Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1434211

NÉP MÌN BÊN CHÚA

NÉP MÌN BÊN CHÚA

 

Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt được. Người Hy lạp vốn nổi tiếng về khôn ngoan và thông biết đã coi việc giảng dạy của Phaolô về Thập giá của Đức Giêsu Kitô là sự điên rồ. Nhà du hành vũ trụ người Nga Gadadin đã kiêu căng nói rằng: "Tôi đã bay khắp cùng trái đất mà chẳng thấy bóng dáng của Thiên Chúa ở đâu cả". Quả thật, sự hiểu biết của những con người kiêu căng đã làm cho họ xa rời Thiên Chúa vốn là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Triết gia Bacon đã nói: "Kiến thức nông cạn đưa con người xa rời tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu xa dẫn đưa con người lại gần Tôn giáo". Như thế, những hiểu biết của con người dù có uyên thâm cỡ nào đi nữa mà làm cho họ trở nên xa cách tôn giáo hay xa cách Thiên Chúa thì chỉ là những kiến thức hàm hồ và nông cạn theo nghĩa sâu xa nhất của nó.

Tin mừng hôm nay chó chúng ta thấy được rằng: Những con người đơn sơ và khiêm tốn sẽ được hiểu biết về Thiên Chúa nhờ họ biết đón nhận Đức Giêsu Kitô và những lời giảng dạy của Ngài. Trong khi đó, những con người tự kiêu, tự phụ về sự thông hiểu của mình đã khước từ Đức Giêsu Kitô và cho Ngài là kẻ mất trí và bị quỷ ám.

Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, một siêu lý đối với con người, nên con người không thể biết rõ về Ngài nếu không được Thiên Chúa ban ơn hiểu biết ấy. Mầu nhiệm nơi Đức Giêsu Kitô "không phải là một vách tường chận đứng trí óc của chúng ta, nhưng là một biển cả, trong đó trí óc chúng ta chìm đắm" (Gustave Thibon). Chính sự khiêm nhường sẽ đưa dẫn con người đến với Thiên Chúa. Khuôn mẫu của sự khiêm nhường ấy chính là Đức Giêsu Kitô "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" Chính Ngài là vị Vua Messia hiền lành và khiêm nhu mà sách tiên tri Dacaria nói đến trong bài đọc một hôm nay.

Đức Giêsu Kitô đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha bởi lẽ Ngài biết rõ về Cha và Cha cũng biết rõ Ngài. Chữ "biết" trong Thánh kinh có nghĩa là có sự liên hệ cá nhân với người mình biết và có sự tiếp xúc thân mật với người đó. Như thế, biết Thiên Chúa chính là nhập vào sức sống lớn lao và một dòng ánh sáng vĩ đại phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài.

Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha. Đây là một hồng ân cao vời mà con người đã đón nhận một cách nhưng không. Ân ban này hoàn toàn miễn phí, chỉ cần người nhận biết mở lòng mình ra và đơn sơ đón nhận. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng đối với những người quá thông minh và hiểu biết! Bởi đó, rất có thể sự khôn ngoan của loài người là nguyên cớ cản trở lớn nhất cho việc họ tìm đến với Thiên Chúa. Khi thấy mình quá giỏi, quá tài, con người chỉ lo củng cố mình và coi mình quá lớn lao đến nỗi không còn chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc đời của họ nữa. Họ thấy mình quá quan trọng đối với nhân loại và nghĩ rằng mình có thể cứu nhân loại khỏi những đau khổ trong cuộc đời này. Sai lầm này xem ra chẳng tốt đẹp cho tha nhân mà cũng chẳng tốt lành gì cho bản thân của họ nữa.

Chuyện kể rằng: "Có một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?

Viên phi công khóc và nói: "Tôi phải có một cây dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ." Nói đoạn, viên phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: "Ồ, chắc là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần tôi". Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.

Vị giáo sĩ thở dài buồn bã, quay sang nói với anh hướng đạo sinh: "Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể chết được". Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười nói: "Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn đủ dù cho hai cha con mình. Người tự hào là thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi bằng chiếc ba lô của con".

Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay người mẹ hiền của mình.

Hãy học biết Thiên Chúa theo ơn Ngài ban cho chúng ta và theo những gì Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta. Biết Thiên Chúa chính là sống thân tình với Ngài, là bơi lội trong biển tình thương và ân sủng của Ngài. Đừng đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ điều gì chỉ nhằm làm thoả mãn tình hiếu kỳ và kiêu căng của chúng ta. Chúa luôn ở gần những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ và không ngừng ban ơn cho họ.

 

24.Trở nên hèn mọn – AM Trần Bình An

Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:

- "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?" Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:

- "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?" Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:

- "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?".

- “Dạ rồi,” chàng ký giả đáp.

- "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?"

- Thưa mẹ, ba đứa!

- "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong! (Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta)

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn, chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.

Hèn mọn bản thân

Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”(Mt 18, 3)

Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở.

Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới,” chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa.

Hèn mọn với tha nhân

Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 14)

Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối.” (Mt 6, 40-42)

Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức, hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa.” (Mt 6, 39)

Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.” (Pl 2,3)

Hèn mọn với Thiên Chúa

Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.“ ( Lc 18, 13 )

Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm."(Lc 17, 10)

Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.” (1Pr 5, 5-6)

Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa!”

“Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp.” (Đường Hy Vọng, số 517)

Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu nhiệm Nước Trời.

Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được Chúa đoái thương nhìn đến. Amen.

 

25.Ai vất vả mang gánh nặng nề

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Hãy đến với ta….!” Đối tượng của lời kêu mời tâm tình nhất Đức Giêsu từng làm là ‘những ai đang vất vả mang gánh nặng nề’. Nhưng họ là những ai? Câu trả lời không viển vông chút nào và rất cần thiết, vì nếu không xác định rõ, rất có thể chính tôi sẽ tự loại mình ra khỏi số đối tượng được Chúa kêu mời cách khẩn thiết nhất.

Tra cứu một số nhà chú giải kinh thánh để tìm đáp án, tôi đã khám phá ra điều đáng kinh ngạc. Ngoài ý nghĩa gánh nặng luật pháp mà người Do Thái thời đó phải gánh chịu, với vô vàn các nghi lễ và qui định đè nặng trên đầu trên cổ, căn cứ vào đoạn sách Công Vụ Tông Đồ 15,10, phần đa các tác giả, dựa vào Thánh Vịnh 38 (37), nhất trí coi ‘ai mang gánh nặng nề’ là những kẻ tội lỗi “Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ, như gánh nặng vượt quá sức con (câu 5). Xin đan cử ra đây lời chú giải tiêu biểu của Barnes: ‘Không còn nghi ngờ gì nữa, đối tượng Ngài kêu mời chủ yếu là các tội nhân đáng thương, lầm lạc và quị ngã: những con người bị đè bẹp dưới gánh nặng của ý thức những lỗi lầm đã phạm, run rẩy trước hiểm nguy bị luận phạt, và tìm mọi cách để được giải cứu. Trước tình trạng đó, một lối thoát đã được mở ra. Đức Ki-tô kêu mời họ tới với Ngài, tin vào Ngài, và phó thác cho Ngài, và chỉ mình Ngài mà thôi, hầu được giải thoát và cứu rỗi. Thực hành điều này, Ngài sẽ cho họ an nghỉ - an nghỉ khỏi tội lỗi mình phạm, an nghỉ khỏi lương tâm cắn rứt, an nghỉ khỏi các luật pháp đáng khiếp sợ, và an nghỉ khỏi nỗi sợ hãi phải trầm luân muôn đời.’

Cuộc thổ lộ tâm tình nhất của Thánh tâm Giêsu (Thánh Phanxicô Sa-lê gọi là ‘heart speaks to hearts’) có đối tượng duy nhất là các tội nhân. Ai tự cho mình là thánh thiện, là đạo đức, là khôn ngoan thông thái… đều tự tách mình ra khỏi lời mời gọi này. Quả không sai khi Người dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha vì ‘… đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn!’ Điều này hoàn toàn ăn khớp với lời Người từng tuyên bố ngay từ thời gian đầu của sứ vụ rao giảng: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năm’ (Lc 5, 31-32). Trong thổ lộ tâm tình này, tầng số mà hai con tim cùng rung lên, cùng đập để rồi gắn chặt lại với nhau là cực thấp cực trầm. Tầng số đó không gì khác hơn là khiêm hạ, khiêm nhường thẳm sâu. “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Về phía Thiên Chúa, khiêm hạ có vẻ là điều không tưởng vì địa vị quyền uy tột bậc của ngài, nhưng qua Đức Giêsu trong việc nhập thể trở nên giống chúng ta mọi đàng, nó đã trở thành nét đặc sắc nhất của Thiên Chúa. Còn lại là phía chúng ta. Vẫn tưởng rằng khiêm nhường sẽ dễ lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Kinh nghiệm cho thấy, gợi nhớ sự thấp hèn và tội lỗi của thân phận mình vẫn là điều cực kỳ khó khăn, kinh tởm, hầu như không thể vượt qua nổi đối với phần đa mọi người chúng ta. Thậm chí ngay trong nỗ lực sống lành thánh, nhiều khi ta vẫn còn thấy lởn vởn đâu đó nỗi sợ hãi phải nhìn nhận thân phận tội lỗi và thấp hèn của mình.

Lòng tôn sùng Thánh Tâm vì thế đòi nơi tôi điều kiện sine qua non là đi sâu vào con người vất vả gánh nặng của mình. Con tim tôi càng nặng nề, Trái Tim Chúa càng dễ dàng tiếp nhận và bao bọc lấy; đồng thời, trong cái lỗ vết thương sâu hoắm của tội lỗi và luận phạt, nó càng có khả năng đón nhận trọn vẹn lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Vinh quang lớn nhất của Thánh Tâm Chúa chính là đây, “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen cha!”

Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được phổ biến sâu rộng trong thế kỷ 17 với thánh nữ Magarita A-la-cốc (1647-1690) đã dẫn tới tôn sùng lòng thương xót Chúa vào thế kỷ 20 với thánh nữ Faustina (1905-1938). Mong rằng hai ‘tôn sùng’ này không dừng lại ở một vài việc đạo đức, mà sớm trở thành nét nổi bật nhất của Tin Mừng (cả trong suy tư thần học nữa), để giúp Ki-tô hữu chúng ta khám phá ra dung mạo đích thực nhất của Thiên Chúa.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua vết thương do lưỡi đòng khoét sâu nơi con tim Chúa, thánh Gioan đã nhận ra tình yêu ‘làm của lễ đền tội’ (1Ga 4,10). Con biết mình chỉ có thể vào sâu trong Trái Tim Chúa khi chân thành thú nhận tội lỗi mình đã phạm. Xin cho con học thuộc bài học khiêm nhường mà Thánh Tâm Chúa là thày dạy lỗi lạc nhất. Xin dìm con ngập sâu trong tội lỗi mình để con suy tôn và thờ lạy Thánh Tâm Giêsu Tình Yêu cách chân thật nhất. Amen.

 

26.Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô

(Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP)

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô.

Khi so sánh tiêu chuẩn của Nước Trời với tiêu chuẩn của thế gian, chúng ta nhận ra những khác biệt quan trọng: tiêu chuẩn của Nước Trời thường đối nghịch với tiêu chuẩn của thế gian. Các bài đọc hôm nay chỉ cho ta thấy những khác biệt và lý do của chúng.

Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah (6 BC) tiên báo Đấng Thiên Sai sẽ vào Thành, không bằng những cỗ xe ngựa dành cho những vị vua chiến thắng khải hoàn; nhưng Ngài sẽ cỡi trên lưng một lừa con, vẫn còn theo sau một lừa mẹ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu không được làm nô lệ cho tính ích kỷ của xác thịt; nếu không, họ sẽ chết. Các tín hữu đã được Đức Kitô giải thoát để sống theo Thánh Thần, nếu họ để cho Thánh Thần hướng dẫn, họ sẽ được sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Mầu Nhiệm Nước Trời không được mặc khải cho những người khôn ngoan, thông thái; nhưng được mặc khải cho những người bé mọn (nêpios). Ngài mời gọi tất cả những ai đang cảm thấy những gánh nặng, mệt mòi, và chán chường của cuộc sống, hãy đến với Ngài và học hỏi hai nhân đức hiền hòa và khiêm nhường của Ngài, họ sẽ cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.

1.1/ Đấng Thiên Sai sẽ đến cách hiền lành và khiêm nhường: Trình thuật chúng ta đọc hôm nay được các học giả xếp loại thuộc về Zechariah thứ hay đệ nhị. Phần này ít nhấn mạnh tới việc xây dựng Đền Thờ sau khi lưu đày, nhưng tập trung trong việc loan báo triều đại của Đấng Thiên Sai sắp tới. Trong số 12 tiên tri nhỏ, Zechariah có lẽ là ngôn sứ cho chúng ta biết nhiều chi tiết nhất về cuộc đời của Đấng Thiên Sai.

Trình thuật hôm nay là một điển hình. Ông cho chúng ta thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai long trọng vào thành Jerusalem. Đây là dấu chỉ để nhận ra Đấng Thiên Sai: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” Khi thấy dấu hiệu này, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy vui sướng reo hò!” Biến cố long trọng vào thành Jerusalem của Chúa Giêsu hoàn thành lời tiên tri này (Mt 21:5-11; Jn 12:12-15).

1.2/ Đấng Thiên Sai sẽ cai trị cả hoàn cầu: Tuy hiền hòa và khiêm nhường như thế; nhưng Ngài sẽ chinh phục cả hoàn cầu và lên ngôi cai trị toàn cõi đất, chứ không phải chỉ cai trị dân tộc Israel mà thôi. Cách Ngài chinh phục và cách Ngài thống trị hoàn tòan khác biệt với cách của các hoàng đế của thế gian: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ephraim và chiến mã khỏi Jerusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.”

2/ Bài đọc II: Nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.

Chương 8 của Thư Rôma phải được đọc chung với chương 6-7. Lý do là vì con người đã được Đức Kitô giải phóng để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, Lề Luật, và sự chết để sống theo Thần Khí. Nhiều người hiểu lầm thánh Phaolô là ngài quảng bá tư tưởng: con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô là được cứu độ và không cần làm gì cả. Trong chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa con người được Đức Kitô giải phóng khỏi phải làm nô lệ cho tính xác thịt, để được tự do sống theo Thần Khí.

2.1/ Sống theo tính xác thịt: là sống theo các cảm xúc của con người như sự tham lam của con mắt, sự ham muốn của trái tim, và mọi đam mê dục vọng. Người sống theo tính xác thịt chẳng khác chi loài cầm thú, vì chúng hành động theo bản năng tự nhiên; nhưng con người không được phép sống như thế, vì ngoài thân xác, Thiên Chúa còn ban cho con người có linh hồn, trí tuệ, và ý chí để điều khiển các quan năng của xác thịt. Thánh Phaolô diễn tả điều này như sau: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Kitô ngự trong các tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh để các tín hữu có thể sống theo sự thật, những gì Đức Kitô dạy bảo: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.”

2.2/ Sống theo thần khí của Đức Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba lợi điểm của những người sống theo Thần Khí:

(1) Thần Khí làm cho con người được sống: Sống theo thần khí mới là sống thật, sống theo tính xác thịt là làm nô lệ cho tội lỗi và hậu quả là cái chết.

(2) Thần Khí làm cho con người được trở nên công chính: bằng tin và thực hành những gì Đức Kitô truyền dạy. Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người nên công chính.

(3) Thần Khí sẽ làm cho con người sống lại từ cõi chết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”

3/ Phúc Âm: Hãy học với Ta, vì Ta hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.

3.1/ Thiên Chúa thích mặc khải cho những kẻ bé mọn: Có mấy từ chuyên môn chúng ta cần hiểu ở đây:

– Giấu (krupto): có hai trường hợp: (1) Cất giấu đi để đừng ai nhìn thấy; ví dụ: giấu vàng trong ruộng. (2) Giấu kín để đừng ai khám phá ra; ví dụ: giấu tông tích hay những điều bí ẩn của mình. Chúa Giêsu muốn nói về trường hợp thứ hai này.

– Mặc khải (apo krupto) có nghĩa làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra, mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một người hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ.

– Kẻ bé mọn (nêpios): có thể chỉ một trẻ nhỏ hay những ai chưa tới tuổi thành niên như luật pháp ấn định (ví dụ, 18 tuổi).

Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ. Khi con người muốn lãnh nhận kiến thức về Thiên Chúa, họ phải có thái độ của trẻ: cái gì cũng là mới cả với các em.

3.2/ Kiến thức về Thiên Chúa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

(1) Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là “epiginôskô,” biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.

(2) Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.

3.3/ Xét mình trước tôn nhan Thiên Chúa: Mệt mỏi có thể là do lao động (thể xác) hay do sức ép của cuộc sống (tinh thần). Mệt mỏi thể xác có thể được phục hồi bằng việc nghỉ ngơi; mệt mỏi tinh thần phải được chữa trị bằng phương cách tâm linh. Chúa chỉ cho con người biết làm sao để tránh những mệt mỏi tinh thần này.

Tại sao chúng ta đã cố gắng hết sức mà vẫn không thành công? Có thể chúng ta đã không biết cách làm việc để đạt kết quả tốt đẹp? Có thể chúng ta lo lắng quá độ những gì không cần phải lo quá như vậy? Có thể chúng ta đang làm theo ý, theo cách, và theo đường hướng của chúng ta mà không phải là ý, cách, hay đường hướng của Thiên Chúa? Đức Kitô mời gọi chúng ta nhìn lại để học cách làm việc sao cho thành công hơn! Ngài muốn chúng ta quẳng đi những mối lo không cần thiết! Hay chú trọng đến những gì là quan trọng thay vì những cái quá nhỏ nhặt thiển cận!

3.4/ Hai điều quan trọng chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:

(1) Hiền lành: Đây là mối thứ hai trong Bát Phúc. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn, và tha thứ.

(2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi người.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô cách lãnh đạo: không bằng cách phô trương quyền hành và danh vọng; nhưng bằng cách khiêm nhường phục vụ và yêu thương mọi người.

– Vì Đức Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ cho xác thịt và ban Thánh Thần, chúng ta phải luôn cố gắng để sống theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô hai nhân đức: hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành để luôn biết đối xử nhân hậu với tất cả mọi người. Khiêm nhường để nhận ra chỗ đứng hèn hạ của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.

 

27.Hãy đến cùng Ta

Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đi xa cùng với cái cảm giác quay trở về. Trên chặng đường vất vả, với sự chờ đợi cho đến nơi.

Khi đến nơi thì bao nhiêu nhọc nhằn vất vả không còn nữa. Sự mệt nhọc của con đường đi, với những nắng mưa của thời tiếc, những cơn nóng bức, những làn gió mạnh, những bụi bẩn hoà lẫn với khói xe, tất cả những thứ dường như không tồn tại trên đời. Không phải vì chúng ta đã đến được nơi an toàn, nhưng vì chúng ta đã về bên những người thân yêu của mình. Ở bên cạnh những người thân yêu để tận hưởng cuộc sống với họ thì còn hơn cảm giác bình an của riêng mình. Cũng chính vì đến được bên cạnh những người thân yêu, nên bao nhiêu sự mệt nhọc, lo sợ đều tan biến đi. Giờ đây chỉ còn cảm giác êm ái nhẹ nhàng. Tình yêu thương làm cho cuộc sống con người trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn.

Chúa Giêsu kêu mời: "Hãy đến với Ta, tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

Ngài nhìn thấy con người bị biết bao sức nặng của trần thế chồng chất trên đôi vai nhỏ bé của họ. Ngài nhìn thấy những người đang gục ngã thảm hại, trước những khó khăn nhọc nhằn mà họ không thể nào vượt qua được. Ngài cũng nhìn thấy có những người đang lê lết, bước đi nặng nề, nhưng họ không muốn cho gánh nặng của mình nhẹ đi, nên họ đang chết dần chết mòn trong những gì mà họ mang lấy. Họ tưởng rằng như thế là vinh quang, như thế là hạnh phúc, họ chỉ bám vào những gì mình suy tưởng, chính vì thế họ không còn nhìn thấy gì ngoài bản thân mình. Họ không còn biết lắng nghe, không tiếng nói nào có thể thâm nhập được vào trong con người của họ. Họ tưởng mình tài năng, tưởng mình đạo đức thánh thiện, họ sống bám vào những ý tưởng đó, họ cũng sẽ chết với những gì họ suy nghĩ, vì không chịu vượt ra khỏi chính mình để biết nhìn, biết lắng nghe và thay đổi cách sống mà chạy đến với Chúa để Ngài nâng đỡ bổ sức cho. Họ là những người khôn ngoan mà Chúa Cha đã không cho nhìn thấy những ý định của Thiên Chúa.

Nếu giờ nầy Chúa Giêsu hiện diện trước mặt mỗi người chúng ta, Ngài sẽ cám ơn Chúa Cha như thế nào về mỗi người trong chúng ta? Ngài cám ơn vì chúng ta là những người bé mọn biết chạy đến với Thiên Chúa, biết mang lấy gánh nhẹ nhàng của Ngài vì chúng ta nhìn thấy, nhận biết thánh ý Chúa để tuân giữ và thi hành trong cuộc sống. Hay Ngài cám ơn vì mọi việc không cho chúng ta nhìn thấy, không cho chúng ta nhận biết, bởi chúng ta chỉ biết có chính mình mà không còn lắng nghe, không còn nhìn thấy gì ngoài con người ích kỷ của chúng ta. Như vậy thì Hồng Ân cứu rỗi của Ngôi Hai Thiên Chúa có ích lợi cho biết bao người, còn bản thân chúng ta thì không được gì hết sao?

Chúng ta để ra một ít phút nhìn lại đời sống, nhìn vào những việc làm đã qua: chúng ta không có thời gian đủ để lo cho công việc cứ bao vây, chìm ngặp trong những tính toán cùng với biết bao dự án cho tương lai. Chúng ta cũng nhìn thấy những người chung quanh mình sao quá tệ, họ không biết làm ăn, không biết toan tính cho cuộc sống, không nhìn thấy những lợi lộc, không biết nhanh nhạy để chộp lấy thời cơ, họ không đủ khôn ngoan. Những lúc đó, là sự khôn ngoan của con người, sự khôn ngoan để tìm những lợi lộc trần thế, sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, vì mãi đi tìm những điều không thuộc về Thiên Chúa.

Nếu chúng ta cũng sống với tất cả những gì của trần thế để lo cho cuộc sống của mình và cho nhiều người khác, đồng thời chúng ta dâng lên Chúa những lo toan, những tính toán của mình, xin Chúa hướng dẫn để biết sống theo thánh ý Chúa. Chúng ta cũng nếm trải những khó khăn vất vả, những khổ nhọc của con người và vượt qua cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng. Đó là chúng ta biết đến với Chúa, cùng làm việc với Chúa, cùng mang những gánh của Chúa, nên chúng ta đã vuợt qua thật êm ái và nhẹ nhàng. Ở bên Chúa mọi khổ nhọc như tan biến đi, chỉ còn tình yêu ngự trị.

Xin Chúa ban thêm đức tin cho mỗi người để biết siêng năng chạy đến với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời.

 

28.Học trường Giêsu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Khi Chúa cầm lấy chén, tạ ơn (x. Mt 26,27); Lời tạ ơn diễn tả tâm tình của tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa. Chúa Kitô thường quen tạ ơn. Người tạ ơn vì biết trước rằng Chúa Cha đã nhận lời. Người tạ ơn vì sức mạnh uy quyền toàn năng của Thiên Chúa hiển hiện nơi Người để Người tỏ uy quyền toàn năng của Đấng Tạo Hóa ra trước mặt thiên hạ. Người tạ ơn vì công trình cứu chuộc Người đã hoàn tất, và Người tạ ơn vì việc Người làm để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

Như vậy, hiện tại hóa hy tế đời đời của Chúa Kitô trên thập giá trong Thánh Lễ được hiểu như là một hành động tạ ơn cao cả nhất. Chính trong nghĩa đó mà từ "Thánh Thể" là hành động tạ ơn được nên trọn vẹn. Chúa Giêsu đã dâng hiến thân mình thay cho mọi tạo vật trên thế giới. Người cũng mời gọi các tạo vật phải tạ ơn Đấng Tạo Hóa cho xứng.

Tiếp theo hành động tạ ơn là lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến trường Giêsu và học bài “Hiền Lành Và Khiêm Nhường”. Bài đọc I cho thấy, Đấng Messia mà Giacaria nói tới trong Cựu Ước, Đấng ấy không đến trong quyền uy với vũ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ vũ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”. Vua hòa bình ngồi trên lưng lừa, không đến để giết chết mà để cứu sống (x. Dcr 9,8-10).

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài quí chuộng những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường. Chính Ngài đã mạc khải cho họ, trong khi lại giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy (x. Mt 11,25-30).

Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Chúa” và “hãy học cùng Chúa” bài học: “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.

Hiền lành, theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh Thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo. Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Hiền lành hay hiền hậu là đức tính tốt lành của người có lòng thương người, không độc ác, nhưng có đức hạnh và hay làm điều thiện.

Lịch sử minh chứng, con người ở mọi nơi mọi thời thường say mê quyền lực và muốn thống trị, sai khiến người khác theo ý mình, nên theo một số người thì hiền lành và khiêm nhường có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Trái lại, cũng có rất nhiều người cho rằng, người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được nhân đức khiêm nhường và hiền lành, họ đáng được ca tụng.

Hiền lành và khiêm nhường ngày nay không còn được đánh giá cao như xưa. Trước kia, lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho người khác khi gọi họ là “người hiền lành khiêm nhường”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.

Người hiền triết và khôn ngoan, thường khó đi vào trong các mầu nhiệm Nước Trời, vì họ không mở lòng mình ra để đón nhận các mạc khải của Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng mạc khải chính mình, nhưng họ thì lại tự tin vào hiểu biết của chính mình; vì thế, mạc khải của Thiên Chúa không làm họ ngỡ ngàng được. Trái lại, người đơn sơ như trẻ nhỏ lại đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa; họ giống như tấm bọt biển khô hấp thấm nước vậy, họ ngỡ ngàng và thán phục trước mạc khải của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp, họ là học giả khôn ngoan, nhưng khiêm tốn trước Thiên Chúa, họ có thể hiểu biết về Thiên Chúa.

Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc hiền nhân quân tử có cái nhìn khác. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.

Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền lành chớ không phải bạo lực”.

Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành).

Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.

“Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” là thông điệp Đức Giêsu gửi đến mỗi người chúng ta. Người đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Người thôi.

Vậy, chúng ta hãy thực hiện được lời Chúa dạy, cố gắng vượt thắng tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hung.

Trong bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,1-12). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Chỉ có người theo học trường Giêsu, quyết học bài học hiền lành và khiêm nhường cả đời, chỉ có người biết cư xử với lòng khoan nhân, mới tìm được an bình và hạnh phúc trên cõi đời nầy cùng sự nghỉ ngơi miên viễn khi đã ‘ra trường’.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Amen.

 

29.Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.

Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên?” Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).

Nói đến cái “ách”, luật Do thái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến với Người, hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” (Mt 11, 28).

Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.

Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người “cùng mang ách” với chúng ta.

Ở đoạn trước trong Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.

Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.

Chúa Giêsu đề nghị chúng ta mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp: “Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.

Có người viện cớ hỏi: Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.

Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.

Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời.

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “ học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ