Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 100

Tổng truy cập: 1429438

LÒNG TRUNG THÀNH

LÒNG TRUNG THÀNH- LmGB. Nguyễn Minh Hùng

Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.

Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.

Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.

Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.

Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!

Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- B

CHỈ THẦY MỚI CÓ LỜI HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Lịch sử ca tụng Hội nghị Diên Hồng thời vua Trần nhân Tông. Vua đặt ra trước mắt toàn thể bô lão, khanh tướng và dân chúng một sự lựa chọn quyết liệt: Nên hòa hay chiến? Toàn dân hô: Chiến, chiến, chiến. Nhờ đó đã tạo được một sự đoàn kết có một sức mạnh phi thường, đã đánh bại quân Mông Cổ hùng mạnh đã từng bách chiến bách thắng chiếm cả Châu Á và một nửa Châu Âu, thống trị nước Tầu vĩ đại, còn muốn xơi ngon nước Việt nhỏ bé.

Cách đây gần ba ngàn năm, Giosuê đã bảo toàn dân phải dứt khoát chọn lựa: Hôm nay các ngươi hãy chọn hoặc thờ các thần, hoặc thờ Thiên Chúa. Còn tôi và gia đình, chúng tôi chọn thờ Thiên Chúa. Toàn dân thưa: Không đời nào chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần khác. Vì Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi khỏi nô lệ Ai cập, chính Người đã thực hiện trước mắt chúng tôi những dấu lạ vĩ đại, gìn giữ chúng tôi trên khắp nẻo đường.

Vinh phúc cho dân Do thái thời Giosuê và cho dân Việt thời vua Trần nhân Tông đã biết chọn lựa đúng, nên đã cứu cả dân tộc thoát khỏi nô lệ và khỏi chết nhục nhã.

Đức Giêsu từ trời xuống thế, đã ban phát một của ăn nuôi sống đời đời. Phúc cho ai biết chọn lấy lương thực trường sinh ấy, họ sẽ được sống vinh phúc đời đời.

Để người ta chọn đúng, Đức Giêsu đã phân biệt cho họ biết đâu là của ăn hư nát, đâu là của ăn hằng sống. Người Do thái chỉ biết có hai loại của ăn: một là loại của ăn hằng ngày, hai là loại của ăn lạ thường. Của ăn thường ngày là do hoa mầu ruộng đất và lao công loài người gieo trồng, chăm bón, chăn nuôi để nuôi sống thể xác. Để có của ăn này, con người phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, tận tâm, tận lực làm việc cực khổ hơn muôn loài mới có của ăn. Nhưng dù có ăn bao nhiêu vẫn còn đói. Họ rất sợ đói. Cái đói đã giết chết hàng triệu người trên thế giới này, mặc dầu Thiên Chúa quan phòng đã dựng nên một vũ trụ phong phú cho loài người. Nếu họ biết khai thác, phát triển và chia sẻ cho nhau, thì chắc chắn chẳng ai bị chết đói. Chiến tranh thế giới thứ hai, người ta đã đổ hàng triệu tấn lương thực xuống biển, trong khi đó có hàng triệu người chết đói. Ở Việt Nam cũng có gần triệu người miền Bắc chết đói, lúc đó ở miền Nam, Phát xít Nhật đốt cháy hàng ngàn tấn lúa gạo.

Của ăn lạ thường do Thiên Chúa làm phép lạ như man-na hay bánh hóa nhiều trong những trường hợp đặc biệt. Bánh man-na đã được Thiên Chúa ban cho tổ tiên Do thái xưa đã biết nghe lời Chúa, từ bỏ Ai Cập, vượt qua sa mạc, trở về Đất Hứa để tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng ban bánh hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn, vì họ đã sẵn sàng chịu đói để kiên trì theo Chúa đến nơi hoang vắng nhiều ngày.

Người Do thái đã kêu xin Chúa ban cho họ hai thứ của ăn đó, để họ không còn đói, và khỏi phải khổ cực làm ăn. Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho họ thấy: Đó là của ăn hay hư nát. Họ ăn bao nhiêu vẫn còn đói và còn chết, như cha ông họ đã ăn man-na và đã chết.

Đức Giêsu muốn ban cho họ thứ của ăn hằng sống: Đó là lời hằng sống và bánh hằng sống. Lời hằng sống là những giới răn giáo dục con người yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và xây dựng đời sống con người tồn tại vĩnh cửu như xây nhà trên đá. Muốn nên người, con cái cần cha mẹ dạy dỗ như thế nào, thì muốn trở nên con Thiên Chúa hằng sống, con người rất cần lời Chúa dạy dỗ như vậy.

Lời hằng sống là hạnh phúc trường sinh khi con người thực hiện được tám mối phúc thật. Lời hằng sống mặc khải cho ta thấy những mầu nhiệm Nước Trời vinh quang, như tiệc cưới hoàng tử, thấy Nước Trời phát triển mạnh mẽ như hạt cải nhỏ bé mọc lên thành cây lớn cho muôn chim trời trú ẩn, thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa như người cha hiền đón mừng đứa con phung phá, như mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, như người bạn thí mạng sống cho người mình yêu.

Lời hằng sống còn biểu lộ bằng hành động ban sự sống. Đức Giêsu chỉ phán một lời bão biển phải im lặng để cứu sống các môn đệ. Người chỉ phán một lời, hàng đoàn quỷ phải xuất ra khỏi con người và nhào xuống biển chết. Người chỉ phán một lời đem sự sống cho bao nhiêu bệnh nhân, tội nhân và kẻ chết.

Lời Người đã làm cho nước biến thành rượu, bánh hóa nhiều và nhất là bánh rượu trở nên Mình Máu Người để nuôi sống các linh hồn muôn thuở.

Tại sao lời Đức Giêsu có sức sống quyền năng vô cùng như thế? Người đã giải thích: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và Sự sống”. Lời Người bởi chính tim, óc, máu, thịt Người, bởi Ngôi Lời từ trời xuống. Lời hằng sống đó là tiếng hô hào vang dội dọn đường trực tiếp đón rước Người: “Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi, cũng như Tôi sống nhờ Cha Tôi là Đấng Hằng Sống… Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời … Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”.

Dù Đức Giêsu đã thương yêu họ, ban cho họ lời hằng sống và Bánh hằng sống, để làm của nuôi sống họ đời đời, nhưng người Do thái chưa có kinh nghiệm gì về Lời Hằng Sống và Bánh Hằng Sống. Họ chỉ biết có hai thứ bánh là của ăn hằng ngày và bánh như man-na và bánh hóa nhiều. Cho nên, ngay từ đầu Đức Giêsu đòi họ phải tin vào Người: “Việc của Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga. 6, 29). Vì thế bắt buộc con người phải lựa chọn, phải tỏ lập trường: tin theo Đức Giêsu hoặc không tin và bỏ đi.

“Cả anh em nữa, cũng muốn bỏ đi sao?”. Một câu hỏi dứt khoát quyết liệt, không phải thách đố, nhưng có mục đích làm sống lại sự cương quyết của bản thân mỗi người phải cam kết gắn bó với Đức Giêsu. Bởi bài giảng này mặc khải về phép Thánh Thể là một hồng ân đặc biệt của Đức Giêsu về bánh hằng sống: Bánh Thịt Máu Người từ trời xuống. Loài người không thể nào cứ sống theo lối sống vật chất hay hư nát, Đức Giêsu nhất quyết nâng con người lên tầm mức siêu việt theo lối sống con cái Thiên Chúa. Vì thế mỗi người phải tự quyết định lấy một là tin vào Đức Giêsu để được sống vinh phúc muôn đời, hai là bỏ đi sống theo lối xác thịt hư nát để phải chết đời đời.

Trước giờ phút long trọng cam kết và quyết liệt này nhiều người đã bỏ đi, Đức Giêsu nhìn sang nhóm mười hai hỏi: “Cả anh em nữa, cũng bỏ đi sao?”. Bầu khí thật ngột ngạt, nặng nề. Nhưng hạnh phúc thay cho Phêrô, ông đã đại diện cho anh em quả quyết đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có lời hằng sống. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

Trước mỗi Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời hằng sống của Chúa, lời đó cũng hỏi mỗi người chúng ta: Cả anh chị em nữa, cũng muốn bỏ đi hay sao? Nhiều người đã bỏ đi, không muốn đi dâng lễ. Một số người đã đến nghe lời Chúa, nhưng có tin và sống thực thi lời Chúa, hay cũng như dân Do thái thấy chướng tai rồi bỏ đi?

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quyết tâm mau mắn đáp như thánh Phêrô, và bước lên cung thánh đón rước bánh hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.

home Mục lục Lưu trữ