trong đời sống là khi điều chúng ta phải làm cũng chính là điều chúng ta thích làm. “Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và thấy đời sống là bổn phận. Tôi hành động và thấy bổn phận là niềm vui”. (Tagore).

Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thuỵ Điển: “Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ?”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông: “Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy là niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.

Đẹp biết bao nếu cái chết đến khi chúng ta đã làm xong mọi việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ đâu vào đó như một bó lúa đã được cột lại. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn đó có phải là trường hợp của mình không bởi vì giờ chết được giấu kín đối với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta nhớ điều này: vấn đề không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta phải cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai hoạ mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.

Mấy năm trước đây ở Mỹ, có một tu sĩ dòng Phanxicô hoạt động giúp đỡ các trẻ em mồ côi, ông tham gia vào một cuộc chạy đua xe đạp để gây quỹ bảo trợ. Trong lúc chạy ông đã bị một xe hơi đâm vào và kết quả là ông đã chết. Đúng là một cái chết không đẹp. Tuy nhiên từ một quan điểm Kitô giáo đó là một cái chết rất đẹp. Ông chết trong lúc làm việc cho Chúa. Ông giống như người đầy tớ trung tín mà Đức Giêsu nói đến trong Tin Mừng.

Đời sống rất quý giá, nhưng chúng ta không vui hưởng thế gian này mãi mãi. Phúc cho những người có ý thức về bổn phận. Sự cao cả của họ gắn liền với ý thức trách nhiệm. Mẹ Têrêxa nói: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chỉ để sống trung thành”.

Suy Niệm 2. HÀNH TRÌNH TRONG ĐỨC TIN

Trong một bài viết cho tạp chí The Tablet (tháng 4-2000) Mục sư Ignotos nói rằng có hai cách tiếp cận đời sống: cách tiếp cận của một người đặt kế hoạch và của một người hành hương. Người đặt kế hoạch thích làm chủ toàn bộ đời sống mình và có thể đặt kế hoạch cho mỗi giai đoạn tuỳ theo những mục tiêu đã định trước. Người đặt kế hoạch theo sự gợi ý của xã hội về những điều mà xã hội cho là thành công, và dành phần lớn thời gian để sống phù hợp với phong cách sống và các giá trị của những người khác. Họ thất vọng đắng cay nếu thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu ấy.

Trái lại, người hành hương là người chấp nhận đời sống như một gói quà mà người ấy mở ra khi sống đời sống đó, vì dù có cố gắng đến đâu, chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn làm chủ sự viẹc xảy ra. Người ấy không để cho thất bại và chán nản làm nhụt chí, nhưng xem chúng như cơ hội cho sự trưởng thành tâm linh. Không giống như người đặt kế hoạch, người hành hương không bao giờ cảm tháy hoàn toàn thoải mái, dễ chịu vớinhưng4 giá trị của xã hội.

Người đặt kế hoạch từ chối sống với đức tin. Trái lại, người hành hương sống bằng đức tin. Dù biết rằng đời sống đầy nguy hiểm, người hành hương vẫn khẳng định nó. Dù ý thức sự bấp bênh hoàn toàn của thân phận con người, người ấy vẫn hoan hỉ. Đó là cốt lõi của đức tin. Người ấy đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, và do đó mở rộng tâm hồn mình cho Ơn Chúa chở che. Người ấy cử hành giây phút hiện tại và do đó có thể sống cuộc đời đến mức cao nhất.

Ápraham là một gương mẫu cao cả của đức tin trong Cựu Ước (Bài đọc 2). Ông là một người hành hương tinh tuyền. Theo lời của Thiên Chúa ông tự làm mình mất gốc, rời bỏ gia đình và dân tộc của ông, và bắt đầu lên đường đến một vùng đất mà Thiên Chúa đã hứa sẽ chỉ cho ông; ở đó ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc to lớn. Đó là một cuộc hành trình đi vào một xứ sở chưa biết. La bàn duy nhất mà ông có chính là đức tin vào Thiên Chúa.

Chúng ta là những con cháu tinh thần của Ápraham. Chúng ta chứng tỏ mình là những con cháu chân chính của Ápraham bằng việc bắt chước đức tin của ông. Đời sống thì đầy dẫy những điều bấp bênh. Giống như Ápraham, chúng ta hành trình vài nơi không biết. Nói cho cùng chúng ta không biết điều gì nằm sau khúc quanh kế tiếp trên đường đời. Tuy nhiên, bất chấp nhưng đế chế và thất bại, chúng ta vẫn tiếp tục hành trình như là những người hành hương nhớ nhung quê nhà nơi mà những hy vọng của chúng ta được thực hiện và đời sống thật của chúng ta sẽ bắt đầu.

Với trọn vẹn đức tin, Ápraham đã chết mà không nhìn thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Là những Kitô hữu chúng ta dành cả cuộc đời của mình để hành trình về vùng đất hứa trên trời. Nhưng khi chúng ta chết vẫn chưa đạt được. Cũng giống như Ápraham, chúng ta lữ hành trong đức tin và chết trong hy vọng.

Đặc biệt trong lúc chết, chúng ta được mời gọi noi gương đức tin của Ápraham. Lúc chết chúng ta phải để mọi sự lại đằng sau, và bắt đầu ra đi đến một vùng đất xa lạ. Nhưng nếu chúng ta đã sống bởi đức tin thì bước cuối cùng trong cuộc hành trình ấy sẽ không khó khăn hơn bất cứ những bước nào trước đó.

Là những Kitô hữu, chúng ta phải ý thức rằng chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành hương của đời sống. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương ấy như là những thành viên của một cộng đoàn sống đức tin. Đức tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ khi đức tin của chúng ta còn non yếu.

Đồng thời, giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu nói đến, chúng ta phải cố gắng trung tín với Thiên Chúa và trung tín với nhau. Một trắc nghiệm thật sự về lòng trung tín là luôn luôn trung tín cho dù gặp cản trở và thất bại, cả khi chỉ là sự trung tín trong những điều nhỏ bé và tin rằng đời sống chúng ta mới thật sự quan trọng và chúng ta có thể làm ra cái khác. Chúng ta nên tìm thấy lòng can đảm và hy vọng trong những lời của Mẹ Têrêxa: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công nhưng chỉ để sống trung thành.”

 

28.Có mấy loại bất ngờ và làm sao để loại bỏ bất ngờ?

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Tuần báo Khoa Học Phổ Thông số ngày 3/8/2001 có đăng mẩu tin ngắn này: Cô Army Dolby 26 tuổi, sống ở Yorshire nước Anh, có người yêu là anh Johnstone sống ở Sydney nước Úc. Vì nhớ nhung và vì muốn làm một ngạc nhiên bất ngờ cho nên nàng đã lằng lặng đáp máy bay vượt 20.000 km để đến thăm chàng. Nhưng khi đến Sydney, thì nàng mới hay, chàng người yêu của nàng cũng muốn làm một ngạc nhiên bất ngờ cho nàng, nên đã không báo trước gì cả, lấy máy bay bay qua Anh, tới Yorshire để gặp nàng. Hai bất ngờ gặp nhau trong một ngày, cho nên chẳng ai gặp được ai. Còn bài Tin Mừng hôm nay vang lên bên tai ta như thể đang Mùa Vọng: chính giờ phút anh em không ngờ, Con Người sẽ đến. Bất ngờ là đề tài suy niệm Lời Chúa hôm nay, với 2 điểm: (1) Có những loại bất ngờ nào? và (2) Làm sao để loại bất ngờ?

1. Có những loại bất ngờ nào?

Chắc các vị càng lớn tuổi càng trải qua nhiều bất ngờ không ngờ. Trong bài Tình Nhớ, Trịnh Công Sơn đã viết, “Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy, người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây… Tình ngỡ chết trong nhau nhưng tình vẫn rộn ràng. Người ngỡ đã quên lâu nhưng người vẫn bâng khuâng… Người ngỡ đã xa xưa nhưng người bỗng lại về …” Đó có thể là loại bất ngờ về thời gian và không gian. Tưởng xa (xưa) mà bất ngờ lại thật gần (kề).

Đang đi đường, bất ngờ con chó chạy qua, cán phải, phải vào nhà thương. Không phải chó vào, mà người vào. Tưởng không thể thương nhau được, mà bất ngờ có biến cố nào đó xảy đến, hai người gắn bó với nhau. Ngược lại cũng không thiếu. Tưởng gắn bó được với nhau suốt đời, mà bất ngờ phải xa nhau mãi mãi. Những bất ngờ trong tình yêu này, tiểu thuyết, phim ảnh khai thác hoài mà không phai. Có rất nhiều loại bất ngờ, nhưng dựa vào Lời Chúa hôm nay, xin nói đến 2 loại bất ngờ: bất ngờ về thời gian và bất ngờ về tính cách.

a) Thời gian

Không ai chối cãi được rằng Lời Chúa trong bài Tin Mừng nhấn mạnh rất nhiều đến sự bất ngờ và là sự bất ngờ về thời gian:

"Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến".

"Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến"

“Anh em hãy sẵn sàng vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”.

Rõ ràng những chi tiết trong lời Đức Giêsu đều nhấn mạnh đến sự bất ngờ về thời gian. Vào ngày không ngờ, giờ không biết chính là lúc Chúa đến.

Trong cuộc sống thường ngày, ta rất thường gặp những bất ngờ về thời gian. Bất ngờ nhưng lại rất thường gặp. Đúng là mâu thuẫn ngay trong ngôn từ. Giống như thành ngữ Tây: Hãy vội vã một cách thong thả. Hâtez-vous lentement. Bất ngờ về thời gian, nhưng thường xảy ra trong dòng đời. Đang tán gẫu, bất ngờ ông chủ tới. Vài lần bất ngờ như thế, là bất ngờ mình bị thôi việc. (Thực ra thì chẳng bất ngờ gì cả việc mình bị thôi việc này). Trong giờ học, đang đọc tiểu thuyết, bất ngờ giám thị tới. Tiểu thuyết bị thu, hạnh kiểm điểm trừ. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm, biết bố mẹ đi vắng lâu, ở nhà dẫn lâu la về phá phách, bất ngờ ông bà quay trở lại, bắt gặp. Bất ngờ về thời gian rất thường xảy ra trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội. Chúng là những bài học tốt cho ta chuẩn bị cái bất ngờ về ngày giờ Chúa đến. Ngày không ngờ, giờ không biết, Chúa đến… Ngài còn sẵn sàng hạ xuống để ví mình như kẻ trộm rình đến, trong thời gian đêm tối nữa kìa. Và như thế từ bất ngờ về thời gian ta chuyển qua bất ngờ về tính cách. Chúa mà lại có tính cách như kẻ trộm, kẻ trộm đêm hôm.

b) Tính cách.

Bất ngờ này có lẽ ta ít quan tâm hơn nhưng lại rất cần chú ý.

Hãy thử nhìn lại biến cố Lụt Hồng Thủy mà có lần Đức Giêsu đã trưng dẫn làm hình ảnh gợi ý suy tư: "Trong những ngày trước nạn Hồng Thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không hay không biết gì". Họ không hay biết gì vì xem ra mọi sự đều thuận buồm xuôi gió: làm ăn phát đạt, kinh tế phát triển, dựng vợ gả chồng, vui chơi thỏa thích. Cứ theo lôgích tự nhiên mà nói, chỉ có dấu hiệu của hạnh phúc chứ không có dấu hiệu gì loan báo tai họa cả. Ai ngờ! Tai họa đã ập đến ngoài cái lôgích bình thường của cuộc sống và của suy nghĩ nhân loại.

Khi Đức Giêsu đến cũng vậy. Chúa đã đến viếng thăm dân của Ngài, nhưng dân Ngài lại không nhận biết. Vì Ngài đã đến trong một tính cách hoàn toàn khác với ước mong và dự định của con người. Người ta đã nuôi sẵn trong đầu óc và tâm tưởng hình ảnh về Đấng Sẽ Đến phải là: giàu sang, quyền quý, uy nghi, hùng mạnh. Đang khi đó, Ngài lại đến trong cảnh khó nghèo, cơ cực, yếu đuối... từ khi sinh ra đến lúc chết đi. Làm sao có thể nhận ra Ngài cho dẫu Ngài đang ở giữa họ và chung sống với họ.

Bất ngờ về tính cách ta vẫn thường gặp trong đời thường. Ai cũng tưởng ông ấy nghèo, ăn xin, nhưng khi nằm xuống, mới biết ông ta có bạc triệu cất giấu. Ai cũng nghĩ Trần văn Giao, giám đốc công ty xây dựng và kinh doanh nhà Đông Phương là giám đốc giỏi, trẻ tuổi mà tài cao. Bất ngờ, bị bắt, mới vỡ lẽ mình giao tiền cho Trần văn Giao là tên lừa đảo. Danh sách bị bất ngờ, lên tới cả ngàn, trong đó có cả những công ti lớn, quốc doanh, như nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội. Mới đây Võ Kim Cự nói rất bất ngờ khi Formasa gây ô nhiễm. Tưởng Formosa (tiếng Latinh nghĩa là đẹp) giàu đẹp như thế, ai ngờ gây ô nhơ như vậy. Còn nói bằng ngôn ngữ hình ảnh của Tin Mừng hôm nay, có sự bất ngờ của tên kẻ trộm đến giữa đêm khuya, nhưng cũng có cả sự bất ngờ của tên ăn cướp đến giữa ban ngày, đi xe con, mặc áo veste... vì thế ai cũng tin tưởng quý mến, nhưng thực chất của hắn vẫn chỉ là tên ăn cướp! Cướp đêm là trộm, cướp ngày là… vẫn luôn có (*). Cuộc sống hôm nay đầy dẫy những thứ bất ngờ như thế

2. Làm sao để loại bỏ bất ngờ?

Bất ngờ về thời gian và bất ngờ về tính cách là hai loại bất ngờ thường gặp. Làm sao để loại hai loại bất ngờ này. Câu chữ nghiêng đặt đầu bài Tin Mừng hôm nay cho ta lời đáp: Hãy tỉnh thức để được sẵn sàng. Nói cách khác, để không bị bất ngờ thì hãy tỉnh thức.

Người thức thì thường khó mà tỉnh. Người thức đêm, thì phải ngủ ngày bù lại. Còn người đã làm việc ban ngày, cộng thêm thức đêm canh chừng, thì không thể tỉnh được quá ba đêm, cho dù cà-phê Trung Nguyên, Mê Trang đậm đặc được cung cấp. Cho nên tỉnh thức Chúa nói đây, cái chính không phải là thức, mà là tỉnh.

Ta hay nói: Sự việc bất ngờ xảy ra mà ông ta tỉnh bơ như không có gì. Tỉnh bơ có thể là xấu, vì đó là thái độ dửng dưng: tỉnh bơ không ngó tới. Nhưng tỉnh bơ cũng mang nghĩa tốt, lúc đó, tỉnh bơ có nghĩa là quen thuộc lắm rồi, chẳng có gì là bất ngờ cả.

Làm quen với sự bất ngờ về thời giờ Chúa đến bằng cách gặp Chúa hoài, thì có gì là bất ngờ nữa. Gặp Chúa trong giờ kinh, gặp Chúa trong giờ lễ, gặp Chúa trong nhà thờ, gặp Chúa trong giờ thờ phượng, thì ta cứ đi ngủ thẳng chân, mà chẳng lo bất ngờ giờ Chúa đến, vì cả lúc ngủ mà ta vẫn tỉnh, tỉnh nghĩa là quen.

Làm quen với sự bất ngờ về tính cách trong cách Chúa đến, bằng cách gặp Chúa trong hình bánh, gặp Chúa trong công việc, và nhất là gặp Chúa trong người nghèo, thì có gì là bất ngờ nữa khi Chúa đến với bất cứ tư cách nào.

Trong thư Rôma, thánh Phaolô viết giữa ban ngày, mà người nói: Đã đến lúc anh em phải thức dậy. Không thức làm sao đọc được lá thư đó. Thức dậy lâu rồi, Phaolô ơi! Phaolô còn nói thêm: Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Chắc tín hữu Roma cũng phải buồn cười khi giữa thanh thiên bạch nhật, mà Phaolô lại nói: đêm sắp tàn, ngày gần đến, nếu như không có câu đi theo: anh em hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy khí giới sự sáng.

Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm? Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi trên với các đệ tử của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác: “Thưa thầy, ấy là lúc ta phân biệt được đâu là cô gà mái đâu là cậu gà trống.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời nữa cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng chút hài lòng nào. Cuối cùng cả đám xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào người khác và nhận ra đó chính là anh chị em ruột của mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”

Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.

Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối đưa đường, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ khí giới sự sáng soi tỏ mọi lối đường.

Nhưng vượt cao hơn lời giải thích của sư phụ, ta còn có thể mạnh dạn nói: đêm sẽ tàn, ngày sẽ tới khi ta nhìn người khác, nhất là người khác đây là người cùng khổ, người bị bỏ rơi… như là chính khuôn mặt của Chúa Kitô chịu đóng đinh. Không phải chỉ nhìn họ như anh chị em mình, mà nhìn họ như chính hiện thân của Chúa. Nếu vậy, ta chẳng còn gì là bất ngờ cả, hay nói đổi lời, ta loại được bất ngờ khi Chúa đến với ta dưới bất cứ tư cách nào: bởi vì ta đang tỉnh –tỉnh nghĩa là quen—quen nhận biết khuôn mặt của Ngài.

Bất ngờ về thời giờ Chúa đến và bất ngờ về tư cách Chúa trở lại đã được ta phân tích để loại bỏ bất ngờ bằng cách năng gặp Chúa và biết nhận ra Người nơi người anh em, nhất là anh em cùng khổ. Đó là ta loại bỏ được tính bất ngờ đáng sợ, nhưng đồng thời lại đón nhận được cái bất ngờ đáng yêu—ở đời cũng thường có những bất ngờ thích thú đáng yêu, như nàng Dolby kia từ Anh bay qua Úc để gặp người yêu, tạo ngạc nhiên thích thú cho chàng Johnstone; như em nhắm lại, anh cho em xem cái này… chắc chắn khi mở mắt ra, trước mặt em không phải là ổ bánh mì thịt nguội, hay cái bánh ú nóng, mà là phải ngạc nhiên bất ngờ hơn nhiều—thì thánh Phaolo nói trong 2Cr “điều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề tưởng nghĩ,” tức là những cái thật bất ngờ ngạc nhiên, Thiên Chúa đã dành sẵn cho kẻ có lòng yêu mến Người. Chớ gì chúng ta cũng được những bất ngờ đáng yêu đó. Amen.

 

29.Những người có trách vụ siêu nhiên

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Kho tàng làm nảy sinh trong tâm trí một cực thu hút. Tất cả những khuynh hướng nội tâm là ý nghĩ, ước vọng, hoạt-động-tính, tự nhiên đều xoay vào điều gì lợi nhất cho mình. Đức Kitô phán: Chớ đặt quyền lợi các ngươi trong những sự gì thuộc về thế gian chóng hư nát, mà phải đặt trong những thực tại siêu nhiên lâu bền. Có những quyền lợi vật chất thật sự xấu, gây bất công, hoặc làm cho tâm hồn sa đọa, chúng không tránh được sự trừng phạt của Thiên Chúa. Một số quyền lợi vất chất khác thật sự tốt, là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Chúng được chúng ta nêu trong kinh nguyện: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Tuy nhiên không được vì lo lắng những quyền lợi vật chất chính đáng nhất mà sao lãng mối quan tâm trước tiên về định mệnh siêu nhiên của mình. Ở điểm này, Phúc Âm nêu ra cả một tập hợp những câu hỏi không thể giải đáp ngoài phạm vi những viễn ảnh đức tin sống động. Muốn có giải đáp theo chủ trương Đức Kitô, phải thật sự dốc lòng tin vào Đức Kitô. Chúng ta có thể áp dụng Lời Chúa cho xã hội, cho chính chúng ta.

1) Xã hội không tin mấy vào Đức Kitô, vậy mà Chúa nói với chính xã hội, với bất cứ cá nhân nào. Chúng ta quan sát cái xã hội mệnh danh là xã hội tiêu thụ. Người ta rất quan tâm đến của cải vật chất, lợi nhuận, đầu tư, đến những kho tàng, theo Lời Chúa, dễ bị trộm cắp lai vãng, dễ bị tiêu tan. Người ta chú tâm nhiều vào việc khéo xoay sở để khỏi phải nhịn mua sắm mà vẫn thăng bằng được ngân sách gia đình hàng tháng. Kho tàng ở đâu, lòng người ở đó - ở chiếc xe hơi lộng lẫy, ở thời trang tối tân, v.v… Trong cái xã hội hưởng thụ ấy, Kitô hữu phải có thái độ nào? Kitô hữu sử dụng của cải thế gian mà không tham lam vô độ, biết đặt lên trên hết những giá trị nhân bản và siêu nhiên là sự công bằng, sự thờ phụng Thiên Chúa, tình liên kết với anh em vì yêu mến Thiên Chúa, quyền tự do tín ngưỡng và tự do tình cảm.

2) Lời Đức Kitô áp dụng cho Kitô hữu như cho kẻ tôi tớ, sống giữa thế gian mà luôn thức tỉnh về phạm vi siêu nhiên. Trong cộng đồng nhân loại, Kitô hữu được Thầy cắt cử làm ‘quản lý’, có nghĩa vụ sinh lợi những thực tại siêu nhiên. Kitô hữu nào ngủ mệt, nghĩa là đua đòi mọi người chạy theo vật chất, mải mê lo việc đời này, kẻ ấy lúc tỉnh dậy dễ gặp nguy hiểm khủng khiếp. Kẻ tôi tớ nào ham mê ăn uống say sưa, ông chủ sẽ tới vào ngày giờ kẻ ấy không ngờ, ông chủ nghiêm trị, đuổi đi. Trái lại, kẻ tôi tới tỉnh thức sẽ được khen thưởng. Kitô hữu nhận được nhiều do ân huệ đức tin, cho nên sẽ bị đòi nhiều. Lại có giời Kitô hữu nhận được nhiều hơn nữa vì được ơn gọi sống làm chứng cho Phúc âm bằng thiên chức mình. Giới được ưu đãi này sẽ bị đòi nhiều hơn nữa. Dẫu sao, bất cứ Kitô hữu nào cũng phải cảnh giác để trả lời một câu hỏi hai vế: Trong đời sống nghề nghiệp chức vụ, tức là trong phạm vi sản xuất – trong đời sống bình thường, tức là trong phạm vi tiêu thụ, mình có triệt để thực thi san sẻ bắt buộc phải làm vì đức công bằng, vì lòng mến Chúa không?

 

30.Phải luôn sẵn sàng

“Các con hãy sẵn sàng”

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy chúng ta về một điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời: ấy là phải luôn luôn sẵn sàng. Sẵn sàng như người đầy tớ trung tín đợi chủ, như người khôn ngoan trông chừng tên đạo tặc, như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.

Như vậy, bài Phúc Âm được nối kết bởi một dụ ngôn riêng rẽ (theo Mátthêu và Marcô), nhưng được gom góp lại dưới một chủ đề theo lối văn pháp thường quen của Luca.

Muốn vào Nước Trời “hãy tỉnh thức và sẵn sàng”.

Xưa nay, nhiều cuộc thất bại đắng cay trong lịch sử cá nhân, gia đình, xã hội đều do một nguyên do là không chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng.

Đại tướng Mac Arthur sau đệ nhị thế chiến có nói: Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể gồm tóm trong hai chữ: ‘quá muộn’. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.

Trong phạm vi thiêng liêng, đi chinh phục Nước Trời, ơn cứu rỗi cũng vậy. Để giải thích, Chúa đưa ra ba dụ ngôn. Dụ ngôn người giúp việc luôn tỉnh thức đợi chủ về. “Thầy bảo thật, chủ sẽ thắt lưng đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng”.

Dụ ngôn về tên ăn trộm, ăn trộm thì có bao giờ báo trước. Vậy hãy tỉnh thức, “giờ nào các ông không ngờ thì Con Người sẽ đến”.

Dụ ngôn người quản lý trung tín luôn làm theo ý chủ, chủ tín nhiệm trao cho quyền trông coi tất cả gia sản.

Tóm lại, muốn được cứu rỗi, phải luôn luôn sẵn sàng: Tỉnh thức, cầu nguyện, hành động và chiến đấu với ma quỷ, với chước cám dỗ.

Một nhà văn hào kể một câu chuyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận về phương thức chiếm đoạt các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỷ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỷ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: ‘Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã!’

Bao nhiêu linh hồn hư mất không sẵn sàng.

Lạy Chúa, xin cho con biết luôn cầm đèn sáng trong tay.

 

31.Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Tỉnh thức là để làm gì? Đối với người Ki-tô hữu, tỉnh thức kiểu nào là hữu hiệu nhất, đẹp ý Chúa nhất?

2. Trong đời sống giáo dân, có thể cầu nguyện khi làm bất cứ việc gì không? Có cách nào biến tất cả mọi việc ta làm thành lời cầu nguyện không?

Suy tư gợi ý:

1. Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng…

Đức Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà. Tỉnh thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.

Từ nhỏ tôi đã nghe cha linh hướng của tôi kể câu chuyện về ông thánh còn rất trẻ tuổi Đaminh Saviô. Đó là câu chuyện tôi rất thích và ảnh hưởng đến đời sống của tôi rất nhiều. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi:

– «Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?»

– «Con vẫn tiếp tục chơi!»

– «Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?»

– «Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!» …

Khi kể câu chuyện ấy xong, cha linh hướng bảo rằng: «Nếu vào giờ chơi luật tu viện buộc phải chơi, mà các con vào nhà thờ cầu nguyện, thì việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Chúa đâu! Vả lại, chính khi các con chơi để đẹp lòng Chúa, vì Chúa muốn giờ đó các con chơi, thì lúc ấy chơi chính là cầu nguyện, mặc dù các con chẳng có vẻ gì là cầu nguyện, hay chẳng có ý hướng cầu nguyện gì lúc ấy cả». Từ khi nghe cha linh hướng nói như thế, tôi bắt đầu có ý nghĩ đến hình thức cầu nguyện bằng hành động hay bằng việc làm, và làm việc trong cầu nguyện.

2. Tỉnh thức theo kiểu … cầu nguyện bằng hành động

Tỉnh thức kiểu của Saviô trên có vẻ như không tỉnh thức, nhưng đích thực là luôn luôn tỉnh thức, có vẻ như không cầu nguyện, nhưng đích thực là luôn luôn cầu nguyện.

Tôi cũng thích câu chuyện 2 người ghiền hút thuốc hỏi cha linh hướng. Một người hỏi: «Thưa cha, vừa cầu nguyện vừa hút thuốc có được không?» Cha nói: «Không được!». Còn người kia hỏi: «Vừa hút thuốc vừa cầu nguyện có nên chăng?» Cha đáp: «Tốt lắm! Nên lắm!» Hai câu trả lời ấy rất đúng nhưng lại làm cho hai người có hai thái độ cầu nguyện khác nhau: một người bỏ hút thuốc để cầu nguyện, và một người vẫn cứ hút, nhưng có thói quen hễ bắt đầu hút thuốc là bắt đầu cầu nguyện.

Thì ra không nên làm gì khác trong khi cầu nguyện, nhưng lại có thể cầu nguyện khi làm bất cứ điều gì. Thế là từ đấy về sau, nhất là trong đời sống giáo dân của tôi vốn không thể dành nhiều giờ để cầu nguyện, tôi thường tập cầu nguyện và kết hiệp với Chúa khi làm bất cứ điều gì. Vì thế, công việc tôi làm thường được chìm trong ý hướng tỉnh thức và cầu nguyện. Nhờ đó, tôi dễ làm tốt đẹp công việc của mình, với ý hướng siêu nhiên. Và khẩu hiệu của tôi là «biến mọi hành động, mọi công việc thành cầu nguyện». Đời sống nội tâm của tôi nhờ thế phát triển hơn, mà có vẻ như rất ít khi cầu nguyện.

Tuy nhiên, tôi vẫn dành ra mỗi ngày vài lần, mỗi lần ít phút để cầu nguyện «nghiêm túc», nghĩa là trong những phút cầu nguyện ấy tôi không làm gì khác. Chính nhờ những giây phút «cầu nguyện kiểu thuần túy» ấy, tôi mới trung thành được với thói quen vừa làm mọi việc vừa cầu nguyện.

3. Cầu nguyện bằng hành động cũng là cách cầu nguyện tuyệt vời

Cầu nguyện là nói với Chúa. Nhưng quả thật, trong đời sống con người, lời nói không phải luôn luôn đi đôi với hành động. Biết bao người khi cầu nguyện, họ nói với Chúa một đằng, còn trong đời sống thực tế họ lại hành động một đằng khác. Họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn «hai người con» trong Tin Mừng (Mt 21,28-32): nói rất hay mà làm rất dở. Đây cũng là một căn bệnh của thời đại, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên, có những người không nói, hoặc nói ít, nhưng hành động thật sự. Họ không nói hay tuyên bố là họ yêu ai cả, nhưng hành động và cách xử sự của họ chứng tỏ họ yêu thương mọi người thật sự.

Xét điều ấy, ta thấy hành động cũng là một cách nói rất có giá trị. Nói tôi yêu bạn, hoặc biểu lộ tình yêu bằng hy sinh thật sự cho bạn, thì cách nào nói lên tình yêu nhiều hơn và chân thật hơn? Nếu hy sinh thật sự có giá trị hơn lời nói, thì cầu nguyện bằng hành động là một cách cầu nguyện tuyệt vời, chắc chắn có giá trị hơn hẳn trước mặt Thiên Chúa. Đó cũng là kết hợp với Chúa qua ý chí và hành động. Nếu chỉ cầu nguyện bằng lời nói xuông, không có hành động kèm theo bảo chứng cho những lời nói ấy, thì hóa ra lời cầu nguyện của ta chỉ toàn là nói «sạo», hoặc hứa hão với Chúa! Đức Giêsu cũng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi» (Mt 7,21). Như vậy, những Ki-tô hữu nào không thể dành nhiều thì giờ để «cầu nguyện kiểu thuần túy», vẫn có thể cầu nguyện khi làm tất cả mọi việc, hoặc biến tất cả mọi việc ấy thành cầu nguyện. Thiết tưởng đó là một cách tỉnh thức rất hữu hiệu và đẹp lòng Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Cha, lúc nào con cũng có thể hành động trong ý hướng muốn làm đẹp lòng Cha, và làm theo cách Cha mong muốn con làm. Nghĩa là con phải làm cách nào hoàn chỉnh nhất, hợp lý nhất, đem lại ích lợi và hạnh phúc cho nhiều người nhất. Con muốn hiệp nhất ý của con với ý của Cha trong từng hành động một. Và con nghĩ đó là cách cầu nguyện bằng hành động, hay biến hành động thành cầu nguyện. Xin cho con đủ tình yêu để thực hiện được điều ấy. Amen.

 

32.Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến – André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

“Maranatha” có nghĩa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến!” Đây là từ cuối cùng của Thánh Kinh, đây là lời nguyện tha thiết của những Kitô hữu đầu tiên. Từ này lại trở nên lời nguyện của một số Kitô hữu ngày nay, nhất là trong những cộng đoàn đặc sủng. Lời này đáng được suy niệm.

Maranatha kêu gọi ngày tận thế, cái ngày kinh khủng là ngày mà Chúa Kitô xuất hiện trong vinh quang khởi đầu cuộc sống mới của con người tràn đầy sinh khí của Chúa. Bởi vì như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta chính Thiên Chúa sẽ mời gọi chúng ta vào hưởng sự vui vẻ của Ngài: “Ngài sẽ cho các ngươi ngồi vào bàn và lần lượt phục vụ các ngươi.”

Nhưng mặc dầu kỳ diệu và tràn đầy tình yêu đến thế, cái kết cục vĩ đại này có lẽ không ngày đêm ám ảnh chúng ta lắm. Chúng ta ít hiểu điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta làm khi nói với chúng ta: “Hãy sống như những người đang chờ đợi”. Và khi chúng ta ngoan ngoãn lặp lại theo Ngài: “Lạy Cha, xin cho Nước Cha trị đến”. Điều này không làm lòng chúng ta hướng về ngày cánh chung, trong khi đó ý nghĩa đầy đủ là: “Xin cho thế giới chung cuộc nơi mà Cha sẽ trị vì mau đến”.

Thế giới đó đã đến. Chúng ta đi đến sự viên mãn nhưng thế giới đó đến trong sự khởi đầu của chúng ta. Thời kỳ cánh chung (nghĩa là những mục tiêu cuối cùng) là một bình minh xa xăm soi sáng sự tiến triển của nhân loại (tổng kết, như một nhà chính trị nổi tiếng đã nói, đó là một sự tiến triển) hướng về các mặt trời vĩnh cửu.

Cho nên sự chờ đợi Kitô giáo không có tính cách tĩnh tại và giải phóng. Nó là ý thức (có thể không sống động lắm) về một sự sản sinh vĩ đại.

Nền linh đạo chắc chắn nhất mà người ta luôn dạy chúng ta thì rõ ràng: phải sống tràn đầy ngày hôm nay. Nhưng đó là “ngày hôm nay của Chúa, tràn đầy Chúa và tràn đầy sự chờ đợi Ngài.

Liều lượng giữa hoạt động tức thì và sự chờ đợi thì rất tế nhị. Nó thay đổi theo các thời đại hoặc thậm chí theo mỗi tâm trạng. Sẽ có cho tới cùng những người miệt mài với thế gian và những người mơ ước trời cao. Tuy vậy, nói đến liều lượng tức phải có cả hai, và có nơi mỗi người trong lòng chúng ta: sự chờ đợi, vâng, nhưng trong một sự nhẫn nại rất tích cực. Biện chứng giữa ngày hôm nay và ngày mai là luôn luôn phải tỉnh thức. Biện chứng này suýt bị sai lệch ngày từ khi Kitô giáo mới ra đời. Các tín hữu Thessalonica của thánh Phaolô bị Maranatha tác động đến nỗi họ không còn làm gì nữa cả. Thánh Phaolô phải nói với họ: “Không, ngày của Chúa chưa đến! Phải sống, phải làm việc” (2Ts)

Chúng ta đã ghi nhận rất tốt bài học bởi vì ngày hôm nay của chúng ta hết sức bận dịu đến độ không tin vào thời kì cánh chung. “Những mục tiêu cuối cùng sao? Để rồi xem!” Ngay cả nơi những người Kitô hữu, người ta nhượng bộ hai cách sống (thường chỉ là hai gian đoạn của một cuộc sống) dưới trần thế này vì Maranatha: cái tôi bất cần và cái lịch sống cuồng sống vội.

Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta có cuộc sống tỉnh thức: “Hãy là những người đang chờ đợi”, hãy ý thức việc ngày tháng qua đi và chấm dứt. Nhưng “theo kiểu người quản lý trung thành và khôn ngoan”. Một người quản lý “bận bịu” lắng nghe trong tiếng động của những ngày đang đi qua tiếng của Ngày tận thế đang tới. Cho nên Maranatha không phải là một lời nguyện giả hình, kêu xin Chúa cho ngày tận thế “đến” mà không muốn Ngài đến. Chúng ta có thể nói với Ngài “Xin hãy đến” bởi vì Ngài đang đến và để Ngài đến nhiều hơn nữa, ngày từ bây giờ, thấm nhuần những ngày hôm nay của chúng ta những giá trị cho ngày mai. Maranatha thông truyền cái vĩ đại vào trong điều gì có nguy cơ nhỏ nhặt, tẻ nhạt hoặc lệch lạc. Đó là những ngày lê thê hoặc chạy theo thời gian, những ngày khổ hình bị giết chết bằng những liều thuốc an thần. Nếu trong tất cả những điều đó tôi mất đi sự chờ đợi cơ bản của tôi, Maranatha của tôi, thì tôi chỉ còn là một kẻ chia nhỏ thời gian mà thôi, tôi không xây dựng gì cả, tôi không tự chuẩn bị cho gì cả.

Lạy Chúa, xin hãy đến! Xin hãy thâm nhập những ngày cuối cùng. Qua việc Ngài đến dần dần, xin hãy chuẩn bị việc Ngài đến tràn đầy nơi chúng con và nơi thế giới. Ánh sáng Mừng vui, Ánh sáng vĩnh cửu của Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô Thánh thiện và Hạnh phúc.

 

33.Tin - Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Biết sự vật, là biết quy luật vận chuyển của nó, và người ta có thể làm chủ, hiểu như người ta có thể can thiệp vào tiến trình vận hành đó. Người ta cũng có thể biết con người như một sinh vật, hiểu như biết những vận hành sinh học nơi con người, và can thiệp như các y bác sĩ đã thực hiện khi chữa bệnh cho con người.

Trong tương quan giữa con người với con người, ngoài những phản ứng tâm sinh lý người ta có thể khảo sát nghiên cứu và đặt thành quy luật, còn có một yếu tố quyết định, đó là chọn lựa tự do của con người. Chính yếu tố chọn lựa tự do của con người, hình thành mỗi người với bản sắc riêng, với cá tính và tư cách của họ. Con người không thể làm chủ được con người, hiểu như người ta không biết được những gì người khác chọn lựa với tự do của mình.

Trong lịch sử tội ác, kẻ gian có thể dùng những chất hóa học gây phản ứng sinh hóa học nhằm ảnh hưởng và điều khiển người khác, nhưng lúc đó người ta không còn tự do chọn lựa nữa; lúc đó người ta chỉ hành xử như một sinh vật chứ không hành xử như một con người, như thực tại nhân linh.

Con người với tự do, lúc này có thể hành xử khác với cách hành xử ở thời điểm trước. Trước người ta tốt, không có nghĩa bây giờ người ta tốt. Con người có thể thay đổi, có thể tốt hơn hoặc có thể dở hơn, tùy chọn lựa của mỗi người. Chính vì chọn lựa tự do, nên người ta không thể biết chính xác gì con người sẽ làm. Tự do, làm con người trở thành mầu nhiệm. Không ai biết trước về tương lai một người, kể cả các thiên thần, các thánh, và ma quỷ. Chỉ có một Thiên Chúa biết về tương lại con người, nhưng Thiên Chúa biết con người ở trên bình diện khác và không phương hại tự do con người bởi vì Ngài là Thiên Chúa. “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng biết ai cố tình từ khước và sống bất hạnh trọn đời vì họ đã chọn mãi mãi như vậy.

Tin, là hành vi tự do của con người đối với con người. Tại sao Kitô hữu yêu nhau lại dẫn nhau tới nhà thờ cử hành bí tích Hôn Phối? Bởi vì họ muốn Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu của họ, vì họ muốn cộng đoàn tín hữu cầu nguyện cho họ được trung thành trọn đời với nhau. Tại sao trong bí tích Hôn Phối, hai người lại thề hứa với nhau trước mặt cộng đoàn Hội Thánh địa phương? Nếu họ không có khả năng phản bội, thì họ đã chẳng phải thề. Họ thề, vì họ có thể thay đổi, và người kia tin rằng họ sẽ trung thành. Không có gì bảo đảm người đó sẽ trung thành, họ phải tin vào nhau, tin vào chính con người của nhau.

Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng không thể xác, nhưng Ngài là Thiên Chúa Ba Ngôi Vị. Vì vậy, tương quan với Ngài phải là tương quan tình yêu, nghĩa là, như hai người phải tin nhau để yêu nhau, thì con người cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ở một mức độ nào đó không cần chứng minh Thiên Chúa hiện hữu, vì trong tương quan tình yêu với ai đó, sự hiện hữu của người kia phải được hàm chứa và không thể nghi ngờ. Phải chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, e rằng tương quan đó chưa phải là tương quan tình yêu.

Niềm tin của Kitô hữu đối với Thiên Chúa không là niềm tin có Thiên Chúa hay không có Thiên Chúa, nhưng là mình có tin tưởng phó thác tương lai mình cho Thiên Chúa không. Kitô hữu chân chính không chỉ không nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa mà còn tin Thiên Chúa yêu mình; Ngài can thiệp vào đời mình để làm những điều tốt nhất cho mình. Tin vào những dấu lạ được kể trong lịch sử cứu độ, là tin Thiên Chúa đã yêu thương và can thiệp vào lịch sử dân Do Thái, để qua dân Do Thái Thiên Chúa diễn tả tình yêu đối với tất cả loài người.

Tin Thiên Chúa, hàm chứa biết Thiên Chúa hiện hữu, trông cậy phó thác nơi Ngài. Xưa Abraham đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, nên đã dám bỏ quê cha đất tổ để đi đến một nơi xa lạ mà không sợ những nguy hiểm trên đường. Cũng vì tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa mà Abraham dám hiến tế con như Thiên Chúa truyền lệnh dù chính Thiên Chúa đã cho biết dòng giống ông sẽ đông như sao trên trời như cát bãi biển qua Isaac. Vì tin và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, tin Thiên Chúa sẽ làm những điều tốt lành nhất cho mình và cho những người thân yêu của mình, mà bao anh hùng tử đạo đã dám chấp nhận cái chết để trung thành với Thiên Chúa.

Tin Thiên Chúa yêu thương mình, tin Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho mình, tin Thiên Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để cứu giúp mình, sẽ làm con người an tâm trong mọi trường hợp, ngay cả những lúc cùng quẫn nhất. Nếu không tin Thiên Chúa yêu thương mình, con người khó có thể sống hạnh phúc nếu không muốn nói, không thể sống hạnh phúc thật. Với Kitô hữu, Đức Yêsu là bảo chứng cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Nếu ai đó tin biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, thì họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Chưa nhận biết Đức Yêsu, con người chưa nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người.

Niềm tin vào Thiên Chúa được cụ thể hóa qua đời sống thường ngày của mỗi người. Yêu thương tha nhân, đặc biệt những người cần đến mình, những người nghèo, những người cô thế cô thân. Niềm tin vào Thiên Chúa được thể hiện qua việc phục vụ anh em xung quanh, trở thành niềm vui và chỗ dựa cho những người sống với mình. Đời sống hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau đã khởi đầu ngay ở đời này, thể hiện qua đời sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Ai yêu Chúa yêu người, thì đã được hạnh phúc ngay trong đời này. Chính tin tưởng trông cậy phó thác vào Thiên Chúa, làm con người có thể sống yêu thương và phục vụ anh em mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn, tin là gì?

2. Tin là một cách biết. Bạn nghĩ sao về câu nói trên?

3. Tin vào Đức Yêsu, bạn được gì?

 

34.Linh đạo lữ hành – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần?

Những người đang trên đường

Đức Giêsu nói: “Đừng tích trữ những gì có thể mục nát hay trộm cướp có thể lấy đi được, nhưng hãy tích trữ những gì không hư nát và không thể bị đánh cắp”. Cái mình cho là quý, mình luôn bận tâm và hướng lòng về đó. Cái mình cho là quý, có thực sự là những điều trường tồn? Tiêu chuẩn nào giúp mình nhận ra cái có giá trị thực sự? Cái chết giúp con người nhận ra, mình chỉ là lữ khách.

Cái chết đến với mình lúc nào mình đâu có biết! Một tai nạn giao thông có thể xảy ra ai lường trước được. Mình đâu có thể mang tài sản vật chất đi với mình được. Cuộc đời này qua mau. Ai hành động như thể sống vĩnh viễn trên cõi đời này, là người không khôn ngoan. Giờ chết đến, tôi sẽ ra đi tay trắng, và chỉ mang theo chính mình, ngay cả thân xác này cũng không thể mang theo được.

Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người đầy tớ chờ chủ về để dạy thái độ phải có khi sống trên dương thế này. “Sẵn sàng”. Phải tỉnh thức vì không biết giờ nào chủ về đến. Cái chết là chung cho tất cả mọi người, cho cả các tông đồ và dân chúng. Cách đối xử của Thiên Chúa với mọi người đều như nhau, dù ở bất cứ địa vị hay bậc sống nào. Sự trung thành không hệ tại ở chức vụ nhưng qua cuộc sống, nơi việc làm.

Đức tin giúp sống linh đạo lữ hành

Chính đức tin giúp mỗi người sống linh đạo lữ hành trong đời trần thế này. Vì tin vào Lời Chúa, mà Noê đã đóng tàu khi tất cả dường như rất bình yên. Vì tin mà Abraham đã bỏ quê cha làng xóm để đi đến phương trời xa, đi theo lời mời gọi vừa chắc chắn vừa rất xa vời. Ngay cả khi chết Abraham vẫn còn phải tin rằng mình sẽ có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, vẫn phải tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình và con cháu đất để sở hữu và canh tác (vì khi vợ Abraham là Sara chết, Abraham phải mua đất chôn vợ). Vì tin mà bao nhiêu người đã dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa.

Nếu không có đức tin, Noê, Abraham, và các anh hùng tử đạo đã không hành xử như vậy. Nếu không có đức tin, các tín hữu đã chẳng sống nghèo và giúp đỡ những người khốn khổ. Nếu không có đức tin, chắc người ta đã sống phóng đãng và bất chấp tất cả, cốt sao để được lợi trước mắt.

Đức tin giúp con người hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, chấp nhận những điều không vừa ý một cách can đảm và anh hùng, cũng như giúp con người sống hạnh phúc trong những điều kiện mà người ta tưởng rằng không có thể.

Linh đạo lữ hành

Khi coi cuộc sống trần gian như cuộc lữ hành, không có nghĩa, coi thường cuộc sống trần thế, nhưng muốn nói, cuộc sống trần thế là thời gian dẫn ta tới sự sống vĩnh cửu.

Cuộc sống trần thế này rất quan trọng, nếu ta không tận dụng hoặc không sống nó một cách trọn vẹn, ta không thể dễ dàng tới đích ở cuối đường đời. Cuộc đời chóng qua, nhưng rất quan trọng. Cũng tương tự dùng máy bay để đi tới một nơi nào đó, tuy dù chỉ bay trong mấy giờ nhưng rất quan trọng, nếu không dùng thời giờ đó một cách đúng đắn nghiêm chỉnh, người ta không đi được tới nơi người ta muốn. Đời tạm dẫn ta về quê trời, nếu không sống trọn vẹn đời tạm, e rằng khó đạt đến quê trời.

Đức tin giúp người ta nhận biết đúng thực tại, và Thiên Chúa luôn luôn ban ơn giúp người ta sống với Ngài ngay trong cuộc sống đời tạm này. Thiên Chúa làm tất cả cho ta. Hãy tin tưởng và vui sống, ngay cả trong “biển đời” này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Đâu là nét đẹp của cuộc đời này?

2. Thiên Chúa muốn bạn làm gì trong suốt đời bạn?

3. Điều gì ngăn cản bạn sống hạnh phúc trong cuộc sống này?

 

home Mục lục Lưu trữ