Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 92
Tổng truy cập: 1439919
KHUÔN MẶT RẠNG RỠ
Một thầy giáo ra bài làm ở nhà cho các học sinh: “Hãy viết lại quãng thời gian trong cuộc đời mà em là ‘một người Samari tốt lành’ đối với ai đó.” Một trong các học sinh đã viết bài ấy như sau:
“Vào mùa hè trước khi tôi lên trung học, giáo xứ chúng tôi tổ chức một ngày đi thăm người già và người tàn tật ở một bệnh viện gần đó. Cả một dẫy xe lăn và bệnh nhân làm tôi choáng váng. Lúc đầu tôi chỉ nhìn thấy xe lăn.
“Sau đó tôi nhận thấy có người ngồi xe lăn nhìn chăm chăm vào đôi chân của tôi.
“Chỉ có thế. Bấy giờ tôi không chỉ nhìn đến xe lăn và tôi bắt đầu nhìn thấy người ngồi trong đó. Tôi thấy các bà tàn tật, những cựu chiến binh bị tê liệt, những ông già không ai chăm sóc, các em nhỏ thật mảnh khảnh. Tất cả đang chờ đợi xem có ai đó để ý đến họ. Tôi ngột ngạt; vội vàng bước đi.
“Tôi rảo bước quanh bệnh viện có đến một giờ đồng hồ. Tôi cảm thấy tức giận Thiên Chúa và hoàn toàn hoang mang khi thấy quá nhiều sự đau khổ trong một nơi chốn. Tôi cảm thấy cô đơn hơn bất cứ bệnh nhân nào. Tôi là người cần sự giúp đỡ, chứ không phải họ.
“Nhưng một lúc sau, vị Thiên Chúa mà tôi trút sự giận dữ lên Người bỗng dưng trở nên thực tế hơn bao giờ hết trong cuộc đời. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đã yêu thương những người này một cách đặc biệt.
“Đó là một cảm nghiệm kỳ lạ; bỗng dưng đức tin sút giảm và bỗng dưng đức tin gia tăng–tất cả xảy ra trong khoảng khắc.
“Tôi trở lại nơi có những người già và tàn tật. Và tôi bắt đầu làm bất cứ gì có thể để làm họ vui: lấy cho họ ly nước ngọt và chỉ nói chuyện với họ. Tôi làm cho gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy.
“Nhưng trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy.”
Câu chuyện này thích hợp với bài đọc ngày hôm nay. Đặc biệt, nó thích hợp với điều mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ sau khi họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất.
Chúa Giêsu nói, “Ai muốn là người đầu thì phải tự đặt mình chót hết và trở thành người phục vụ tất cả” (Mc 9:35).
Và vì vậy Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để nhấn mạnh đến một chủ đề nổi bật trong phúc âm: giúp đỡ người khác, nhất là người có nhu cầu. Chúng ta hãy xem xét chủ đề này kỹ hơn.
Hãy nhìn đến chủ đề từ hai quan điểm. Trước hết, hãy nhìn nó dưới quan điểm của người có nhu cầu. Thứ hai, hãy nhìn nó dưới quan điểm của những người giúp đỡ.
Trong cuốn sách Majority of One, tác giả Sydney Harris đã diễn tả quãng thời gian ông bị gẫy xương ở bàn chân, khiến ông phải chống gậy đi khập khiễng trong vài ngày. Về cảm nghiệm này, ông viết:
“Điều khoan khoái về cảm nghiệm này mà nếu không có nó sẽ thật đau lòng là phương cách người ta đối xử với tôi. Họ mở cửa cho tôi, giúp tôi bước lên xe taxi, nhường chỗ cho tôi trong thang máy. Tinh thần tôi phấn khởi khi được đối xử như vậy.”
Nhận xét của ông Harris cho thấy sự phục vụ đã làm gì theo quan điểm của người có nhu cầu. Nó đã làm cho khuôn mặt họ rạng rỡ. Nó làm họ cảm thấy có người lo lắng đến họ. Nó làm họ cảm thấy có người thương mến họ.
Điều này đưa chúng ta đến quan điểm thứ hai: sự phục vụ làm gì cho những người giúp đỡ. Không có gì tốt hơn để minh họa bằng nhận xét của em học sinh trên, khi em nói:
“Tôi làm cho gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy. Nhưng trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy.”
Sự nhận xét của em minh họa điều mà sự phục vụ đã làm cho những người giúp đỡ. Nó làm cho gương mặt họ rạng rỡ hơn cả khuôn mặt của những người được sự giúp đỡ.
Và tôi nghĩ lý do của điều này thật đơn giản. Nó phát xuất từ điều mà chúng ta quên. Nó xuất phát từ điều mà chúng ta không thấy. Nó phát xuất từ điều mà chúng ta cần được nhắc nhở luôn luôn. Để tôi minh hoạ bằng một câu chuyện.
Có một bức tranh thời thế kỷ 19 vẽ một hàng dài những người nghèo trong một khu tồi tàn của thành phố, họ đang đứng đợi trước một nhà phát chẩn.
Đó là một bức tranh đáng chú ý. Nhưng điều đáng chú ý nhất trong bức tranh là một trong những người nghèo đứng xếp hàng. Ông ta có vòng hào quang trên đầu. Nhìn kỹ lại thì đó là Chúa Giêsu. Và điều này cho chúng ta thấy lý do mà khuôn mặt những người giúp đỡ lại rực rỡ hơn những người được giúp đỡ. Chính vì khi giúp đỡ người nghèo, họ khám phá ra Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay. Người ở ngay trong những người có nhu cầu.
Đây là điều chúng ta quên. Đây là điều chúng ta không thấy. Đây là điều chúng ta cần được nhắc đi nhắc lại.
Vì không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!” (Mt 25:35-36,40).
Chúng ta hãy chấm dứt bằng sự thành khẩn lắng nghe lời mạnh mẽ của Albert Schweitzer, một trong những Kitô Hữu vĩ đại trong thế kỷ của chúng ta.
Vào lúc 30 tuổi, ông hy sinh sự nghiệp của một nghệ sĩ trình tấu cho những người nhà giầu ở Âu Châu và trở nên một bác sĩ đi truyền giáo và chăm sóc người nghèo ở Phi Châu. Khi về già, ông nói:
“Tôi không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác.”
Chúng ta hãy lập lại những lời này một lần nữa vì chúng thật quan trọng.
“Tôi không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác.”
70. Phục vụ tha nhân – Lm. Thu Băng.
Thánh Mathêu tông đồ thánh sử là một thanh niên yêu đời. Chàng lại có địa vị trong xã hội (làm đầu bọn thâu thuế), bao nhiêu người nhòm ngó và ai cũng biết đến tên tuổi. Thế mà sau tiếng gọi nhiệm mầu của Chúa, chàng đã từ bỏ mọi danh vọng, và hăng hái từ bỏ mọi sang trọng đời này, bán tất cả đãi tiệc bạn bè rồi đi theo Chúa Kitô, làm môn đệ trung kiên của Thầy. Ngài đã viết lại cuộc đời của Thầy một cách tỷ mỷ và tường tận trong Phúc Âm thứ nhất của ngài. Ngài còn đi giảng đạo tại Palestine và đổ máu đào mình ra sau khi Chúa về trời để minh chứng Đức Kitô thật là Thiên Chúa hằng sống đã từ trời xuống thế mặc thân phận người tôi tớ: “Con người sẽ bị nộp để những ai muốn làm lớn thì hãy tự nên kẻ rốt hết phục vụ anh chị em mình” (9:29-36).
Cũng như câu chuyện: Một tu sĩ già cầu xin Chúa hiện ra để củng cố niềm tin của ông, nhưng điều đó chẳng xẩy ra, thế rồi ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông. Vị tu sĩ già vui mừng quá đỗi, nhưng ngay lúc đó chuông tu viện vang lên báo hiệu giờ phát chẩn cho người nghèo. Khổ nỗi hôm nay lại đến phiên tu sĩ già phát chẩn cho họ, nên ông không chậm trễ lặng lẽ rời bỏ cuộc nói chuyễn với Chúa đi phát chẩn cho dân. Gần một giờ đồng hồ, ông trở lại phòng mình: Chúa đang chờ ông ỏ đó. Thế là vị tu sĩ già liền cảm tạ Chúa, nhưng Chúa trả lời ông: “Giả như con không chịu đi giúp người nghèo, thì Ta đã không ỏ lại đây đâu”.
Câu chuyện thánh Mathêu và tu sĩ già làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai đón nhận một trong những kẻ bé mọn vị danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy. Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Các ngài đã học được rằng: Phụng sự Chúa không nhất thiết là phải cầu nguyện lâu giờ, không nhất thiết là thị kiến chính Chúa, mà là phục vụ anh chị em, đặc biệt là những người ít may mắn. Chúa Giêsu vào đời đã dạy các môn đệ Ngài bài học này: “Ai muốn nên kẻ cao trọng nhất, thì hãy làm người thấp nhất để phục vụ anh chị em ngươi”.
Điều này gợi lên một vấn đề quan trọng: Làm sao có thể thực hiện được lời dạy của Chúa Giêsu? Mỗi người đều có câu trả lời thiết thực khác nhau: Tôi quen thân với một người bị liệt mất một bên chân phải vì bịnh tiểu đường cách đây đã 10 năm trời, nhưng anh cố ngồi xe lăn, lê chân đôi chân đến an ủi những người bạn khác mới bị lần đầu. Sau đó tôi lại thấy một người cụt mất cả bàn chân, đi bằng chân sắt giả bình thường như những người khác. Anh ta là thợ điện trong nhà thương. Anh vạch chân sắt cho tôi xem và khích lệ: “Người ta què một chân thì đã kêu khó kêu nhọc khi phải què chân, tôi đây bị cưa cả bàn chân mà tôi vẫn đi đứng, làm lụng được như thường, chỉ vì mình có chí khí khuất phục nó. Bạn hãy lấy ý chí mà vượt thắng mình sẽ qua cơn khó khăn này thôi”. Trong chúng ta ít người có chí khí và khích lệ bạn bè như trường hợp hai người què trên. Tuy nhiên, tôi vẫn tự hỏi được mấy người trong chúng ta biết lợi dụng những đặc ân, những hoàn cảnh khó mà khích lệ anh chị em chúng ta?
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống: Ngay lúc này, chúng ta đã làm được việc gì với tinh thần phục vụ tha nhân, cho dầu chúng ta là những người lanh lặn và hoàn bị trong nghĩa vụ?
Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời nhắc bảo của Chúa cứu thế: “Ai muốn làm lớn, thì hãy tự hạ mình làm người tôi tớ anh em. Chỉ có những ai biết tìm đến phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”.
71. Thu góp kim cương – Lm. Cao Vũ Nghi.
Người ta kể chuyện về Rabbi Menachem Sche-neerson, dù đã hơn 80 tuổi, nhưng ngày ngày vẫn đứng hằng giờ trên đường phố New York tiếp đón bất cứ ai đến với ông, để xin ông cầu nguyện, chúc lành cho họ, hay để xin ông giúp ý kiến về mọi khúc mắc trong cuộc sống. Ngày nọ, một người đã hỏi ông làm sao với tuổi già sức yếu, mà ông không tỏ ra mệt mỏi sau khi đứng nhiều giờ như vậy. Ông đã trả lời, “Khi người ta đếm kim cương, người ta đâu cảm thấy mệt.”
Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Marcô thuật lại 2 mẩu truyện: Chúa tiên báo về cuộc khổ nạn của Chúa, và các môn đệ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Điều có lẽ làm chúng ta hơi lạ là tại sao Chúa vừa tiên báo là Chúa sẽ phải chết, một tin quan trọng như vậy, thì cho dù các môn đệ không dám hỏi Chúa, ít ra, cái tin Chúa sẽ chết phải là đề tài cho các vị bàn luận với nhau. Thế nhưng các vị lại bàn tán xem ai là người cao trọng nhất. Dù sao, Chúa đã dùng cơ hội này để dạy các môn đệ một bài học về vai trò phục vụ trong Nước Chúa: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người… Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy.”
Đối với xã hội Do thái, một trẻ nhỏ được đặt ngang hàng với một người nô lệ, và chỉ sau khi đến tuổi trưởng thành, người đó mới trở thành người tự do và được quyền hưởng gia tài cha mẹ để lại. Nên khi Chúa dậy các môn đệ đón tiếp cả các trẻ nhỏ, những người bị coi là hèn kém nhất trong xã hội, đó là Chúa dậy các môn đệ phục vụ mọi người, không trừ một ai.
Khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1997, Mẹ đã sống gần 50 năm giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo trên thế giới. Mẹ đã tận tâm hy sinh phục vụ những người nghèo đói, bệnh tật, sắp chết, què quặt, những người thiếu tình thương. Mẹ cho họ nơi ăn chỗ ở, băng bó vết thương cho họ, và nhất là Mẹ ban cho họ tình thương, giúp họ lấy lại được nhân phẩm mà họ đã mất đi vì tình trạng túng bấn của họ. Chắc chắn không phải dễ gì mà Mẹ Têrêsa đã kiên trì làm việc này trong một thời gian lâu dài như vậy. Mẹ đã tìm được nghị lực để làm được điều đó nơi Chúa Giêsu, Đấng Mẹ đã hằng suy ngắm và cố gắng noi gương bắt chước.
“Con Người đến không để được phục vụ, nhưng để phục vụ…” (Mt 20:28), Chúa Giêsu đã dạy và Chúa đã thực hiện đúng như vậy. Chúa đã hạ mình xuống để rửa chân cho các môn đệ, cả kẻ rồi đây sẽ nộp Chúa, và Chúa đã dạy các môn đệ: “Ta là Chúa và là Thầy mà đã rửa chân cho các con, các con hãy rửa chân cho nhau” (Jn 13:14). Và rõ ràng hơn cả, là Chúa đã chịu khổ nạn và chịu chết để mua chuộc ơn cứu độ cho con người. Đó là tột đỉnh của sự phục vụ, dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu (xem Jn 15:13).
Dám xả thân hy sinh phục vụ tha nhân, có lẽ đó là một đức tính thiếu vắng nơi con người ngày nay. Trong gia đình, khi phải phục vụ, đó cũng chỉ là miễn cưỡng phải làm; còn khi có thể, thì chỉ tay năm ngón, mắt dính vào TV hay tờ báo, tay cầm ly cà-phê, ngồi thảnh thơi trong chiếc ghế bành. Khi ra ngoài xã hội, nếu khi nào có ra tay nghĩa hiệp, cũng chỉ là để thu hoạch những lợi ích cá nhân. Thực ra, cũng có những người hoàn toàn quên mình để phục vụ người khác theo gương Chúa Giêsu. Họ phục vụ trong yêu thương. Họ phục vụ vì nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu nơi tha nhân, nơi những người mà Chúa đã ban cho làm bạn đồng hành với họ trong cuộc sống, cho dù người đó là một người thân yêu trong gia đình, trong cùng giáo xứ hay cộng đoàn, trong cùng xưởng thợ, hay một người cần đến bàn tay yêu thương của họ.
Rabbi Menachem Scheneerson đã coi việc giúp đỡ những người bộ hành trên đường phố tìm ra được một chút ý nghĩa cho cuộc sống là đang đếm kim cương. Mẹ Têrêsa coi việc giúp đỡ những người cùng khốn nhất trong xã hội là đang phục vụ chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hy sinh chính bản thân mình để đem lại sự sống mới cho toàn thể loài người. Đó là những mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo bắt chước.
72. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
TĂM TỐI TỬ GIÁ BỪNG LÊN ÁNH SÁNG SỰ SỐNG PHỤC SINH!
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm B tuần này, tương tự như trường hợp của bài Phúc Âm tuần trước, cũng không phải là bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm được Thánh Ký Marcô trình thuật, nhưng ý nghĩa lại gắn liền với bài Phúc Âm tuần trước. Đúng thế, cách bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là những đoạn Phúc Âm Giáo Hội bỏ qua không sử dụng, thứ tự là đoạn về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi rồi đến đoạn Người trừ quỉ ám câm điếc ra khỏi đứa con trai. Giáo Hội đã lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo lần thứ hai liên quan đến cuộc Vượt Qua của Người cũng như về lời Người dạy các tông đồ cách tiếp nhận Người là Đức Kitô. Đó là lý do, như trên đã nhận định, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này tuy cách nhau hai đoạn Phúc Âm kể trên, song vẫn ăn khớp với nhau về ý nghĩa. Và như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này sẽ cho thấy lý do tại sao các tông đồ dù đã tuyên nhận “Thầy là Đức Kitô” song vẫn vấp phạm trước sự thật này.
Như Thánh Ký Marcô ghi nhận trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này về thái độ của các tông đồ sau khi nghe Chúa Giêsu mạc khải cho biết lần thứ hai về cuộc Vượt Qua của Người như sau: “Mặc dù không hiểu được lời lẽ của Người, song các vị sợ không dám hỏi Người”. Không biết có phải “các vị sợ không dám hỏi Người” là vì không muốn bị Người quở cho như trường hợp tông đồ Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước hay chăng, nhưng chắc chắn một điều là các vị chưa hoàn toàn theo Đức Kitô của Thiên Chúa, một Đức Kitô “đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28), mà là theo một Đức Kitô chính trị, một Đức Kitô đầy quyền lực, chẳng những trên thần ô uế, trên thiên nhiên tạo vật, trên tật nguyền bệnh hoạn, mà còn trên cả đế quốc Rôma nữa. Bởi thế, thậm chí cho đến ngay trước khi Chúa Giêsu về trời, các vị còn tỏ ra ngớ ngẩn hỏi Người “phải chăng Thầy sắp khôi phục lại nước Do Thái?” (Acts 1:6). Đó là lý do, với tâm trạng trần tục như thế, làm sao các tông đồ hiểu được và chấp nhận được sự thật hoàn toàn thua bại của Thầy mình, và làm sao các vị lại không tranh giành ngôi thứ, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho thấy. Bởi vậy, Chúa Giêsu phải dạy cho các vị biết đường lối của Người, đường lối của một Đức Kitô Vượt Qua chứ không phải một Đức Kitô chính trị, đường lối phải bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Người, như Người đã khuyên giục ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, đường lối làm đầu là làm cuối, làm đầy tớ mọi người.
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, ở phần cuối có một chi tiết rất lạ và khó hiểu, hình như chẳng có liên quan gì đến những lời Chúa Giêsu đang nói và đến những tác động Người đang làm bấy giờ, đó là, sau khi khuyên bảo các tông đồ về đường lối ngược đời của mình, làm đầu là làm cuối, lãnh đạo là làm tôi, Chúa Giêsu liền đưa một em bé vào ở giữa các vị, rồi vòng tay ôm lấy em mà nói cùng các vị rằng: “Ai vì Thầy đón nhận một con trẻ nào như em nhỏ này là đón nhận Thầy. Và ai đón nhận Thầy thì không phải là đón nhận Thầy mà là đón nhận Đấng đã sai Thầy”. Như thế nghĩa là gì? Phúc Âm không thuật lại cho chúng ta biết bấy giờ Chúa Giêsu chỉ nói riêng với các tông đồ thôi hay có cả dân chúng ở đấy nữa. Theo mạch văn thì Người chỉ nói riêng với các tông đồ thôi, vì Thánh Ký Marcô viết: “Các vị trở về Caphanaum và khi đã vào nhà rồi, Chúa Giêsu bắt đầu hỏi các vị ‘dọc đường các con đã bàn cãi với nhau điều gì vậy?’ Mà nếu chỉ có các tông đồ thôi thì đứa bé ở đâu ra? Phải chăng là đứa con của chủ nhà? Hay đứa nhỏ Chúa dẫn theo Người? Chỉ biết rằng, Người rất yêu thích em, đến nỗi, như Thánh Ký Marcô tỉ mỉ thuật lại cử chỉ Người “vòng tay ôm lấy em”. Và sở dĩ em được Chúa Giêsu cho xuất hiện ở đây, ngay giữa người lớn, giữa các vị tông đồ là thành phần sau này là nền tảng của Giáo Hội (x Eph 2:20), vì em là chìa khóa được Chúa Kitô sử dụng để mở cửa mầu nhiệm Chúa Kitô Vượt Qua cho các vị có thể tiến vào.
Đúng thế, “ai vì Thầy đón nhận một con trẻ nào như em nhỏ này là đón nhận Thầy” nghĩa là gì, nếu không phải ai hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ mới được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 18:3), tức mới thấu triệt được mầu nhiệm Nước Trời (x Mt 11:25,27; Lk 10:21-22), thấu hiểu được sự thật về Con Người Giêsu Nazarét là Đức Kitô Vượt Qua. Bằng không, không hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ, trái lại, chỉ thích làm đầu cho oai, như trường hợp các tông đồ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, sẽ chẳng bao giờ hiểu được Mầu Nhiệm Nước Trời, chẳng bao giờ có thể chấp nhận được một Đức Kitô Vượt Qua. Và, như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, khi Chúa Giêsu chứng thực mình là Đức Kitô đồng thời Người cũng tỏ Cha của Người ra, chính lúc Người chứng tỏ Người là Đấng Thiên Sai là Người đồng thời cũng chứng thực Cha Người là Đấng đã sai Người. Bởi thế, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, ngay sau khi khẳng định “ai vì Thầy đón nhận một con trẻ nào như em nhỏ này là đón nhận Thầy”, Người liền thêm: “Và ai đón nhận Thầy thì không phải là đón nhận Thầy mà là đón nhận Đấng đã sai Thầy”. Và chỉ khi nào biết đón nhận Thầy, đón nhận Chúa Kitô Vượt Qua, như một trẻ nhỏ, đơn sơ khiêm hạ như thế, con người mới không ham thích làm đầu, mà nếu cần phải làm đầu theo ý Chúa, họ sẽ chỉ làm theo ý Ngài, chứ không làm theo ý mình, chỉ tìm lợi ích cho chủ nhân ông của mình là Thiên Chúa, với tư cách là một tôi tớ hay quản lý, phục vụ những người trong nhà của chủ.
Tinh thần phục vụ của Kitô giáo hoàn toàn ngược lại với đường hướng của Khổng giáo. Nếu Khổng giáo chủ trương quân, sư, phụ, đến nỗi người dưới phải hết mình hy sinh cho người trên, cho dù có phải bỏ mạng sống mình, thì tinh thần của Kitô giáo, tinh thần của một Đức Kitô Vượt Qua, tinh thần của một Vị Mục Tử Nhân lành đến hiến mạng sống mình vì chiên (x Jn 10:10), là người trên phải hy sinh cho người dưới, phải phục vụ người dưới, phải quì xuống rửa chân và lau chân cho người dưới (x Jn 13:4-5). Nếu không có dân sẽ không còn xã hội thì quả thực người làm đầu phải hy sinh cho dân mới đúng, thiểu số hy sinh cho đa số để bảo tồn đa số, chứ đa số không thể hy sinh cho thiểu số, để thiểu số tồn tại. Vua không dân, Thầy không trò, cha không con, đâu còn là nước, là trường, là nhà nữa. Nếu các chính trị gia và thể chế xã hội loài người theo tinh thần phục vụ này thì thế gian đâu có chiến tranh liên lỉ từ khi lịch sử loài người bắt đầu cho tới nay. Tại sao Giáo Hội Chúa Kitô theo chế độ quân chủ mà vẫn tồn tại bền vững hơn các chế độ quân chủ dân sự, một thứ chế độ quân chủ đã bị lỗi thời từ Cách mạng Pháp 1789? Và tại sao chế độ dân chủ dân sự hiện đại trên thế giới vẫn không mang lại cho xã hội loài người phúc hạnh chân thật và vĩnh viễn, trái lại, càng văn minh, cáng nhân bản càng lộn xộn và hỗn loạn, đến nỗi ý dân là ý trời, ly dị là ý trời, phá thai là ý trời, đồng tính hôn nhân là ý trời, tạo sinh ngoại nhiên là ý trời? Phải chăng vì tinh thần của chế độ quân chủ trước đây cũng như của chế độ dân chủ hiện nay đều là những gì tương phản xung khắc với tinh thần phục vụ của Chúa Kitô? Mầu nhiệm Đức Kitô Vượt Qua chẳng những liên quan đến tinh thần phục vụ mà còn đến cả đau khổ nữa. Vấn đề cứu độ nơi Kitô giáo không phải chỉ là việc cứu con người cho khỏi đau khổ, như chủ trương “đời là bể khổ” của Phật giáo, mà là việc không sợ đau khổ, trái lại, chấp nhận đau khổ, đối đầu với đau khổ, biến đau khổ thành phương tiện cứu độ, thành đường lối chứng tỏ tình yêu tuyệt hảo. Kitô giáo cứu độ không phải chỉ là việc “ánh sáng (Nhập Thể) chiếu trong tăm tối” (Jn 1:5), mà còn là việc tăm tối Tử Giá bừng lên ánh sáng sự sống Phục Sinh!
73. Thủ lãnh là người tôi tớ – Lm. Minh Vận, CRM
Bác sĩ Charles Mayo đã sáng lập một bệnh viện mang tên Mayo Hospital tại Rochester Minnesota. Đây là một bệnh viện nổi tiếng vào bậc nhất tại Mỹ Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Một ngày kia có một nhóm chuyên viên từ Âu Châu tới thăm viếng và nghiên cứu tại bệnh viện này, rồi ngủ đêm tại tư dinh của bác sĩ Mayo. Theo tục lệ của xứ sở này, trước khi đi ngủ, những người khách để tất cả giầy dép của họ ngoài cửa phòng, để ban đêm chủ nhà sai các tôi tớ lau chùi và đánh bóng tất cả cho họ. Hôm đó, bác sĩ Mayo vì bận rộn tiếp khách, ông đi ngủ sau hết mọi người, khi đi ngang qua các phòng ngủ của khách, thấy những đôi giầy của khách để cả ngoài cửa; chính ông đã thu tất cả các đôi giầy của họ, đem vào bếp một mình cặm cụi lau chùi, đánh bóng… Xong việc, ông mới nhìn đồng hồ để đi ngủ thì té ra đã gần sáng.
MỘT BÀI HỌC CẦN THIẾT
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa và các môn đệ Người đang từ trên núi xuống, đi ngang qua xứ Galilêa về Caphanaum. Dọc đường, Thầy trò trao đổi tâm tình về việc Chúa sẽ bị nộp và bị giết chết, rồi ngày thứ ba Người sẽ sống lại… Khi về tới Caphanaum, theo tục lệ thường quen lúc vừa vào trong nhà, Thầy trò lại ngồi quây quần bên nhau tâm sự sau một cuộc hành trình mệt mỏi.
Chúa hỏi: “Hôm nay, dọc đường các con tranh luận với nhau điều gì vậy?” (Mc 9:30-37)
Các ông làm thinh, không dám hở miệng. Quả thực, với một quan niệm quá trần gian và tâm trí quá phàm tục, giống như hầu hết những người Do Thái thời đó, họ mơ tưởng rằng: Chúa Kitô đến trần gian là để giải thoát dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ người Roma, biến Do Thái thành một vương quốc uy hùng bá chủ hoàn cầu. Vì thế, các môn đệ đã nuôi một tham vọng được giữ các chức vị quan trọng trong triều đình, chung quanh Thầy mình là Vua trên muôn vua… Mặc dầu nhiều lần Chúa đã tỏ cho các ông biết những đau khổ và cái chết của Ngài sẽ phải chịu, mà tâm trí phàm tục của các ông vẫn chưa hiểu. Nhân dịp này, Chúa muốn dạy cho các môn đệ một bài học.
Chúa nói với các ông: “Ai trong các con muốn làm Thủ Lãnh, thì hãy tự làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9:34).
MỘT MẪU GƯƠNG CAO CẢ CỦA CHÚA
Sau lời giáo huấn đó, Chúa còn dùng một hình ảnh cụ thể sống động để nêu cho các ông một tấm gương, khi gọi một em bé tới, đặt giữa các ông, ôm nó vào lòng và nói với các ông: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Khi dạy những lời này, Chúa có ý đồng hóa con trẻ với chính mình Ngài, để dập tắt cái tham vọng kiêu căng và mở trí lòng các ông dễ dàng đón nhận mẫu gương cao cả Ngài sắp mạc khải cho các ông.
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa đã tha thiết bày tỏ tâm tình với các môn đệ: “Các con gọi Thầy là Chúa và là Thầy, điều đó rất thật. Thầy thật có như thế. Dầu vậy, Thầy ở giữa các con như kẻ tôi tớ, như người hầu hạ”. Chúa còn quả quyết: “Thầy đến trần gian không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ kẻ khác và nên giá cứu chuộc cho nhiều người”. Sau những lời tâm huyết đó, Chúa kết luận: “Vậy Thầy đã làm gương cho các con, các con cũng hãy bắt chước và làm như Thầy đã làm”.
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến người Tôi Tớ Thiên Chúa, như chính tiên tri Isaia thường dùng để chỉ về Chúa Kitô, vì Người là Chúa mà đã trở nên thân phận tôi đòi của mọi người để cứu rỗi mọi người (Is 40:55) và (Act 3:13. 3:26. 4:27-30).
Chúa muốn chúng ta cũng hãy noi gương Chúa, trở nên tôi tớ phục vụ anh chị em, phục vụ các linh hồn theo nghĩa vụ và sứ mạng Chúa đã ủy thác cho mỗi người, để cứu rỗi và thánh hóa mọi người như Chúa đã làm gương.
Tuân theo giáo huấn và noi gương mẫu của Thầy Chí Thánh, Giáo Hội hằng cố gắng áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, để thực thi các nghĩa vụ Chúa trao phó trong tinh thần phục vụ cách khiêm nhu; vì thế, chúng ta thường thấy: Các Đức Giáo Hoàng luôn tự xưng: “Tôi tớ của các tôi tớ Chúa”. Các Thánh cũng đều theo gương Chúa và trong khi thi hành sứ vụ tông đồ, các ngài cố gắng trở nên tôi tớ phục vụ mọi người, để chinh phục họ về với Chúa. Còn chúng ta, nếu chúng ta là những bậc phụ huynh, với tinh thần Đức Tin nhìn nhận con cái chúng ta là ân huệ Thiên Chúa trao ban, chúng ta hãy phục vụ con cái bằng một tình yêu thương của Thiên Chúa, chắc chắn con cái chúng ta sẽ trở nên người tốt, vì được truyền thụ bởi gương mẫu tốt lành, lòng đạo đức và khiêm nhu của cha mẹ.
Kết Luận
Vậy mỗi người chúng ta cũng hãy thực thi bài học Chúa dạy và cố gắng noi theo mẫu gương Chúa đã để lại cho chúng ta hôm này, để mỗi người chúng ta hãy cố gắng tự trở nên tôi tớ của tha nhân, tùy theo nghĩa vụ của mỗi người để chinh phục họ về cho Chúa.
74. Con Người bị nộp vào tay người đời
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Ở Mc 9,31, chúng ta có một bản văn lặp lại lời loan báo Thương Khó ở 8,31. Tác giả cũng nhắc lại tình trạng không hiểu biết của các môn đệ, mà ta đã thấy được tỏ lộ nơi phản ứng của Phêrô trên núi (9,5; x. 10,32). Ghi chú về địa lý của chuyến băng ngang miền Galilê nhằm nhắc nhớ rằng kể từ 8,27, Đức Giêsu không quay trở lại miền này nữa; Người đang trên đường đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu không muốn bị níu kéo vô ích trong cuộc hành trình này. Quả đúng là theo 9,33, Người lại có mặt ở Caphácnaum, nhưng ta không thể nói về một hoạt động mới ở Galilê nữa. Những gì xảy ra ở Caphácnaum chỉ liên hệ đến các môn đệ mà thôi.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Loan báo Thương Khó lần thứ hai (9,30-32);
2) Giáo huấn về đời môn đệ (9,33-37).
Phần hai là khởi đầu của một bài diễn từ đa tạp kéo dài tới c. 50. Khối này, dường như có trước TM Mc được đặt trong Diễn từ về Đời sống cộng đoàn trong TM Mt (ch. 18). Mc tìm cách tạo sự thống nhất cho đoạn này bằng cách ghép vào một vài ghi chú tiêu biểu của ngài (c. 30: bí mật; c. 31: dạy; c. 32: các môn đệ không hiểu và sợ; c. 35: “nhà” đối lại với “đường”; c. 34: cãi nhau).
3.- Vài điểm chú giải
– băng qua (30): Động từ paraporeuomai là một từ được tác giả ưa chuộng, bởi vì động từ này được dùng 5 lần trong Tân Ước, thì 4 lần ở trong TM II.
– Bị nộp (31): Ta có thể nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia (Gr 26,24), đến những Thánh vịnh về người trung hiếu đau khổ (Tv 70/71,4; Tv 139/140,5) và đến “các thánh của Đấng Tối Cao bị nộp” vào tay vua Antiôkhô Êpiphanê (Đn 7,22-25). Vậy cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ cô đọng và thể hiện trọn vẹn sự đau khổ của những người công chính, thân phận bị bách hại của các ngôn sứ, cái chết của những vị tử đạo.
Động từ nộp (paradidômi) là động từ chuyên môn để nói về sự phản bội (Giuđa “nộp” Đức Giêsu cho các thượng tế: 14,10; các vị này “nộp” Người cho Philatô: 15,1.10; ông này lại “nộp” Người cho lính: 15,15). Đức Giêsu liên tiếp bị chuyển cho quyền hành của mọi lực lượng gian ác: “bàn tay” là biểu tượng của quyền hành, quyền lực, (x. 9,13 nói về Êlia-Gioan Tẩy Giả, nhưng cũng là báo trước số phận của chính Người). Lời loan báo thứ ba sẽ nói chi tiết; và đây là một chướng kỳ quá lớn: một người Do Thái bị những người Do Thái nộp cho Dân ngoại, một sứ giả của Thiên Chúa bị nộp cho người ngoại giáo!
Cho đến lúc này, người ta vẫn có thể hiểu lời loan báo này liên hệ đến những sáng kiến và những trách nhiệm của loài người (Mc 14,21; x. Ga 19,11). Thế nhưng lời nói ở thái bị động (paradidotai, “sẽ bị nộp”) còn là một kiểu nói quanh để chỉ hành động của Thiên Chúa. Nếu vậy: “Thiên Chúa sẽ nộp Con Người vào tay loài người”, không phải là sự gian ác đang hoành hành và thắng thế, nhưng là chính chương trình của Thiên Chúa đang được thực thi xuyên qua sự ngang trái (x. Ga 3,16; Rm 8,32)! Đức Giêsu ý thức Người đang đi vào cuộc Thương Khó như biến cố trung tâm của chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
– Khi về tới nhà (33): Để các ông có thể trở thành môn đệ thực sự, cần phải có một sự dẫn nhập. Chủ đề “ngôi nhà” có mục tiêu ấy. Thường thường, Mc không xác định ngôi nhà ở đâu, nhưng xác định chức năng của ngôi nhà: nơi Đức Giêsu quy tụ môn đệ (3,20.31-35), những cuộc trò chuyện riêng tư và những giải thích dành riêng (7,17; 9,28; 10,10; x. 4,10.34), xa cách đám đông và các đối thủ. Thế nhưng lần này tác giả xác định ngôi nhà ở Caphácnaum: phải chăng là nhà Simôn (1,21-29; 2,1), là biểu tượng của cộng đoàn Giáo Hội?
– Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại (35): “Ngồi” là tư thế của vị thầy khi giảng dạy (x. c. 35; 4,1; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3;…); Người sẽ chỉ trỗi dậy khi xong câu truyện (10,1: anastas). Chi tiết “gọi Nhóm Mười Hai lại” không hợp lý, khi mà Đức Giêsu đã đang ở trong nhà với các ông. Nhưng cử chỉ ra lệnh này rất có thể nhằm nêu bật tầm quan trọng của lời giáo huấn.
– Ai muốn làm người đứng đầu … làm người phục vụ (diakonos) mọi người: Xem 10,43-44. Đức Giêsu không loại bỏ ý muốn là người đứng đầu, nhưng Người chỉ cho thấy con đường đúng đắn đưa tới đó. Lý tưởng về lãnh đạo như là phục vụ sẽ được Đức Giêsu nêu gương trong phần Tin Mừng còn lại. Khi nói đến “diakonos”, Người xác định kiểu phục vụ. Người không nhắm đến việc phục vụ cưỡng chế của người nô lệ (doulos) mà là việc phục vụ tự do của người tôi tớ, do chính người này muốn và thích; công việc này đòi hỏi sự chú tâm trọn vẹn và tất cả các khả năng của người ấy để mưu ích cho người khác.
– một em nhỏ (36): Em nhỏ ở đây không phải là biểu tượng của sự vô tội hoặc khiêm nhường, nhưng là biểu tượng của một người không có quy chế pháp lý nên không được trợ giúp (yếu thế). Đứa bé không thể làm gì cho người môn đệ. Đón tiếp một em nhỏ là làm một việc tốt cho một con người không đáng kể, mà không mong được đền đáp. Đây không phải là cho một món bố thí rồi bảo họ đi, nhưng là săn sóc và chịu trách nhiệm về họ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Loan báo Thương Khó lần thứ hai (30-32)
So sánh với Mc 8,31 và 10,32-34, ta thấy Lời loan báo thứ hai này ít chính xác hơn cả, lại ngắn hơn, nên rất có thể là lời ở tại gốc. Hơn nữa, câu này còn có kiểu chơi chữ “Con Người/người” và kiểu nói quanh theo thái bị động để diễn tả hành động của Thiên Chúa (“bị nộp”). Tất cả những chi tiết đó chứng tỏ câu này có một nguồn gốc A-ram.
Với lời tiên báo thứ hai này về Thương Khó, tác giả Mc có thể quy hướng hoạt động của Đức Giêsu về Giêrusalem cách dứt khoát hơn. Galilê không còn có thể cầm giữ Đức Giêsu nữa. Các môn đệ đi theo Thầy trên đường Người đi. Ai bịt tai lại thì sẽ không nắm bắt được các đòi hỏi tương lai.
* Giáo huấn về đời môn đệ (33-37)
Phân đoạn này bắt đầu với một xác định chính xác về địa điểm: Caphácnaum. Tuy nhiên, những gì tiếp đó không được liên kết với nơi ấy, mà có thể được nói ở bất cứ nơi đâu. Chi tiết địa lý này nhằm tạo cơ hội để Đức Giêsu ban cho các môn đệ một bài học tại địa điểm quen thuộc nhất của miền Galilê.
Đức Giêsu đã chọn ví dụ về phục vụ này vì vào thời của Người, các trẻ em bị coi như là những kẻ thấp bé nhất và bị khinh thường; với ví dụ về em bé, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy rằng các ông phải phục vụ cả những người thấp bé cùng rốt nhất. Người đã thiết lập một tiêu chuẩn tổng quát để phân biệt điều thất sự quan trọng và đúng đắn trong đời sống và trong lối cử xử của con người.
Các môn đệ phải tiếp đón Nước Thiên Chúa như các trẻ em, có nghĩa là các ông không thể đi vào đó bằng sức lực riêng. Cũng như các em bé, các ông phải cảm thấy mình được tình yêu của Thiên Chúa che chở, bảo vệ, và phải để cho mình được Thiên Chúa lấp đầy bằng những ân huệ. Chính Đức Giêsu vẫn quay về với Thiên Chúa như về với Người Cha đầy tình yêu thương (Abba) (14,36) và biết rằng Người được Cha che chở bằng tình yêu của Cha.
+ Kết luận
Chỉ có Mc mới đặt ba lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh “trên đường”, trong khung cảnh một cuộc hành trình đưa Đức Giêsu cùng với các môn đệ khởi hành từ Xêdarê Philípphê đến tận vùng cực bắc, xuyên qua miền Galilê, đến tận Giêrusalem qua nẻo Giêrikhô. Rõ ràng ngài muốn dạy chúng ta rằng kể từ lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu chính thức đi vào bước thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mạc khải dứt khoát về bản thân Người cũng như công việc của Người, bằng cách dấn vào một nẻo đường mới sẽ đưa Người đến cái chết. Nẻo đường của Con Người, nẻo đường Khổ Nạn, là một nghịch lý huyền bí chỉ được vén mở trong sự kín đáo.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu muốn lôi kéo tất cả những bạn đường của Người đi trên con đường này. Đến lời loan báo thứ ba, ta thấy Người đi đầu, một mình, còn các môn đệ đi theo sau, kinh hoàng. Chính Người hỏi đầu tiên, nhưng họ thì im lặng. Rõ ràng họ thật vất vả khi phải theo Người trên nẻo đường này. Con đường là khung cảnh giúp hiểu sự cương quyết của Đức Giêsu đi thi hành thánh ý Chúa Cha, cho thấy sự cách biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng như tâm trạng thực của các ông. Như các môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta sợ hãi khi Người cho chúng ta thấy Người là “người tôi tớ” hiến mạng sống vì chúng ta; vì chúng ta muốn tiếp tục yên ổn đọc kinh và làm các nghi thức thay vì suy nghĩ và dấn thân theo các đòi hỏi của Tin Mừng.
2. Người môn đệ được khai tâm để có phong cách người tôi tớ trong và do cộng đoàn: tại đó, người ấy sẽ học thay thế mối bận tâm về chỗ nhất gây chia rẽ và đối lập, bằng nỗ lực tìm kiếm chỗ chót, như phương thế duy nhất để kiến tạo được sự hoà thuận khắp nơi (x. 9,50). Như thế, người ấy sẽ có thể thật sự bước theo Đức Giêsu trên nẻo đường tiến về Giêrusalem. Sự cao cả được đo lường không phải bằng thành công và danh tiếng, nhưng bằng giá trị của công việc phục vụ ta cống hiến.
3. Các trẻ em có thể được coi như một địa chấn đồ (sismographes) của xã hội loài người. Nếu các em phát triển bình thường, điều đó chứng tỏ tương quan giữa những người lớn đang lành mạnh; nếu các em trở nên bất bình thường, điều đó cho thấy lối sống của người lớn có gì sai trái, méo mó. Thật ra, tất cả những gì gây tổn hại cho các trẻ em thì cũng chẳng xây dựng gì cho người lớn.
4. Bằng cách lấy một em bé làm điển hình, Đức Giêsu muốn tất cả chúng ta hiểu rằng cộng đoàn Kitô hữu phải đặt những người không đáng kể, những người nghèo nhất, tại trung tâm của các mối quan tâm của họ, của sự bạn tâm của họ. Chúng ta có thể yêu thương, “ôm lấy” những con người bị loại trừ, như thánh Phanxicô Assisi ngày xưa đã ôm hôn người phong cùi chăng?
75. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
LẦN THỨ HAI LOAN BÁO VỀ CUỘC KHỔ NẠN (9,29-32)
Điểm khởi hành của Chúa Giêsu không được xác định rõ. Tuy nhiên ghi chú địa lý lần trước cho thấy Ngài đang hiện đang ở miền cực bắc xứ Phalestin tức miền Cêsarê Phillipphê (8,27). Như thế là Chúa Giêsu băng ngang khắp miền Gialilê với các môn đệ Ngài (c. 30a) theo hướng bắc – nam. Ngài đang thực hiện điều mà người ta thường gọi là “cuộc tiến về Giêrusalem”. Giống như Matthêu và Luca, Maccô chỉ ghi nhận một hành trình duy nhất của Chúa Giêsu tiến về Giuđê và thủ đô Israel (9.30-11,1). Cuộc hành trình tối hậu này sẽ dẫn Chúa Giêsu tới định mệnh đẫm máu của Ngài. Nhưng Ngài “không muốn cho thiên hạ biết” (c.30b). Luôn luôn quy luật “bí mật Mêsia” được nêu ra. Quần chúng Galilê đã nhận được từ Chúa Giêsu những lời nói và phép lạ minh chứng đầy đủ về sứ mệnh Mêsia của Ngài. Thế mà họ đã không hoán cải. Giờ đây Chúa Giêsu phải cống hiến hoàn toàn cho việc dạy dỗ các môn đệ Ngài để, nếu có thể, dẫn dắt họ đón nhận viễn cảnh một Đấng Mêsia bị dân tộc mình ruồng bỏ (c.31a).
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các bạn hữu mình về cuộc khổ nạn. Ngài sử dụng lại các từ ngữ hầu như y hệt lần trước (x. 8,31). “Con Người” sẽ bị “nộp vào tay người ta. Động từ “nộp” dùng ở đây có nghĩa rất mạnh. Ngài sẽ bị ai nộp? Về sau Maccô sẽ xác nhận rõ những người nào sẽ bị nộp Chúa Giêsu để đưa Ngài đến cái chết: đó là Giuđa (14,10), các thượng tế (15,1) và Philatô (15,15). Tuy nhiên, ở đây hình thức động từ nằm ở thể thụ động: Chúa Giêsu sẽ “bị nộp”. Đây là một cách thức rất thông dụng dân Do Thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân mà tránh không nêu danh Người ra vì lòng tôn kính. Cần phải nhớ kỹ rằng: Cái chết của Chúa Giêsu có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra trong lịch sử. Các Kitô hữu cắt nghĩa “điều chướng kỳ” này bằng cách cho thấy nó nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đây là điều mà công thức đột ngột được dùng trong lần loan báo đầu tiên muốn đề cập: con người “phải” chịu khổ và chết (8,31). Cũng như lần trước, lần này lời hứa Phục sinh thêm vào ngay sau đó (c.31b) cũng chẳng an ủi được các môn đệ trước viễn cảnh đớn đau của cái chết. Các bạn hữu của Chúa Giêsu vẫn khư khư chẳng hiểu gì lời giáo huấn của Thầy mình (c. 32). Đây là chủ đề về “sự ngu muội” của các môn đệ trước nỗ lực liên lỷ của Chúa Giêsu nhằm dẫn dắt họ hiểu ra được định mệnh của Ngài. Như chúng ta từng thấy, Phêrô đã biểu lộ sự phản kháng thực sự trước lời loan báo về cái chết của Chúa Giêsu (x. 8,32). Lần này, sự “khép lòng” của các môn đệ được ghi nhận qua nỗi sợ hãi không dám “hỏi Ngài”, họ tránh né mọi cuộc trao đổi với Ngài về những thử thách đang chờ đợi Ngài. Như thế, độc giả có thể hiểu được rằng quả thực là khó khăn khi phải trực diện với cái chết.
VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ
Tác giả Phúc Âm đã đóng khung cuộc đời Chúa Giêsu trong môt ranh giới rất đơn giản ở đó người ta thấy lộ rõ ra hai cực: Galilê và Giêrusalem. Thực thế, sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan (1,9). Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ của mình ở Galilê, nằm ở mạn bắc xứ Palestin (1,14-9,29). Chỉ mãi về sau Ngài mới băng ngang Galiê theo hướng nam để “lên” Giêrusalem, thủ phủ xứ Giuđêa (9,30). Chính ở đó Ngài sẽ đương đầu với các nhà cầm quyền tôn giáo của dân tộc mình để rồi trải qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh (11,10-16,8).
Lộ trình theo sát đường kẻ kiểu này chắc chắn là sản phẩm của một sự “khái quát hóa”, bởi vì theo như Phúc Âm của Gioan cho biết, sứ vụ của Đấng Mêsia trải dài trên hoặc ba năm. Chắc hẳn Chúa Giêsu đã lên Giêrusalem nhiều lần theo như tập tục vào các dịp lễ của người Do Thái (x. Ga 5,1; 7,2; 10,22; 12,12).
Như thế, nơi Phúc Âm Maccô, địa lý đã được dùng để “phục vụ” cho một ý đồ cao siêu. Quả thực đối với Maccô, Galilê và Giêrusalem là hai địa danh đối kháng nhau, mỗi nơi mang một ý nghĩa riêng biệt. Galilê là nơi Chúa mở đầu sứ vụ và đồng thời là nơi Chúa thi hành sứ vụ, rao giảng cho dân ngoại. Từ thời Cựu Ước, thành phố mạn bắc này từng chịu nhiều cuộc xâm lăng của ngoại bang. Chỉ danh xưng của nó cũng nói lên được điều này: đây là một “khu vực thuộc các dân tộc” chen vai thích cánh với nhau (Is 8,23). Vậy mà chính tại Galilê Chúa Giêsu đã được dưỡng nuôi (ở Nadaret: Lc 4,16). Tại đây Ngài đã khai mạc sứ vụ (1,14). Ngài đã thiết lập ở Caphanaum và bên bờ hồ Tibêria, căn cứ hoạt động và giảng dạy của Ngài (1,16; 2,1.13; 4,1). Ở phần đầu Phúc Âm, người ta thấy đoàn lũ dân chúng Galilê hồ hởi đón nghe và theo dõi các phép lạ Chúa Giêsu ban phát cho họ.
Tuy nhiên, từ chỗ đó, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ Ngài vượt qua các biên giới. Ngài cùng họ vượt hồ Tibêria, từ bờ bên mạn tây thuộc Do Thái đi qua bờ mạn đông thuộc dân ngoại. Với hành vi lặp đi lặp lại này, Ngài không ngừng kêu mời họ mở rộng tầm nhìn để mang Tin Mừng đến với đám dân ngoại (xem toàn bộ từ 4,35-5,20). Càng bành trướng sứ vụ Chúa Giêsu càng gia tăng việc di chuyển đến những vùng không thuộc dân Do Thái chẳng hạn vùng Phênixi (hiện là Liban), vùng Tirô và Siđon (7,24.31a) hay vùng Thập Tỉnh, hiện nay là Giocđani (7,31b).
Qua việc thực hiện các chuyến đi ngắn hoặc dài nơi vùng đất dân ngoại, Chúa Giêsu muốn tập cho các bạn hữu mình quen với tư tưởng rằng Ngài không chỉ là Đấng Mêsia của dân Do Thái mà còn của dân ngoại nữa. Các vị hữu trách tương lai của Giáo Hội phải ý thức rằng Chúa Giêsu mang đến ơn cứu độ phổ quát. Đây chính là ý nghĩa lần hóa bánh ra nhiều lần thứ hai được Chúa Giêsu thực hiện ở mạn đông sông Giocđan (8,1-9), nơi đây Chúa Giêsu đã mở ra bàn tiệc Lời Ngài và ân sủng Ngài cho một dân tộc bên ngoài dân riêng của Chúa. Cũng không phải tình cờ mà ngay tại Betsaiđa, vùng đất dân ngoại, Chúa Giêsu đã mở mắt cho một người mù (8,22-26), hành vi này được ví như khúc nhạc dạo đầu cho sự khám phá ra thân thế Ngài (điều này được thực hiện ở Cêsarê Philipphê, giữa vùng đất dân ngoại: 8,27-29). Như thế không nên ngạc nhiên tại sao ngay khi vừa sống lại, Chúa Giêsu đã bảo các bạn hữu mình đến gặp Ngài “ở Galilê” là nơi Ngài đang chờ họ để sai họ theo chân Ngài ra đi mang Tin Mừng cho toàn thế giới (16,7-8.15).
Đối nghịch với Galilê, Maccô đã biến Giêrusalem, thủ đô của Do Thái, thành một cực khép kín và chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, nhóm luật sĩ và Biệt phái “đến từ Giêrusalem” đã tố cáo là Ngài bị Satan nhập (3,22) nào là Ngài để các môn đệ mình vi phạm các truyền thống cổ xưa (7,1). Chính tại Giêrusalem, trung tâm đức tin Do Thái Chúa Giêsu sắp phải đương đầu gay gắt nhất với đám thủ lĩnh tôn giáo của dân riêng Chúa (11,1-12,40). Cũng chính ở đó Ngài sẽ bị bắt, bị xét xử, bị kết án tử hình và bị hành hình do lời xúi giục của các vị cầm quyền Do Thái cao cấp nhất (14,1-15,47).
Như thế vấn đề địa lý trong Phúc Âm Maccô chứa đựng một bài học sâu sắc: là người theo Chúa Giêsu, các Kitô hữu không được để cho Phúc Âm bị đóng khung trong bất cứ loại thành “Giêrusalem” nào! Họ phải luôn luôn liên kết với Đấng Phục Sinh là Đấng từ bờ hồ Tibêria đã mời gọi họ “ra khơi”. Bởi vì “trong Chúa Kitô không còn phân biệt ai là Do Thái, ai là Hy Lạp nữa” (Thư Phaolô gởi tín hữu Galat 3,28). Ơn cứu độ phải được mang đi từ Giêrusalem và từ Galilê đến tận cùng thế giới.
THEO CHÚA GIÊSU NHƯ THẾ NÀO: CƯ XỬ VỚI TRẺ EM (9,33-37)
Mỗi lần Chúa Giêsu loan báo rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài (8,31; 9,31) Maccô đều nhấn mạnh đến sự “ngu muội” không hiểu của các môn đệ (8,32; 9,32). Sau đó, Maccô cho thấy Chúa Giêsu cố gắng nhồi nhét vào đầu óc của bạn hữu mình một bài học thích hợp với chủ đề Ngài nêu: muốn bước theo Ngài họ phải trung thành tự hạ như Ngài. Chúa Giêsu đã thực hiện việc dạy dỗ họ về chủ đề này sau lần loan báo thứ nhất về cái chết của Ngài (x.8,34-9,1). Và giờ đây Ngài lại tiếp tục dạy dỗ họ sau lần loan báo thứ hai.
Tác giả Phúc Âm gợi cho thấy đây là thời gian được chọn lựa đặc biệt để thầy trò trao đổi (c.33). Chúa Giêsu và các bạn Ngài về lại khu vực khởi đầu công việc dạy dỗ, ở tại Caphanaum và tại căn nhà cũ (x.2,1-2). Đây là nơi lý tưởng để tiến hành việc dạy dỗ riêng các môn đệ, xa đám đông ồn ào, về chủ đề mới mẻ nhưng khó khăn liên quan đến Đấng Mêsia “Tôi Tớ”. Với tư cách vị Đạo Sư sành sỏi, Chúa Giêsu khởi đầu bằng việc hỏi các môn đệ về đối tượng những “cuộc tranh luận” của họ trong lúc đi đường. Người ta đều biết rằng trong lối giáo dục của các kinh sư Do Thái, việc tranh luận đóng một vai trò quan trọng. Điều mà trong lúc đi đường các môn đệ tranh luận với nhau mang nhiều ý nghĩa. Nghe Chúa Giêsu hỏi, họ im lặng không trả lời. Thực ra họ đã tranh nhau xem ai là người “lớn” nhất (c.34). Maccô thú nhận là các vị này cảm thấy xấu hổ. Họ không dám thú nhận là đang lo tranh giành nhau danh vọng trong lúc Thầy mình thì đang tiến về một tương lai đầy khiêm hạ. Quả là tương phản rõ ràng!
Chúa Giêsu thấy mình có bổn phận can thiệp để tránh cho các môn đệ mình khuynh hướng đua đòi chay theo quyền lực. Ngài cho họ một bài học sống động (c.35a). Maccô diễn tả cho thấy Chúa Giêsu ngồi xuống để biểu lộ cung cách một vị Sư Phụ mà các đệ tử phải chú tâm lắng nghe. Đây là tư thế của người giảng dạy đầy uy quyền (x.4,1). Ngài quy tụ “nhóm Mười Hai” lại. Lối nói này hiếm khi được Maccô sử dụng (3,14; 6,7). Và khi sử dụng nó Maccô muốn nói rằng các tông đồ là những vị hữu trách tương lai của Giáo Hội. Chúa Giêsu nói với họ một cách hoàn toàn rõ ràng (c.35b). Đại khái trong lời ngỏ với các vị thủ lãnh tương lai của dân Chúa, Chúa Giêsu đã đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại. Muốn làm đầu thì phải làm cuối mọi người, muốn chỉ huy thì phải làm “tôi tớ tất cả”. Nghịch lý này rõ ràng chỉ có ý nghĩa qua tấm gương Chúa Giêsu biểu lộ nơi thân thể và sứ mệnh của Ngài. Là Đấng Thủ Lãnh, Ngài đã đặt mình vào vị trí rốt hết để phục vụ mọi người. Sứ điệp của Ngài liệu có được người ta nghe không? Chúa Giêsu tin rằng cần phải minh hoạ lời Ngài nói bằng một cử chỉ có ý nghĩa. Ngài đặt một em bé vào giữa họ rồi ôm lấy em (c.36a). cử chỉ này tạo ra một ảnh hưởng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa đám môn đệ rồi ôm hôn nó: tất cả điều này đi ngược với tập tục đương thời. Xã hội thời xưa không quan tâm đặc biệt đến trẻ em. Ngược lại, trẻ em không được người lớn đối xử như là những “nhân vật” còn non trẻ, người ta thường xem chúng là những sinh vật vô nghĩa. Chúng mà biết nói năng, lý luận gì cho ra trò. Thậm chí họ còn thường xua đuổi, khai trừ chúng ra khỏi cộng đồng tôn giáo vì cho rằng chúng ngu dốt không biết lề luật.
Như thế Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục hồi mang hai chiều kích (con người và tôn giáo) khi Ngài đặt đứa bé – tiêu biểu một hạng người bị khai trừ – vào giữa đám bạn hữu Ngài. Và Ngài nhấn mạnh hành động này bằng một lời nói nặng trĩu ý nghĩa (c.37a). Cộng đoàn Kitô hữu sẽ phải nhớ tới lời này. Nhân danh Chúa Giêsu tiếp nhận một đứa trẻ – ở đây tượng trưng cho kẻ nghèo khó vào mọi kẻ bị khai trừ – chính là tiếp nhận chính Chúa Giêsu. Đây là câu trả lời đầy kinh ngạc Chúa Giêsu dùng để đáp lại câu hỏi được các môn đệ tranh cãi nhau trong lúc đi đường: “Ai là kẻ cao trọng nhất?”. Việc đua đòi danh vọng đã trở nên sỗ sàng đối với những kẻ bước theo Chúa Giêsu vào lúc Ngài đang đi trên con đường khiêm hạ dẫn đến đau khổ và cái chết. Trở nên “tôi tớ” mọi người, mở rộng vòng đai khép kín của Giáo Hội đến tận những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất chính là “sứ vụ” Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ Ngài. Để nhấn mạnh thêm bài học trang trọng này Chúa Giêsu đã kết luận bằng một từ nói về “Sự tiếp đón” (c.37b): Chúa Giêsu chính là sứ giả của Thiên Chúa. Đón nhận Ngài trong bản thân những kẻ bé nhỏ chính là đón nhận chính Thiên Chúa. Thiên Chúa mang khuôn mặt một con trẻ, đó là sứ điệp bất ngờ, rất tân kỳ của trang Phúc Âm khả ái này.
76. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết.
Một lần nữa, chúng ta lặp lại đề tài Chúa muốn ẩn thân. Đức Giêsu không được người ta hiểu, bị đám đông dân chúng bỏ rơi, bây giờ hoàn toàn chỉ chăm lo cách riêng vào việc đào tạo một số môn đệ của Người.
Phát xuất từ những vùng miền Bắc đi về miền Xêxarê Phi-líp-phê, ở nguồn sông Giođan, Đức Giêsu tiến gần về Giê-ru-sa-lem. Người băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Người đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Người không tìm dịp nói chuyện trước công chúng. Người chỉ nói với các tông đồ, là mầm mống của cộng đoàn Kitô hữu tương lai và những gì Người sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo Hội.
Vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”.
Trong khi Đức Giêsu không muốn người ta dùng tước vị “Con Thiên Chúa”. Người luôn đúng, nhất là trong giai đoạn thứ hai đời sống tác vụ của Người, tước vị “Con Người”. Ngược lại những gì thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ, đây không phải là việc nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu. Thực tế, những Kitô hữu đầu tiên, phát xuất từ đạo Do Thái đã gán cho tước vị này một ý nghĩa sâu đậm: Đối với họ, tước vị này ám chỉ Đấng Mêsia do ngôn sứ Đanien đã báo trước (7,13-14). “Con Người” này có nguồn cội từ trời, Người từ trên mây trời mà xuống… Người đến nhân danh Thiên Chúa để hoàn tất công trình của Chúa.
Chúng ta thấy cách nói của Đức Giêsu muốn điều chỉnh lại ý niệm mà các tông đồ đã có về Đấng Mêsia. “Con Người Thần Thánh” từ trên mây trời hiện đến cách vinh quang mà các bạn đang mơ ước, thì Đấng đó sẽ bị giao nộp không chút tự vệ “vào tay loài người”. Các bạn chớ nhầm lẫn Đấng Mêsia, chớ nhầm lẫn Thiên Chúa! Đức Giêsu thực sự do Thiên Chúa mà đến, nhưng không phải là Đấng mà loài người thường tưởng nghĩ.
Bị giao nộp.
Một Thiên Chúa ‘bị giao nộp’, một Thiên Chúa được ‘tăng ban’, một Thiên Chúa ‘Tình yêu’ chứ không phải một Thiên Chúa toàn năng, toàn quyền. Chúng ta tin không phải ở một Thiên Chúa toàn năng, nhưng là một Người Cha Toàn Năng, tin ở Đấng đã trao hiến hết mình, Đấng đã giao nộp mình vì chúng ta, mà Thập giá của Đức Giêsu là “mạc khải” rõ ràng và dứt khoát.
Cụm từ “bị giao nộp vì chúng ta” là những từ chủ yếu trong khoa thần học ban sơ. “Bị giao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).
“Người đã không tha chính con của Người, mà đã giao nộp cho tất cả chúng ta” (Rm 8,32).
“Người đã thương yêu và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).
“Anh em hãy sống trong tình bác ái như Chúa Kitô đã thương yêu chúng ta và đã nộp mình” (Ep 5,2).
“Chúa đã giao nộp Người vì tội của chúng ta” (Is 53,2).
Chứng từ này được nhắc lại cho chúng ta mỗi khi cử hành Thánh Thể; “Đây là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.
Họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Kể từ lúc Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêxarê Phi-líp-phê, thì đây là việc loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó. Toàn thể Tin Mừng của Maccô dẫn đưa chúng ta đến chóp đỉnh này: Sự tử nạn và Phục sinh. Đó là trọng tâm kinh Tin kính của chúng ta: Hai biến cố lịch sử. Đây thật là tiểu sử lạ lùng của một con người. Không phải sự sống của Người là quan trọng mà là “cái chết” của Người và việc Người “sống mãi”. Chúng ta không thể không lưu ý con người đó luôn luôn báo trước, cùng một lúc và một cách bình tĩnh rằng, Người sẽ “sống lại” sau khi chết. Đó cũng như Người coi cuộc sống thứ nhất của Người ở Palestine thời đó, không phải là cuộc sống quan trọng nhất.
Ngày nay, chúng ta có thực sự tin rằng Đức Giêsu vẫn đang sống không?
Mầu nhiệm Phục sinh là cốt yếu của Đức tin chúng ta. Và đó là đặc quyền duy nhất và căn cốt của Đức Giêsu. Không có một vĩ nhân nào khác dám tự phụ giải phóng được con người, khỏi định mệnh cuối cùng, là cái chết. Cả Đức Phật và Mahômét hay bất cứ một chủ thuyết nhân bản nào khác, cũng không đưa ra được một giải pháp trước thái độ lo âu lớn lao của con người luôn biết mình sẽ phải chết. Chỉ có Đức Giêsu, một cách bình tĩnh và chân thành đã dám nói: “Họ sẽ giết Tôi, nhưng Tôi sẽ sống lại”.
Đó là ánh sáng chủ yếu Chúa đã soi chiếu trên cái chết: Đức Giêsu biết rằng đó không phải là chấm dứt tất cả. Người biết những gì đang chờ đợi Người. Khi trải qua giây phút bi thảm của “hơi thở cuối cùng”, Đức Giêsu biết rằng Người không rơi vào hố đen của hư vô, nhưng vào vòng tay của Chúa Cha. Và điều đó đã dệt nên bài ca hy vọng của người Kitô hữu trong nghi thức từ biệt cuối cùng với người chết: “Chúa Cha đợi bạn, và cánh tay của Thiên Chúa sẽ mở ra đón bạn”.
Chúng ta cứ tin chắc rằng cái chết là như vậy không? Đây là sứ điệp của mọi người tử vì đạo. Đó là niềm tin vững chắc của những tín hữu đích thực. Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Chúa. Tin Mừng không hề tô vẽ cho các tông đồ. Đó cũng là những con người đáng thương như chúng ta. Thánh Maccô không những nhấn mạnh đến trí óc trì trệ, nông cạn, hẹp hòi của các ông. “Họ không hiểu”(Mc 6,52; 8,17; 8,21; 9,32). Do đó nhóm Mười Hai là một tiêu biểu cho những con người thông thường, trung bình. Người ta tự hỏi làm sao Giáo Hội và suốt dòng lịch sử vĩ đại của Giáo Hội, lại phát sinh từ những tưởng tượng và dự án của các tông đồ được. Quả thực các ông đã được một biến cố thay đổi. Các ông đã được nâng lên cao khỏi chính mình, và được một sức mạnh mới bao bọc. Và luôn diễn ra như thế đối với Giáo Hội.
Nếu chỉ là một Giáo Hội của loài người, thì Giáo Hội đã bị tiêu diệt từ lâu bởi những khiếm khuyết và tội lỗi của các nhà lãnh đạo và thành phần của Giáo Hội. Nhưng chúng ta có nên xét đoán Giáo Hội đơn thuần theo quan điểm của con người không?
Trong lúc này, các tông đồ đã sợ Đức Giêsu và họ giữ một thứ im lặng đến khó chịu “họ đã sợ không dám hỏi Chúa”.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành phố Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh.
Các ông chưa nói được lời nào. Các ông giữ im lặng trước câu hỏi của Chúa. Sự “lúng túng” giữa họ trở nên nặng nề như trong một nhóm mà người ta không còn đồng ý với nhau nữa.
Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau về chuyện ai là người lớn hơn cả.
Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của họ!
Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, khiến Người “giao nộp” mạng sống. Còn các ông thì chỉ nghĩ đến những “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Mêsia, và về Thiên Chúa. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêsia, một vương quốc trần gian, mà các ông đã tranh luận xem ai là “thủ tướng” khi Chúa và các ông thắng thế.
Nhưng xin các bạn đừng quá nghiêm khắc xét đoán việc các Ngài không hiểu vai trò của Chúa Giêsu. Mặc dù đã được soi dẫn với ánh sáng Phục sinh, ngày nay, chúng ta có thể nói rằng mình chấp nhận sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa, sự im lặng của Người, sự thất bại của Thập giá không? Chúng ta không tiếp tục xin Chúa can thiệp để chiến thắng sao?
Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
Trong cuộc thương khó mà Chúa vừa loan báo, Chúa Giêsu đã tự hạ thành “kẻ sau rốt và là “đầy tớ” của mọi người. Thực sự, Thiên Chúa là như thế. Tại sao lời khẳng định này lại có vẻ như một cậu phạm thượng đối với một số người? Đúng ra, Thiên Chúa là Đấng trên hết, cao cả nhất, nhưng Chúa cũng là “Người đứng đầu trong phục vụ”, Người đứng đầu trong tình yêu.
Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa và điều đó phải lắm, vì Ta đúng là như thế, thế mà Ta đã rửa chân cho các con, như một người đầy tớ” (Ga 13,13). Thiên Chúa thực sự là Đấng Toàn Năng, nhưng là Toàn Năng để “phục vụ đến cùng”. “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,42-45).
Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ trật tự này: Người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.
Nhưng một lần nữa, đó không phải là để làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chữ” mà thôi! ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, giúp chế ngự xu hướng tranh đấu không ngừng giữa loài người, để thống trị để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.
Người dắt một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Trong những tập thể chúng ta sống, trong lòng chúng ta và trên thế giới, bạo lực không ngớt gia tăng. Trong cơn thủy triều đen tối đang dâng lên như thế, Đức Giêsu đề nghị cách tượng trưng sự yếu đuối của đứa trẻ như một lý tưởng. Đứa trẻ là sinh vật nhỏ bé trong xã hội, ít được kính nể, và người ta gạt bỏ nó dễ dàng, kể cả bằng cách tội lỗi mà lại hợp pháp. Đứa trẻ đúng là kẻ “nghèo hèn”, không tự vệ được, “bị giao nộp” cho những kẻ mạnh mẽ quyền thế hơn nó. Nhưng Chúa lật ngược những tiêu chuẩn xã hội về quan niệm ngôi thứ: Người ta nói, kẻ sau rốt là kẻ đứng đầu. Bây giờ Người nói tiếp, dưới mắt Thiên Chúa kẻ nhỏ bé lại là người lớn nhất. Đức Giêsu đặt đứa trẻ ở giữa cộng đoàn Kitô hữu.
Tôi dành ít thời giờ để niệm tưởng hình ảnh Đức Giêsu đang vuốt ve và ôm ấp đứa bé này. Sự cao cả của Kitô hữu được đo nghiệm theo phẩm chất của việc phục vụ những người “thấp hèn” nhất, những kẻ kém may mắn nhất. Chúng ta sẽ bị xét đoán theo tiêu chuẩn đó (Mt (25,31). Vả lại, đây không phải là một sự “nô lệ”, vì chúng ta phục vụ Đức Giêsu khi chúng ta phục vụ những kẻ thấp hèn. Và qua Đức Giêsu, chúng ta phục vụ chính “Đấng” đã tạo nên thế gian và đã trao ban Con Một của Người.
77. Chú giải của Fiches Dominicales.
‘TRÊN ĐƯỜNG’, MỘT LỜI LOAN BÁO LÀM HOANG MANG – ‘Ở NHÀ’, MỘT LỜI DẠY GÂY KINH NGẠC
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. ‘Trên đường’, một lời loan báo làm hoang mang.
Ngay sau khi Phêrô tuyên tín ở miền Xê-sa-rê Phi-lip-phê, lần đầu tiên, Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó và sống lại của Người (Mc 8,27-31). Sau cuộc hiển dung trên núi cao (9,2-8), Chúa đang băng qua miền Galilê cùng môn đệ. “Người không muốn cho ai biết, thánh sử ghi rõ, bởi vì từ này Người muốn dùng thời gian để huấn luyện các môn đệ. Người cố gắng hướng dẫn các ông chấp nhận cái viễn tượng đảo lộn hướng tư duy là: một Đấng Mêsia bị chính dân Người ruồng bỏ.
‘Trên đường’ (câu 33), địa điểm tượng trưng cho cuộc hành trình về Giêrusalem, Người giáo huấn họ bằng cách nhắc lại lời loan báo lần trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” Từ ngữ Chúa dùng hầu như giống hệt lần trước.
Cũng như ở câu 8,31, Đức Giêsu nói về chính mình bằng cụm từ “Con Người”, một nhân vật bí nhiệm và uy quyền, mà ngày tận thế sẽ đến trên đám mây để phán xét loài người (Đn 7,13-14).
– Nhưng khác lần trước, lần đó, Chúa loan báo Người sẽ phải “chịu đau khổ nhiều” “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ”, còn ở đây, Người chỉ nói “bị nộp vào tay người đời”, giống những vị tử đạo trong Cựu ước bị nộp vào tay quân bách hại (Gr 26,24; Tv 71,4; Tv 1401 Đn 7,22).
Khi áp dụng cách nói này cho chính mình, Đức Giêsu coi cuộc khổ nạn của Người giống với cuộc bách hại các ngôn sứ và người công chính trong Cựu ước phải chịu; và Người cũng như bước trên con đường trung tín với Thiên Chúa đến tận cái chết.
“Bị nộp”. Đức Giêsu quả thật đã bị Giuđa nộp cho các thượng tế (14,10): bị các thượng tế nộp cho Philatô (15,10) và sau cùng bị Philatô giao nộp cho lý hình (15,15).
Một chi tiết đáng ngạc nhiên: Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn của Người thì hiện tại: Con Người bị nộp vào tay người đời”. Chắc chắn thánh sử muốn chỉ một tương lai gần, khi dùng thì hiện tại. Nhưng cũng có thể ông muốn nói rằng kế hoạch cứu độ: của Chúa Cha đã bắt đầu được thực hiện, tuy không thấy nhưng cũng không thể đảo ngược.
Các môn đệ vẫn một mực nghe mà không hiểu. Hervieux giải thích: Vẫn là vấn đề không hiểu của các môn-đệ trước những cố gắng của Đức Giêsu, khi Người muốn đưa các ông vào mầu nhiệm cuộc đời Người. Như ta đã thấy, Phêrô đã tỏ thái độ phản loạn đích thực khi nghe loan báo về cái chết của Chúa (8, 32) Còn lần nầy, tâm trí kín mít của các môn đệ được tỏ rõ bằng cách các ông không dám hỏi Thầy, không dám bàn tiếp với những thử thách đang chờ đợi Thầy. Qua đó, chúng ta thấy rằng trực diện với cái chết khó chừng nào! (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 133).
2. ‘Ở nhà’, lời dạy gây kinh ngạc.
Giờ đây chúng ta ở Ca-phác-na-um tức là “ở nhà”, địa điểm tượng trưng cho những cuộc trò chuyện kín đáo, chủ ý dạy dỗ các với cương vị một tôn sư dầy dạn kinh nghiệm, Người hỏi các môn đệ về đề tài mà trên đường các ông đã tranh luận sôi nổi, những cuộc tranh luận mà người ta thường coi là quan trọng trong quá trình huấn luyện của các vị tôn sư. Các ông không dám nói sự thật nên ngậm miệng làm thinh. Bởi vì trong khi Thầy mình loan báo về con đường khổ nạn sắp tới, thì các ông chỉ tranh luận về ngôi thứ, về vinh dự: “Các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả “.
Rồi, Đức Giêsu ngồi xuống gọi “Mười Hai ông lại”. “Mười Hai ông” một danh xưng hiếm thấy nơi Máccô (3,14; 6,7), điều đó nghĩa là giáo huấn mà Chúa sắp nói đây nhằm nhóm các Tông đồ, những người nắm giừ trọng trách trong Giáo Hội tương lai. Giáo huấn này đảo lộn ngôi thứ thường tình trong phẩm trật nhân loại: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Hervieux giải thích: Chúa lấy ‘người rốt hết’ đối chọi với ‘người đứng đầu’, lấy ‘người đầy tớ mọi người’ đối chọi với ‘người cai quản’. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người (Sđd, trang 35).
– Và để biết chắc mọi môn đệ đều hiểu, Chúa đã soi sáng lời nói bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa. Thời đó người ta coi trẻ nhỏ là “đồ bỏ” vậy mà Đức Giêsu đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.
Hervieux giải thích tiếp: Cử chỉ này có một tầm quan trọng không ngờ. Đem một em nhỏ đặt vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó: các cử chỉ này đều đi ngược phong tục hồi đó. Xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Trái lại, thay vì đối xử với chúng như những người sẽ lớn, người ta coi chúng như “vô giá trị”, như đồ bỏ. Tục lệ còn dạy người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo vì chúng không hiểu biết Lề Luật (Sđd, trang 135- 136).
Như vậy, đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ, em nhỏ ở đây tượng trưng cho những người nghèo, những người bị loại trừ, Đức Giêsu đã trả lời rõ ràng cho vấn đề các ông tranh cãi lúc đi đường: “Ai là người lớn nhất?” – “Tìm kiếm vinh dự là điều trơ trẽn nơi những người theo Đức Giêsu, lúc người đang bước vào con đường khổ nhục của cái chết. Làm “đầy tớ” mọi người mở cửa pháo đài Hội Thánh cho những người hèn kém nhất, những người nghèo đói nhất, đó là “dịch vụ” mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải thi hành. Để thêm trọng lượng cho giáo huấn này, Đức Giêsu kết luận bằng từ “đón nhận”: Người là Đấng Chúa Cha sai đến. Đón nhận Người qua những ai nhỏ bé là đón nhận chính Chúa. Thiên Chúa mặc hình dáng một trẻ nhỏ đó là một sứ điệp bất ngờ, rất độc đáo của trang Tin Mừng đẹp đẽ hôm nay (Sđd trang 136).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Thang giá trị mới
(Đức Cha L. Daloz trong “Qui don est-il?”, DDB, trang 55-56).
Đây là lần thứ hai Đức Giêsu loan báo cho môn đệ điều sẽ xảy đến cho Người. Người biết mình sẽ đi về đâu và người nói không úp mở về cái chết gần kề và sự sống lại của Người. Phải chăng Người đã phải chịu nỗi lo âu về cuộc khổ nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này?”. Người còn lo lắng hơn không hiểu gì và họ sợ không dám hỏi Người. Phải chăng họ cũng tiên cảm được mối nguy đang rình chờ? Chúng ta đôi khi cũng không hiểu Đức Giêsu nói gì. Có lẽ vì ta sợ phải hiểu chăng? Qua im lặng, các môn đệ bình thản ở lại trong sai lầm: Nước Trời mà họ mơ tưởng là nước mà ở đó họ đóng vai ông lớn, là nơi mà họ tranh cãi xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất. Khi Đức Giêsu hỏi họ: “Lúc đi đường các anh đã tranh luận gì thế?”, họ làm thinh. May thay, Đức Giêsu dịu dàng và kiên nhẫn loại bỏ sự im lặng và suy nghĩ sai lầm của họ. Vương quốc của Chúa là vương quốc của người phục vụ, là nơi người trước hết trở nên rốt hết, người nhỏ bé nhất trở nên người lớn nhất. Đức Giêsu hiểu rất rõ bản tính con người. Người không cho phép các môn đệ giam mình trong sự thinh lặng để che giấu nỗi sợ hãi và tham vọng. Người đi bước đầu, loan báo, chất vấn, giải thích. Rồi Người đặt một em bé ở giữa các ông, để tỏ cho các ông thang giá trị mới, nó bắt nguồn từ tình yêu đối với Chúa Cha”.
2. “Ai là người lớn nhất?”
(Noel Quesson, trong “Les entretiens du Dimanche. Année B”, Droguet & Ardant, trang 194-195).
“Trong xã hội loài người, tự nhiên ai cũng muốn chiếm được vị trí quan trọng. Đó cũng là luật lệ của thế giới loài vật, một thế giới rất có phẩm trật: luật rừng xanh, nơi kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu, nơi người lớn thống trị người bé. Nhưng Đức Giêsu đến đảo ngược lô-gic đó: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm người rốt hết. Ai muốn làm người lớn thì hãy làm đầy tớ mọi người”.
Những câu nói khiêu khích, cách mạng này không do các tông đồ sáng chế ra đâu, vì chính họ là người mong chiếm được địa vị cao. Nhưng chính Đức Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Nếu chỉ đổi chủ mà thôi thì không hơn gì: nếu người bị thống trị lại trở thành người thống trị, nào có thay đổi gì. Vậy mà lịch sử loài người lại đầy dẫy những cuộc nguỵ cách mạng, những người hò hét “đả đảo quân bóc lột” lại trở thành nỗi kinh hoàng cho những người thấp cổ bé miệng.
Đức Giêsu đề nghị một giải pháp khác: ông chủ tự nguyện đầy tớ mọi người. Đây là một cuộc cách mạng diễn ra trong nội tâm con người: một cuộc đổi mới tâm hồn, một sự từ bỏ truyền thống trị người khác.
Để làm điều đó Đức Giêsu nêu ra một minh hoạ: đứa bé. Trẻ em là một sinh vật nhỏ bé, không được trọng vọng loài xã hội, không có khả năng tự vệ, lại dễ bị người ta loại bỏ, cả bằng cách phạm pháp, như giết nó ngay khi còn trong bào thai nghĩa là vào lúc nó không có một chút khả năng nào để tự vệ. Đứa bé là một kẻ nghèo hèn đúng nghĩa nhất vì nó chẳng có quyền gì. Lúc nào và ở đâu, người ta cũng có thể trao nó vào tay kẻ mạnh, kẻ có quyền lực.
Vào những ngày này, khi bắt đầu các hoạt động, chúng ta tự hỏi xem mình sẽ phục vụ ở đâu?.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: SỐNG ĐỜI SỐNG THIÊN CHÚA (14/06/2025) .: BA BỘ MẶT (14/06/2025) .: BA NGÔI Ý NGHĨA (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU (14/06/2025) .: SỐNG MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM MỘT CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: HAI GIỜ TRONG MƯA (14/06/2025) .: GIA ĐÌNH KITÔ HỮU HIỆP THÔNG NÊN MỘT (14/06/2025) .: TÌNH YÊU KỲ DIỆU (14/06/2025) .: THIÊN CHÚA BA NGÔI (14/06/2025) .: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU (14/06/2025) .: TOÀN BỘ SỰ THẬT (14/06/2025) .: GIẢNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN (07/06/2025) .: CHÚA THÁNH THẦN ĐẤNG THÔNG BAN MỌI SỰ (07/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam