Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 45
Tổng truy cập: 1436409
NHÌN CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA QUA CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
NHÌN CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA QUA CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
Đức Giêsu nhắc nhở mạnh mẽ rằng Thiên Chúa của người tin không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, Người là Thiên Chúa của người sống vì chính Người là Thiên Chúa hằng sống, yêu mến sự sống. Với sự xác định như thế, Đức Giêsu nâng cuộc tranh luận lên tầm cao sự thật vượt trên những cuộc bàn cãi vô bổ. Chúa đưa những người Sađốc (giáo phái chủ trương không có sự sống lại) vào thế lố bịch trong khi họ muốn chế giễu Chúa. Câu vấn nạn tiêu biểu cho xảo thuật biện chứng mà một số người xa lạ với đức tin ưa dùng. Từ chối thảo luận toàn bộ mầu nhiệm, họ tách riêng nhân tố này hoặc nhân tố khác của mầu nhiệm, họ tự hào mình thông thái, thừa sức lý luận để bác bỏ từng nhân tố một. Đức Giêsu cho ta hiểu, muốn tranh luận với hạng người ấy thì phải đứng ngoài lãnh vực sở trường của họ. Phải đơn giản xác định đức tin trong tầm mức đức tin, nói về những dữ kiện đức tin thì phải ở chính cao độ của đức tin. Đức Giêsu xác định kẻ chết sẽ sống lại, nhưng Chúa loại bỏ cách nhìn quá giản lược cho rằng sống lại là trở lại đời sống thế gian như hiện nay. Chúng ta có thể nêu ra hai câu hỏi:
1) Chết là gì? Thật vậy, trước khi nói về sự sống lại, nên nói rõ về ý nghĩa sự chết. Chết là một sự kiện tàn khốc. Xét bề ngoài, một người chết là một người hết sinh tồn. Nhưng thật sự việc gì đã xảy ra? Sự chết đã chẳng bắt đầu cùng lúc với sự sống ư? Nghĩa là đời sống con người, trong thân phận hiện tại của mình, chẳng mang dấu vết sự chết đó sao? Sự chết được kiểm chứng chẳng biểu lộ một sự mất mát thê thảm, mất đi một trạng thái in hằn lên con người suốt cuộc đời dưới thế ư? Tội lỗi đã biến đổi chúng ta, chúng ta không còn là những con người phù hợp với quan niệm của Thiên Chúa trong ngày đầu sáng tạo. Do ân huệ Thiên Chúa, sự sống phải chăng là sự hoàn trả về nguyên trạng theo thánh ý Thiên Chúa quan niệm, muốn như thế và thương mến vô cùng? Trạng thái phục sinh sẽ như thế nào? Về điểm này, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy gạt đi tất cả những ảo tưởng của xác phàm. Chúng ta sẽ sống lại trong trạng thái ‘con Thiên Chúa’ cả hồn lẫn xác, trong toàn bộ bản thể chúng ta. Đức Giêsu không muốn nói thêm. Nhưng nghĩ cho cùng, còn có gì hơn chức vị làm ‘con Thiên Chúa’ mà phải băn khoăn muốn biết thêm!
2) Đức Giêsu nghĩ về sự chết của chúng ta thế nào? Qua những lời phán dạy của Chúa, chúng ta cảm thấy Chúa nhìn cái chết của chúng ta qua cái chết của Người. Chúa phán, chúng ta sẽ là con Thiên Chúa. Chúa liên kết chúng ta với phẩm tước ‘Con Thiên Chúa’ của Người. Chúa nói thêm: “Hết thảy sẽ sống cho Thiên Chúa”. Đức Giêsu liên kết chúng ta với lịch sử Người, với mục đích tối hậu lịch sử Người, là đời sống của Chúa cho Thiên Chúa. Chúa biết sẽ vượt qua cái chết, để liên kết chúng ta với cuộc vượt qua của Chúa tiến lên đời sống trường sinh. Khi nói về cái chết của chúng ta, Chúa liên tưởng đến sự sống lại của Người. Đứng trước viễn ảnh đó, câu hỏi bẫy của phái Sađốc nó nhỏ mọn thiển cận làm sao! Không bao giờ người tín đồ của Đức Kitô phấn khởi đúng mức về niềm hy vọng do Thiên Chúa hằng sống biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô ban cho?
35.Một mầu nhiệm lớn hơn chúng ta biết
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Những mầu nhiệm là một phần của cuộc sống, những mầu nhiệm đó đã xảy ra trong hành tinh của chúng ta, đã được xoay vần với những khoảng cách chính xác của mặt trời, nếu không như thế một là chúng ta bị tiêu hủy trong ngọn lửa hoặc sẽ đông cứng thành băng? Vì sao trời đã mưa xuống và đất đã trổ sinh hoa trái? Và điều gì đã làm nên công việc tuyệt diệu ấy? Những điều kỳ diệu đó tâm trí con người chúng ta có thể miêu tả nhưng không thể hiểu hoặc cắt nghĩa. Một trong những điều kỳ diệu là nòi giống con người. Chúng ta là một sự kỳ diệu lớn nhất và là mầu nhiệm sâu xa nhất trong vũ trụ.
Chúng ta bắt đầu sự hiện hữu của mình trong thân xác mẹ của chúng ta như một phòng đơn độc nhỏ xíu có vẻ tầm thường, đã bám vào trong nhau của mẹ như một đặc ân quý giá của đời sống, đang tìm kiếm sự an toàn cư trú trong dạ của mẹ chúng ta. Chúng ta lớn lên và phát triển mỗi ngày rõ ràng hơn, thành một tạo vật mà Thánh Vịnh đoạn 8 đã miêu tả là nhỏ hơn các thiên thần một chút. Không phải những sự kỳ diệu này đã có thể trình bày những điều kỳ diệu lớn hơn chăng?
Không phải những người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay không tin vào sự Phục Sinh từ cõi chết. Họ nghĩ rằng họ đã đánh bẫy Chúa Giêsu và đặt một câu hỏi cho có vẻ giống như sự Phục Sinh thì không thể có. Một người đàn bà đã kết hôn với bảy người chồng hành sự. Một câu hỏi đặt ra là người đàn bà đó là vợ của ai sau khi sống lại. Cái sai lầm của họ là nghĩ về giáo lý của sự Phục Sinh có nghĩa là những người sống lại sẽ sống một đời sống xác thịt như đã được sở hữu trước khi họ chết. Chúa Giêsu trong một vài từ đã sửa chữa những sai lầm của họ bằng bài giáo huấn này, mặc dầu trước khi Phục Sinh chúng ta có nhỏ hơn thiên thần một chút nhưng sau khi Phục Sinh chúng ta sẽ giống như các thiên thần. Chúng ta sẽ có một sự thay đổi. Chúng ta sẽ qua một sự phát triển mà không giống như việc chúng ta ở trong dạ mẹ để sửa soạn cho ngày sinh của chúng ta.
Sự phát triển của chúng ta đang diễn ra ngay bây giờ, đặc biệt là qua sự tiếp nhận Thánh Thể. Chúng ta lãnh nhận Thân Mình và Máu của Chúa, Đấng đã chết và sống lại. Đó là Chúa của sự sống lại vinh quang, Đấng đã nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta, duy trì và làm phong phú ân sủng cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể chúng ta hãy nhớ rằng, lời hứa đã được củng cố bởi Lời của Chúa Giêsu: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ cho chúng sống lại vào ngày sau hết”. Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng và vui mừng việc đến để cứu thoát chúng ta, và chúng ta sẽ nói với Người những lời đáp ca trong Thánh Vịnh: “Lạy Chúa khi vinh quang Ngài xuất hiện, niềm vui của chúng con được tràn đầy”. Niềm tin của sự Phục Sinh đã đem lại niềm hy vọng và can đảm cho những người đi trước chúng ta. Những người sốt sắng, giống như bảy anh em trong bài đọc đầu tiên hôm nay đã sẵn sàng đi đến cái chết để giữ vững đức tin của họ. Thật là kinh ngạc khi chính mẹ của họ van xin họ hãy chấp nhận cái chế. Tất cả những điều này đã xảy ra bởi Thiên Chúa đã ban cho niềm tin và hy vọng phục hồi viên mãn sự sống trong sự Phục Sinh vào ngày sau hết.
Chúng ta bị thách đố không phải để chết cho đức tin nhưng là để sóng theo đức tin của chúng ta. Thật sự, sự Phục Sinh của chúng ta diễn ra như một mầu nhiệm được ẩn giấu trong Thiên Chúa, khi chúng ta có thể bảo đảm rằng điều đó sẽ là một điều kỳ diệu lớn lao bởi vì chúng ta sẽ thông dự vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
36.Đời sau khác đời này
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm "Trên đỉnh cao Thập Giá" đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Địa Đàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, A-đam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn. Một lần kia, trên đường ra nương rẫy, A-đam vấp phải thân xác bất động của A-ben. A-đam nâng dậy vác con lên vai đưa về nhà đặt trong vòng tay E-và. Ông Bà lay gọi nhưng A-ben không đáp trả. Trước đây A-ben là đứa con ngoan, lanh lợi, không có trầm lặng như vậy. Ông Bà nâng tay A-ben lên, bàn tay lại rơi xuống đất bất động, trước đây A-ben không hề như thế. Ông Bà nhìn vào đôi mắt của con: lạnh lùng, trắng dã, vô tư một cách bí mật, trước đây đôi mắt của A-ben có vô tình như vậy bao giờ đâu. Ông Bà kinh ngạc, nỗi kinh ngạc tăng dần lên. Thế rồi hai Ông Bà chợt nhớ lời Thiên Chúa: "Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ phải chết".
Cái chết của A-ben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên tổ phạm tội, Địa Đàng đã đóng ngõ cài then. Đau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều.
Ở mọi thời đại, cái chết vẫn là một mầu nhiệm thách thức lý trí con người. Tại sao con người lại phải chết? Chết là gì? Đó luôn luôn là những câu hỏi làm xao xuyến tâm não con người trong mọi không gian và thời gian. Sự chết là một đề tài suy niệm phong phú. Mỗi tôn giáo, mỗi con người nhìn và hiểu một cách tuỳ theo quan niệm của mình, tuỳ theo niềm tin, tuỳ theo chọn lựa và thái độ cuộc sống.
Đối với Kitô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa "vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời" ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: "Thầy là sự sống lại và là sự sống". Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.
Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giêsu. Họ trích sách Đệ nhị luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu...cho người cõi âm xài...Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền...
Chúa Giêsu trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.
Đời sau khác đời này. Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Đời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: "Đức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống".
Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Đức Giêsu sẽ hoàn tất mạc khải này. Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Đấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Kitô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1 Cr 15, 14 ). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: "Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Kitô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính" ( 1 Pr 2, 24 ).
Vì Đức Giêsu đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Đức Kitô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Đức Kitô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Đức Giêsu không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Kitô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 )
Niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Kitô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giêsu. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Đại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Đất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: "Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Đàng."
Sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Kitô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi ( Rm 8, 15 ).
Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: "Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết" (Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô). Amen.
37.Tin vào sự sống đời sau
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.”
1. Chối bỏ việc kẻ chết sống lại
Trong thời Đức Giêsu, ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống xã hội cũng như tôn giáo Do Thái. Ba nhóm ấy là Luật Sĩ, Biệt Phái và Sađucêu.
Nhóm Luật Sĩ và Biệt Phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh Kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy nhiên chính họ lại là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.
Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do Thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do Thái từ trước thời Đức Giêsu.
Họ chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, và chỉ coi Môsê là vị tiên tri vĩ đại nhất. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm Biệt Phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh Kinh (đối với họ chỉ có luật Môsê thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.
Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Môsê mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23,5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.
Theo luật Môsê, luật mà Thánh Kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu góa để gây dòng họ cho anh em mình.
Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu: nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai?
Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xảy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được.
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi. Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa. (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).[ Lm. Giuse Đinh lập Liễm]
2. Khoa học chứng minh có “sự sống đời sau”
Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (cuộc sống sau cõi đời này) vào năm 1975, công chúng Phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm này.
Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng này. Họ đã phỏng vấn 1.370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Có một cuộc sống khác ở "cõi bên kia" và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Điều đặc biệt là sau khi "chết đi sống lại", không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).
Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi. Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.[ http://www.nderf.org/Vietnamese/index.htm]
Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng.[ Văn Quy, Đi về đâu, trg. 39]
3. Niềm Tin Kitô hữu
Mỗi khi đọc kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng, chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.
Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”(Cv 2,32; 10,41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.
Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Một lần nữa chúng ta lập lại lời tuyên xưng trong kinh tin kính: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau.” Amen.
38.Niềm tin xác tín - Br. Quốc Toản, CRM
Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!
Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.
Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.
Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.
Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, "Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?" Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng...v.v.?
Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.
Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời. Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.
39.Suy niệm của Lm. Huy Châu - CRM
Họ là con cái Thiên Chúa giống như các thiên thần
Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm hôm nay có cùng một nội dung: sự sống lại đời sau. Vấn đề sự sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay được nêu lên do nhóm Xađuxê. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu qua về nhóm này: Hai nhóm vị vọng trong dân Do Thái thời Chúa Giêsu mà Phúc Âm thường nhắc đến là Pharisiêu và Xađuxê. Hai nhóm này có nhiều khác biệt. Điển hình là nhóm Pharisiêu chủ trương lo việc tôn giáo, không nhúng tay vào chính trị. Họ tin có sự sống đời sau và có thiên thần. Ngược lại Xađuxê là một nhóm nhỏ nhưng có chỗ đứng trong guồng máy cai trị của người Rôma. Phái Xađuxê không tin có thiên thần và không tin có sự sống đời sau.
Nhìn lại bối cảnh Phúc Âm, có lẽ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự sống đời sau, nhóm Xađuxê cảm thấy "khó chịu" nên muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu và đặt Ngài vào chỗ bí. Câu hỏi họ đặt ra về việc một người đàn bà lần lượt lấy 7 anh em theo luật Maisen có ghi trong sách Đệ Nhị Luật, đoạn 25, câu 5. Họ hỏi nếu người đàn bà đó lấy cả 7 anh em, thì sau khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai? Câu hỏi này khi mới nghe thì có vẻ hóc búa và có lẽ nhóm Xađuxê hí hửng vì bắt bí được Chúa Giêsu. Nhưng câu trả lời của Chúa trước hết khiến cho họ bẽ mặt và làm cho câu hỏi đó thật chỉ là câu hỏi có vẻ "trẻ con". Thứ nữa, câu trả lời của Chúa hé mở cho chúng ta thấy "tình trạng" con người được sống lại trên thiên đàng thế nào: trên thiên đàng người ta không sống trong tình trạng vợ chồng nhưng sống như các thiên thần (Lc 20:34-36). Thực sự chúng ta không biết các thiên thần "sống" như thế nào trên thiên đàng nhưng một số điều căn bản chúng ta biết về các thiên thần là các ngài không có thể xác, không lệ thuộc vào vật chất, và các ngài được hưởng kiến nhan Chúa nên được tràn ngập hạnh phúc.
Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy một tình trạng tâm lý tự nhiên là khi người ta được an toàn dư dật trong cuộc sống vật chất và danh vọng thì người ta coi nhẹ hay ít màng tới đời sống tinh thần. Họ thoả mãn với cuộc sống hiện tại, nên việc họ không tin vào đời sống sau này cũng là một điều dễ hiểu. Một điều lạ là ngày nay số người tin có sự sống sau khi chết (life after death) hay linh hồn bất tử tại Hoa Kỳ gia tăng. Nhưng nhiều người chỉ tin một cách mơ hồ nào đó chứ không tin theo lối tin truyền thống của niềm tin Kitô Giáo. Là những Kitô Hữu đích thực, chúng ta cần xác tín một chân lý là đời sống trên thế gian này không phải là đích tối hậu, nhưng là thiên đàng mai sau. Dầu thế, thiên đàng bắt đầu ngay từ đời này. Do đó đời sống hiện tại của chúng ta sẽ quyết định đời sống mai sau.
Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, con người là chiếc cầu nối liền thế giới thần linh (spiritual) và vật chất (material) vì trong con người có cả hai yếu tố: linh hồn và thể xác. Qua con người, thế giới vật chất được nâng lên biên giới của thế giới thần linh (xem God and the World, tr. 89). Như thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng có thể bắt đầu "sống như thiên thần", và nếu chúng ta muốn bắt đầu cuộc sống như thiên thần trên đời này, chúng ta cũng cần phải đặt lại thứ tự giá trị cuộc sống: giá trị tinh thần trên vật chất; đòi hỏi của Phúc Âm và Giáo Hội trên đòi hỏi của nhu cầu tự nhiên; hướng tất cả về đời sống mai sau. Có lẽ chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: "Được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn mai sau thì được ích gì" (Mt 16:26). Lời Chúa hôm nay, một lần nữa kêu gọi chúng ta lựa chọn: Đời này hay đời sau.
40.Thiên Đàng vĩnh phúc
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Trong một lớp giáo lý, bé Tâm thưa với thầy: "Thưa thầy, Thiên Đàng là gì cơ?" Thầy trả lời: "Thiên Đàng là nơi các Thần Thánh và các linh hồn tốt lành được cùng Chúa tận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Ở đó, không còn có bệnh tật, không còn phải đi học khó khăn, làm lụng vất vả, cũng không còn phải khổ sở mồ hôi nước mắt, thức khuya dậy sớm hoặc phải chết chóc". Bé Tâm rất chăm chú nghe lời thầy giảng, rồi bỗng nhiên em trố đôi mắt ngây thơ nhìn thầy và bỡ ngỡ hỏi: "Vậy trên Thiên Đàng không có kẹo à thầy?"
Sau khi nghe bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng có thể được nghe nhiều bạn trẻ thốt lên câu hỏi: "Vậy trên Thiên Đàng không còn cưới gả gì nữa à?" Và rồi còn nhiều câu hỏi khác tương tự như: "Cũng không có beer, rượu, whisky; không có nhậu, party, khiêu vũ, không có T.V., radio, video tape, phim chưởng kiếm hiệp, không xe hơi, nhà lầu... thế thì buồn chết?" Quả thực, tất cả những thứ đó nếu là tuyệt đối cần thiết cho hạnh phúc của chúng ta được hoàn hảo hơn, thì hẳn cũng sẽ có chứ.
I. HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG ĐÍCH THỰC
Thực ra câu trả lời này cũng như những câu hỏi kia, tỏ ra người ta chưa am hiểu được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Đàng là gì?
Trên Thiên Đàng:
1. Chúng ta sẽ được chiêm ngắm Chúa nhãn tiền, "diện đối diện" (1 Cor 13:12) như Người "hiện hữu" (1 Jn 3:2). Chúng ta gọi đó là "Phúc Hưởng Kiến". Đó là hạnh phúc được nhìn thấy Chúa. Khi được thấy Chúa rồi, chúng ta cũng được thấy những gì liên hệ với chúng ta, như những người thân yêu và bạn hữu của chúng ta còn nơi trần gian hay đã được cùng chung hưởng hạnh phúc với chúng ta nơi Thiên Quốc.
2. Chúng ta sẽ được yêu mến Chúa tha thiết, "lòng bên lòng" với tất cả sự hiểu biết, lòng sốt sắng và sùng mộ; khiến chúng ta say sưa không ngớt dâng lời ca ngợi chúc tụng Chúa.
3. Chúng ta sẽ được tận hưởng Chúa cách no thỏa tràn đầy, vì Chúa là Đấng gồm đủ mọi chân, thiện, mỹ; là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn ái, toàn mỹ... làm cho chúng ta được vui sướng, hạnh phúc khoái lạc vô cùng. Trái lại, những vui sướng hạnh phúc nơi trần gian sánh với những vui sướng hạnh phúc chân thật nơi Thiên Quốc, trở thành những cái tầm phào, phù ảo và mau qua.
II. MỘT BIẾN ĐỔI KỲ DIỆU CAO SIÊU
Theo giáo lý Thánh Phaolô, thân xác chúng ta trên Thiên Đàng sẽ là thân xác vinh hiển, khác hẳn với thân xác sống nơi trần gian; nó giống như cây đã mọc lên với cành lá xum xuê, hoa trái ngon ngọt; trái hẳn với hạt giống còn chôn vùi dưới lòng đất đang bị mục nát thối rữa; như lời Thánh Tông Đồ đã viết: "Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân xác thần thiêng" (1 Cor 15:44).
Thân xác vinh hiển của chúng ta khi đó, được tận hưởng tràn đầy mọi vui sướng hạnh phúc cao siêu tuyệt diệu, nên không còn thiết gì những vui sướng hạnh phúc nơi trần gian nữa. Chính Thánh Phaolô đã được niếm hưởng đôi phút khi được Chúa cất lên tầng trời thứ ba qua phúc "Hưởng Kiến", Ngài đã được tràn đầy hạnh phúc thỏa mãn sung sướng thuật lại: "Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được những vui sướng hạnh phúc Chúa đã sắm sẵn cho những ai yêu mến phụng sự Người" (2 Cor 2:9).
Thánh Lễ chúng ta đang cử hành cũng cho chúng ta ý niệm về sự khác biệt lạ lùng giữa Thiên Đàng và trần gian. Một lát nữa, chúng ta hiến dâng bánh rượu lên Chúa Cha trên trời; rồi trong giây lát, qua tay Linh Mục, Cha trên trời sẽ ban cho chúng ta những sự dưới đất đã được biến thể nên Mình Máu Thánh chân thật của Con Một Người nơi Mầu Nhiệm Thánh Thể, mà chúng ta được diễm phúc lãnh nhận vào linh hồn chúng ta. Khác biệt biết bao, kỳ diệu dường nào, Báu Vật ban tặng khác biệt bánh rượu! Thân xác mê muội, đau yếu, bệnh tật, chết chóc của chúng ta, cũng sẽ được biến đổi thành thân xác vinh hiển, sáng láng, quyền năng và dũng mạnh tương tự! Chớ gì nhờ việc tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào linh hồn, Chúa cho chúng ta được xứng đáng lãnh nhận sự biến đổi kỳ diệu cao siêu này! Vì thân xác chúng ta khi đó cũng sẽ trở nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, có tính cách thấu nhập như luồng sáng thâu qua thủy tinh, giống như Chúa đã xuất ra khỏi cung lòng trinh khiết của Mẹ Thánh Người, mà không làm thiệt hại nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn của Mẹ.
III. ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC VĨNH PHÚC THIÊN ĐÀNG
Để chiếm được sự sống đời đời và đạt được hạnh phúc Thiên Đàng vĩnh cửu cách chắc chắn bảo đảm, Chúa đã ban cho chúng ta một thứ Lương Thực Nhiệm Mầu, đó là Bánh Thánh Thể Chúa Kitô, vì theo lời Chúa quả quyết: "Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ được sống đời đời; mà Bánh Ta sắp ban chính là Thịt Ta nuôi sống thế nhân" (Jn 6:51-52). Chúa còn xác quyết nếu chúng ta ăn Thịt và uống Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, chúng ta sẽ được phục sinh vinh hiển trong ngày sau hết: "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết" (Jn 6:54). Nhờ lãnh nhận Bánh Thánh Thể cách xứng đáng, chúng ta còn được Chúa sống trong chúng ta và chúng ta được sống trong Chúa: "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Như Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Ta và Ta sống bởi Cha thế nào thì kẻ ăn Ta cũng sẽ bởi Ta như vậy" (Jn 6:57-58).
Nếu chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, chắc chắn Chúa sẽ ban cho chúng ta được đúng như lời Chúa đã hứa, là cho chúng ta chiếm được sự sống đời đời, được phục sinh vinh hiển và được tận hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vĩnh cửu... Trái lại, nếu chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa cách bất xứng thì theo lời Thánh Phaolô: "Nếu anh chị em lãnh nhận Thánh Thể Chúa cách bất xứng, thì anh chị em ăn và uống án phạt cho mình" (1 Cor 11:29).
Kết Luận
Xin Mẹ giúp chúng con biết lãnh nhận Thánh Thể Chúa là Hoa Trái của lòng Mẹ cách xứng đáng, để chúng con cũng đáng lãnh nhận sự sống muôn đời trong hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho các con cái trung thành.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam