Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 152

Tổng truy cập: 1433009

Lòng Tri Ân Đối Với Thiên Chúa

Cập nhật : 08-10-2010
 

LÒNG TRI ÂN ÐỐI VỚI THIÊN CHÚA

Làm người, ai trong chúng ta chẳng thích sống với những người có nhân có nghĩa. Thế nhưng, không phải luôn luôn chúng ta được như ý muốn. Người xưa có những câu chuyện về thói vô ơn bạc nghĩa của con người. Chẳng hạn như chuyện một người vợ cả một đời hy sinh, lam lũ, thức khuya dậy sớm lo cho chồng đèn sách, gánh hết trách nhiệm của chồng là nuôi dạy con cái, những mong sau này: "Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh..."

Ấy thế mà, đỗ đạt rồi, anh chồng nhanh chóng quên ân tình phu phụ, vội se duyên mới với con cháu quan quyền, cố xua nhanh quá khứ nghèo nàn, gốc gác bần dân của mình.

Người thời nay cũng có những câu chuyện tương tự. Nghe nói ở một giáo xứ nọ, có một gia đình đồng lòng chửi cha xứ, chửi Hội Ðồng Giáo Xứ, bỏ Ðạo, bỏ Chúa vì bị yêu cầu dời nhà ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Trước đây, hai vợ chồng này nghèo khổ, không có mảnh đất cắm dùi. Thương hoàn cảnh nghèo nàn, khó khăn, cha xứ và Hội Ðồng Giáo Xứ cho mượn một miếng đất cất tạm căn chòi, có chỗ chui vào chui ra, với giao kèo miệng: lúc nào giáo xứ cần hoặc gia đình làm ăn được, có điều kiện mua đất thì trả. Hoàn cảnh thay đổi, gia đình đã khá giả lên, nhưng thay vì mua đất, họ lấy tiền đó xây nhà. Hội Ðồng Giáo Xứ đến trao đổi, bàn bạc, nhất định không nghe. Cãi chầy cãi cối. Cha xứ đến, cũng không ăn thua. Thế là rùm beng.

Lời Chúa trong Chúa Nhật 28 Thường Niên năm C hôm nay mời gọi chúng ta quay lại với tình nghĩa, không chỉ đối với anh chị em, nhưng nhất là đối với Thiên Chúa.

Bài đọc I trích trong Sách Các Vua quyển thứ hai ( 5, 14 � 17 ) tường thuật câu chuyện về vị tướng chỉ huy quân đội Na-a-man của nước A-ram. Tướng Na-a-man chỉ là một người dân ngoại, trong khi đó, dân Ít-ra-en lại là Dân riêng, Dân tuyển chọn của Ðức Chúa. Ông bị mắc bệnh phung cùi, là chứng bệnh bất trị vào thời đó. Chết thì không chết, mà sống cũng không ra sống. Chẳng thà chết còn hơn, vì người thì cứ lở loét, hôi thối; nay rụng mất ngón tay, mai khuyết mất cái mũi. Dù vinh quang phú quý, bổng lộc vô vàn, nhưng cuộc sống đối với ông bây giờ là vô nghĩa.

Thế rồi, cứ như một chuyện phim mà đạo diễn là Thiên Chúa, ông được tiếp xúc với ngôn sứ Ê-li-sa và được chữa lành sau khi đã vâng lời người của Thiên Chúa đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Như một người bình thường, ông đã làm việc phải làm là quay trở lại gặp ngôn sứ Ê-li-sa để tạ ơn. Làm sao không quay trở lại được khi lòng ông đang rạo rực hân hoan vì ơn huệ mình vừa nhận được; và người cần được thông tin trước nhất là vị sứ giả của Ðức Chúa, người đã chỉ cho ông con đường sống.

Những chi tiết kỳ diệu trong câu chuyện này là: thứ nhất, ông tướng này biết rõ rằng không phải giòng nước sông Gio-đan có sức chữa bệnh. Ông đã từng nói: "Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Ða-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao ? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch sao ?". Ông hiểu và ông tin đây chính là quyền năng của Vị Thần của người Ít-ra-en đã làm cho ông khỏi bệnh, như lời ông tuyên xưng: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en."

Ðiều kỳ diệu thứ hai là sau khi đã nhận biết Ðức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa thật qua dấu lạ chữa lành, ông tướng này đã xin một ít đất của quê hương này mang về nhà của ông ở xứ A-ram, để từ nay ông chỉ thờ lạy và dâng lễ tế cho một mình Người trên "mảnh đất" của dân riêng Người thôi. Như thế là lòng biết ơn của vị tướng ngoại giáo này đã "đến nơi đến chốn", nghĩa là lòng biết ơn có sức xoay chuyển cuộc đời; hay nếu chúng ta có thể nói, trong trường hợp này, lòng biết ơn đồng nghĩa với lòng tin, với Ðức Tin.

Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, chúng ta gặp lại cũng chính kết cấu của câu chuyện ông Na-a-man với một vài chi tiết khác biệt. Mười người bị bệnh phong cùi cũng kêu xin Ðức Giê-su chữa lành. Người bảo họ đi trình diện với các tư tế. Ðây là việc họ chỉ phải làm sau khi lành bệnh, theo Luật Mô-sê dạy ( x. Lv 14, 2 � 3 ). Họ đã vâng lời; và lúc đi đường, họ nhận ra mình được lành sạch. Một người đã quay trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Và người ấy là một người Sa-ma-ri-a, nghĩa là một người ngoại.

Chúng ta có thể nhận ra dễ dàng những điểm tương đồng giữa hai câu chuyện như quyền năng chữa lành thuộc về Thiên Chúa, sự vâng lời diễn tả lòng tin là điều kiện để được chữa lành và lòng biết ơn đòi người thụ ơn phải quay trở lại tạ ơn và tuyên xưng Ðức Tinvào Ðức Chúa là Thiên Chúa thật. Nếu chỉ dừng lại ở đó, chúng ta đã có thể rút ra nhiều bài học cho đời sống Ðức Tincủa mình.

Tuy nhiên, tác giả Tin Mừng còn muốn dẫn chúng ta đi xa hơn: ngoài người Sa-ma-ri-a được chữa lành, còn có chín người khác nữa cũng được chữa lành, nhưng họ đã không quay trở lại để tạ ơn. Ðức Giê-su đã than thở: "Không phải cả mười người đều được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?"

Theo lời đó của Ðức Giê-su, thì chúng ta có thể hiểu, chín người kia là người Do-thái. Cả mười người đều vâng lời Ðức Giê-su để đi trình diện với tư tế, có nghĩa là tất cả họ đều tin Ðức Giê-su chữa lành cho họ, nên họ mới ra đi làm cái công việc của một người đã được lành bệnh theo Luật dạy. Chúng ta càng có lý để khẳng định lòng tin đó của cả mười người, khi nghe lời cuối cùng Ðức Giê-su nói với người Sa-ma-ri quay trở lại: "Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Lòng tin đã cứu chữa anh sa-ma-ri cũng như chín người Do-thái, dù họ có quay trở lại hay không.

Tin Ðức Giê-su chữa lành; và khi lòng tin đã được thỏa mãn thì đáng lý công việc phải làm ( theo lẽ bình thường ) là quay trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Vậy mà chỉ có người ngoại là làm công việc đáng làm; còn chín người Do-thái, vốn tự hào mình là Dân riêng Thiên Chúa, lại bỏ qua. Ðó chính là vấn đề tác giả Tin Mừng Lu-ca muốn đặt ra. Một phần để đề cao lòng tin của người dân ngoại, một phần để cảnh giác óc tự hào quá đáng đối với những kẻ tự cho mình, tôn giáo mình, dân tộc mình là cao trọng hơn kẻ khác.

Người Sa-ma-ri ngoại bang đã tin vào Ðức Giê-su, nên đã được chữa lành. Ðiều đó chúng ta khỏi nhắc lại. Anh đã quay trở lại để "sấp mình xuống dưới chân Ðức Giê-su mà tạ ơn". Người Sa-ma-ri vốn chẳng thiện cảm gì với người Do-thái vì họ bị khinh miệt ra mặt. Thế nhưng sau khi lòng tin đã được kiểm nghiệm là sự chữa lành, mối ác cảm và mặc cảm do hoàn cảnh xã hội, tôn giáo trước kia đã bị xua tan, nhường chỗ cho tâm tình biết ơn sâu xa và lòng tin tưởng chân thành. Không thay đổi sao được khi anh tự nhận thấy mình chỉ là ngoại bang, không thuộc về cộng đoàn con cái Ít-ra-en, nên không có quyền kêu xin Thiên Chúa một điều gì. Vì thế mà ân huệ anh vừa nhận được thực sự là ơn được ban không, hoàn toàn do lòng xót thương vô điều kiện của Thiên Chúa.

Hơn nữa, ân huệ anh vừa nhận được lại quá lớn lao, tựa như ơn cứu sống, "đã chết nay sống lại". Ơn ấy được ban cho anh qua "Thầy Giê-su", vì thế anh quay trở lại sấp mình tạ ơn Ngài, sau khi đã lớn tiếng "tôn vinh Thiên Chúa". Tất cả muốn nói lên: đối với anh, Ðức Chúa là Thiên Chúa thật và Ðức Giê-su là Người của Thiên Chúa, là Sứ Giả của Thiên Chúa. Qua ơn chữa lành thể xác, anh đã được Ơn Cứu Ðộ, được sự sống đời đời: nhận biết Ðức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðức Giê-su là Ðấng Thiên Sai ( x. Ga 17, 3 ).

Còn chín người Do-thái thì không quay trở lại để tôn vinh Thiên Chúa ( tác giả Lu-ca không nói: để tạ ơn "Thầy Giê-su" ). Tại sao vậy ? Phải chăng họ tiếp tục vâng lời Ðức Giê-su, đi tìm gặp các tư tế để được chứng thực mình đã khỏi bệnh. Dĩ nhiên đó là việc họ phải làm rồi. Nhưng việc trước tiên đáng phải làm, theo lẽ thường tình, đó là bày tỏ lòng biết ơn đối với người vừa cứu chữa mình, làm cho mình như sống lại từ cõi chết.

Ở đây, chín người Do-thái kia đã không làm theo lẽ thường tình, bởi họ nghĩ rằng mình thuộc giống nòi được tuyển chọn nên có quyền đòi hỏi Ðức Chúa của họ thi ân và đáng hưởng ân huệ của Ðức Chúa. Ðối với họ, Ðức Giê-su chỉ là một tôi tớ của Ðức Chúa, làm việc của Ðức Chúa sai bảo, nên chẳng cần phải cám ơn, cũng tựa như đầy tớ hay người giúp việc ở nhà người bạn của ta thôi. Y có vâng lời chủ nhân mà giúp ta điều gì, thì hà tất ta phải mang ơn y ? Chính thái độ tự hào, tự tôn đó đã ngăn cản nhiều người Do-thái tin nhận Ðức Giê-su là Ðấng Cứu Thế, và vì thế mà không nhận được Ơn Cứu Ðộ.

Lòng biết ơn, đạo nghĩa thường tình, tưởng chừng như chỉ liên quan đến đời sống nhân bản, thế nhưng lại là con đường dẫn đến đức tin; đôi khi lại đồng nhất với đức tin. Ðã là người vô ơn thì đừng nói đến chuyện tin Chúa, tin Trời. Người có lòng biết ơn luôn có một cảm nhận sâu xa về những gì người khác làm cho mình, và tìm mọi cơ hội có thể để diễn tả lòng biết ơn. Người đó sẽ càng nhạy cảm với bao ân huệ muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa: ơn làm người, hồng ân sự sống, ơn nhận biết Chúa, được Chúa tín nhiệm trao cho trọng trách này nọ, được Chúa Quan Phòng cho gặp người bạn đời tuyệt vời...

Mỗi một ngày qua đi, người ấy càng thêm xác tín mình được thương yêu, mình mắc nợ Thiên Chúa quá nhiều, nên tìm mọi cách, mọi dịp để tạ ơn. Tạ ơn khi vui, tạ ơn khi buồn, tạ ơn khi gặp may mắn và cũng tạ ơn khi gặp rủi ro, bởi cách làm vui lòng Chúa nhất là đón nhận mọi sự Người gửi đến trong tin tưởng, phó thác theo tinh thần thơ bé thiêng liêng.

Ngược lại, kẻ vô ơn chẳng bao giờ nghĩ đến việc đền ơn. Trong đầu hắn chẳng có chữ tạ ơn, mà chỉ luôn suy tính mưu lợi. Hắn xem việc người khác giúp mình là "chuyện nhỏ", chuyện bình thường, chẳng đáng để tâm. Tệ hơn, có lúc còn nghĩ xấu cho họ: nó muốn lợi dụng mình chuyện gì đây ? Suy bụng ta ra bụng người mà ! Ðối với những kẻ ấy thì làm gì có Ðức Tin. Tâm trí đâu mà nghĩ đến Chúa cơ chứ ! Vì thế khi quyền lợi vật chất bị đụng chạm thì chửi cha xứ, chửi Hội Ðồng Giáo Xứ, bỏ Ðạo, bỏ Chúa. Chúa Giê-su đã từng nói: Không ai có thể làm tôi hai chủ ! Rõ ràng là như thế !

Tạ ơn Thiên Chúa � Ðấng Tạo Hóa đã dựng nên con người là một thể thống nhất: cuộc sống trần thế không tách rời cuộc sống Ðức Tin. Nhờ đó Ơn Cứu Ðộ là cho toàn thể con người, chứ không phải chỉ có phần thể xác mà thôi.

Xin Chúa cho chúng con biết xét mình nghiêm túc về thái độ biết ơn của chúng con đối với Chúa và đối với bố mẹ, anh chị em và mọi người.

Xin Chúa cho chúng con ơn cảm nhận bao ân huệ chúng con đã nhận được, dù chúng con chẳng xứng đáng, để nhờ đó chúng con sám hối thật vì đã phụ ơn bội nghĩa cùng Chúa suốt bao ngày tháng qua, để chúng con có quyết tâm cụ thể đổi mới đời sống, làm đẹp lòng Chúa hơn mỗi ngày. Amen.

Lm. Giu-se HỒ ÐẮC TÂM, DCCT Nha Tran
 
Nguồn : gxnl 

home Mục lục Lưu trữ