Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 81

Tổng truy cập: 1436929

NGUỒN GỐC KINH MÂN CÔI

NGUỒN GỐC KINH MÂN CÔI

 

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Lc 1: 26-38 Năm 1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi. Cuộc chiến thắng xảy ra hết sức lạ lùng, nhờ hiệu quả của kinh Mân Côi. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi.

Lễ mừng kính Đức Mẹ Mân Côi được Đức Giáo Hòang Piô V, xuất thân từ dòng Đa Minh lập ra vào năm 1572, với tước hiệu là lễ "Đức Mẹ Chiến Thắng" để cảm tạ Đức Mẹ đã giúp đạo quân Công Giáo chặn đứng cuộc xâm lăng của người Hồi Giáo tại vùng Lepante ngày 07/10/1571.

Năm 1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi. Cuộc chiến thắng xảy ra hết sức lạ lùng, nhờ hiệu quả của kinh Mân Côi. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi.

Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Piô V, thì cũng từ đó, Giáo Hội cổ võ tín hữu đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này.

Cổ võ không phải để mừng kính chiến thắng tại Lepante, nhưng cổ động lòng tin vào sự can thiệp của Đức Maria qua các thời đại.

Tin tưởng vào sự cầu bầu của Đức Mẹ trong buổi sơ khai cũng như dọc suốt lịch sử của Giáo Hội, chúng ta kêu cầu Mẹ qua tràng chuỗi Mân Côi.

Kinh nghiệm cho thấy, nhờ kinh Mân Côi, Đức Maria đã can thiệp mạnh mẽ vào đời sống cá nhân, gia đình cũng như các cộng đoàn, can thiệp một các mạnh mẽ và hiệu quả, nhiều khi quá sự mong ước của chúng ta.

Chính vì vậy chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị Cha Chung Giáo Phận: “Tháng Mười năm nay là một tháng rất đặc biệt. Không chỉ là tháng Mân Côi và cũng không chỉ có ngày Thế Giới Truyền Giáo vào Chúa Nhật ngày 20 tháng 10, nhưng theo ý muốn của Đức thánh Cha Phanxicô, vị Cha Chung của chúng ta, đây là “Tháng Đặc Biệt Truyền Giáo”. Vì thế, tôi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận Phú Cường chúng ta hãy bước vào tháng 10 năm 2019 này trong tinh hiệp thông sâu xa với Đức Thánh Cha Phanxicô và nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của ngài. Chúng ta hãy cùng cử hành Tháng Đặc Biệt Truyền Giáo này trong nỗ lực cầu nguyện cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng và phát huy những sáng kiến nhằm khơi dậy ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mọi tín hữu trong lòng Giáo Hội, cũng như sự nhiệt tình dấn thân trong việc loan báo Tin Mừng.

Việc này không chỉ giới hạn trong thánh Mười năm nay, nhưng cần được tiếp tục trong đời sống Kitô hữu, cách đặc biệt như một sự khởi động để giáo phận bước vào năm mục vụ mới, năm ‘hiệp thông loan báo Tin Mừng’ là đỉnh cao của định hướng mục vụ bốn năm của giáo phận, tức là “hiệp thông trong đức tin và đức ái để loan báo Tin Mừng”

Vậy “hiệp thông loan báo Tin Mừng” là gì và hiệp thông và truyền giáo có liên hệ gì với nhau?

1. Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết chặt chẽ với nhau.

- Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai giải thích và bao hàm nhau, đến độ sự Hiệp Thông cho thấy nguồn gốc và đồng thời cả kết quả của việc Truyền Giáo. Một đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống trong Đức Kitô là hễ ai hiệp thông với Chúa thì phải sinh hoa kết quả: ”ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.” Như thế, thật chính xác khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, thì ấy là người đã không sống trong sự hiệp thông: ”cành nào không sinh hoa trái thì Cha Thầy sẽ tỉa đi.” Hiệp Thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa kết quả: và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Đức Kitô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời nhất mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế thì hiệp thông và tuyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa trái của việc truyền giáo: hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông.”

- Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết mật thiết với nhau vì Hiệp Thông mang tính Truyền Giáo và Truyền Giáo nhằm mục đích Hiệp Thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất, Đấng kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai đi truyền giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất.” Về phần mình, Giáo Hội ý thức rằng sự Hiệp Thông mà Giáo Hội đã đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm nhận được rằng mình mắc nợ với hết mọi người và với từng người, về hồng ân đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo vào lòng người tín hữu tình mến của Chúa Giêsu Kitô, là sức mạnh nối kết bên trong và đồng thời phát triển bên ngoài. Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội phát xuất từ chính bản chất của Giáo Hội, như ý định của Đức Kitô, đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ …. của sự hiệp nhất nhân loại”. Sứ vụ này nhắm bày tỏ và giúp mọi người sống sự Hiệp Thông “mới”, sự Hiệp Thông đã đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người.

2. Sống Mầu Nhiệm Hiệp Thông

- Giáo xứ là một cộng đoàn “luôn luôn hiệp thông với nhau”, giữa linh mục và giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự Hiệp Thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử. Đồng thời phải cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là giáo xứ và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng cho muôn dân.”

- Đời sống gia đình Kitô hữu đã là đời sống cộng đoàn hướng tới Hiệp Thông. Bàn ăn là nơi cả nhà vui vẻ sum vầy ăn chung trong thanh bình đầm ấm; và bàn thờ là nơi cả nhà cầu nguyện chung tạo nên giờ phút hồi tâm sau một ngày, hay một tuần, một tháng. Thế nhưng, giáo xứ mới là nơi các tín hữu có thể tập họp quanh Bàn Tiệc Thánh Thể, là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cứu độ của Chúa Kitô, cho trẻ nhỏ và cho cha mẹ chúng, và là nơi thuận tiện cho việc thực thi bác ái, từ thiện và huynh đệ. Như vậy, đời sống cộng đoàn giáo xứ hướng tới sự Hiệp Thông sâu hơn, cao hơn, rộng lớn hơn trong cộng đoàn nhỏ gia đình.

- Đời sống trong cộng đoàn Hội Thánh tại địa phương, mà đỉnh cao là Cộng Đoàn Thánh Thể, là biểu hiện sự Hiệp Thông với Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, mang tính bí tích đó. Biểu hiện bí tích đó nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ơn Thông Hiệp, mà thành hiện thực cho cộng đoàn cử hành. Hiện thực Tình Yêu đó vừa là hiệu quả của ân sủng vừa là do sự tham dự tự do của tín hữu. Hoa quả của ân sủng và lòng tin đó thể hiện qua thái độ sống thường nhật trong cộng đoàn giữa các thành viên và với người khác: đó là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật … tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.”

Sống tình yêu thương cụ thể bằng việc nghĩ tốt, nói tốt, làm tốt cho nhau; cảm thông chia sẻ và mau mắn đáp ứng nhu cầu của nhau; quảng đại tha thứ lỗi lầm cho nhau; năng thăm hỏi và động viên khen ngợi đúng lúc; phê bình góp ý cách tế nhị để giúp nhau sửa lỗi; biết tôn trọng nhau khi giao tiếp và có tinh thần trách nhiệm đối với việc chung. Tránh nói xấu nhau, không tranh cãi to tiếng, tránh thái độ vô trách nhiệm với việc chung, nhất là tránh lạm dụng tín nhiệm vay mượn tiền bạc, thường là nguyên nhân gây bất hòa và làm tan rã các gia đình trong giáo xứ.

3. Sống Mầu Nhiệm Hiệp Thông để Truyền Giáo

- Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định… giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi xem xét lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”.

- Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng trên những chứng từ của sự hiệp thông Hội Thánh, đó vốn là điều làm nên chính bản chất của Giáo Hội. Giáo Phận và Giáo Xứ là sự Hiệp Thông của các cộng đoàn, tập hợp xung quanh Vị Mục Tử, trong đó các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân “đối thoại trong cuộc sống và bằng con tim” được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Chính trong giáo phận sự hiệp thông của các cộng đoàn này được thực hiện trước hết ngay giữa lòng các thực tại xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo và văn hóa. Sự Hiệp Thông Hội Thánh đó hàm nghĩa mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành một “Giáo Hội Tham Gia” (partipatory Church), có nghĩa là, một Giáo Hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi riêng của mình và thực hiện vai trò riêng của mình. Để xây dựng sự “Hiệp Thông để Truyền Giáo” và “Truyền Giáo bằng Hiệp Thông”, đặc sủng của mỗi thành viên cần được nhìn nhận, phát huy, và sử dụng cách hiệu quả. Cách riêng, cần để cho giáo dân và tu sĩ tham gia sâu xa hơn nữa trong việc lên kế hoạch mục vụ và ra quyết định, thông qua các cơ chế tham gia như là Hội Đồng Mục Vụ hay các Công Hội Giáo Xứ.

4. Một Linh Đạo Hiệp Thông đích thực

Một Linh Đạo Hiệp Thông đích thực cần phải:

- Đâm rễ sâu trong đời sống Chúa Ba Ngôi, và trở thành một cộng đoàn cầu nguyện và chiêm niệm, một cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể.

- Tham gia và đồng trách nhiệm, hiệp nhất với chủ chăn cũng như với Giáo Hội.

- Làm chứng cho những điều mình tuyên xưng, để cho những giá trị đó nhập thể vào trong lối sống của mình, diễn tả chúng trong cách thế hiện diện, đối thoại và thực hành của mình trong mọi lãnh vực của cuộc sống.

 

  1. Mẹ Mân Côi – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38

Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.

Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.

Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,

Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.

Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.

Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.

Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.

Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.

Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.

Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.

Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.

Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.

Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.

 

  1. Quà tặng

Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy: Quà tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ nam châm hút tình cảm của kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột chặt người khác lại với chúng ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển hình: Giacop đã bảo con đem dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của Simeon bị quan phạt được tha thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho Đavit, để xin nhà vua xá tội cho Nabal.

Còn chúng ta thì sao? Bước vào giữa tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì? Chúng ta nên nhớ rằng: Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị thiệt thòi. Cũng như cha mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi ngược lại. Cha mẹ bao giờ cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu thương cha mẹ.

Với niềm tin đó, chúng ta hãy đến với Mẹ hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay không. Hãy mang theo một thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.

Như chúng ta đã biết kinh Mân Côi xuất phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu cho mọi tâm tình cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn kinh Kính Mừng là lời chào kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời kêu xin của cộng đồng dân Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong cuộc đời của Chúa. Và chúng ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng được rút gọn.

Ngoài ra kinh Mân côi là một lời kinh bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy nguồn nghị lực và niềm hy vọng cho bản thân.

Hơn thế nữa, trải qua dòng thời gian kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá nhân, cho xã hội, cho dân tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là trong phạm vi gia đình, bởi vì gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn ươm trồng cây đức tin cho con cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh nào êm đẹp cho bằng cảnh tượng gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau dâng lên những lời kinh ca tụng Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong gia đình sẽ xích lại gần nhau hơn, cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương của Mẹ.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta có thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi. Bởi vì chỉ trong tình yêu chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà không nhàm chán. Vậy chúng ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không? Chúng ta đã thực hiện lời Mẹ truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như lễ vật Abel chúng ta dâng tiến Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một hạt ngọc chúng ta thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta, mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của Noe, để với con thuyền này chúng ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ bến vĩnh cửu là quê trời.

Ước gì lời kinh mân côi sẽ là lễ vật thường xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai ngày, nhờ đó mà chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với Mẹ.

 

  1. Đức Mẹ Mân Côi – Gm. Farrell

(Gm. Farrell – Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu)

Hơn 100 năm qua, người Công giáo đã cử hành Tháng Mười là Tháng Mân Côi. Việc sùng kính này đã được ĐGH Leo XIII (1810-1903) thiết lập ngày 1-9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại giáo hoàng của ngài.

Việc dành riêng Tháng Mười là Tháng Mân Côi mời gọi chúng ta thêm siêng năng lần Chuỗi Mân Côi, không chỉ trong Tháng Mười mà suốt cả năm và suốt cả đời.

Ngày 7 tháng 10, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Lễ này được Thánh GH Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này nhờ người ta lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến.

Theo thời gian, không còn ai nhớ rõ nguồn gốc. Việc lần chuỗi hạt là thói quen xưa trước thời kỳ Kitô giáo, nhưng người Công giáo đã dùng Chuỗi Mân Côi hằng thế kỷ qua. Mới đầu, người ta gọi là “những hạt kinh Lạy Cha” vì người ta dùng để đếm 150 kinh Lạy Cha (Paternosters). Một số người cho rằng 150 kinh Lạy Cha được thay thế bằng việc ngâm 150 Thánh vịnh cho những ai không đọc.

Truyền thuyết đạo đức này được cho là nguồn gốc của Chuỗi Mân Côi như chúng ta biết là “công” của Thánh Đa Minh (Dominic), nhưng không có dữ liệu nào xác định truyền thuyết này. Tuy nhiên, đó là một tu sĩ Dòng của Thánh Đa Minh, người thiết lập 15 Lời Hứa Mân Côi từ thế kỷ XV, và một tu sĩ Dòng Carthusia là Đa Minh Prussia đã thêm phần suy niệm vào kinh Kính Mừng. 15 mầu nhiệm truyền thống được Thánh GH Piô V tiêu chuẩn hóa.

Kinh Mân Côi là lòng sùng kính Đức Mẹ, thể hiện truyền thống Công giáo tin Đức Mẹ là Đấng dẫn đường đến với Chúa Giêsu như câu chuyện tiệc cưới Cana (Ga 2:8), Đức Mẹ đã nói với gia nhân “làm theo lời Chúa Giêsu bảo”.

Vẻ đẹp của kinh Mân Côi gấp đôi. Thứ nhất là tính đơn giản, thứ nhì là dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu qua các mầu nhiệm của cuộc đời Ngài, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Ngài. Chuỗi Mân Côi đã và đang theo vô số người trên hành trình đến với Chúa Cha.

 

  1. Lễ Mẹ Mân Côi

(Trích dẫn từ ‘Sống Tin Mừng’)

“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).

Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.

Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.

“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.

“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.

“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.

Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.

Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.

Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.

Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.

 

  1. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.

2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?

3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

 

home Mục lục Lưu trữ